10 nguyên nhân tự tử hàng đầu năm 2022

Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 các năm 2020 - 2022, tự tử càng đáng báo động khi tình trạng trầm cảm, lo âu và rối loạn tâm thần tăng 3 - 5 lần so với bình thường - Ảnh: TRẦN HUỲNH

Tọa đàm “Tiếp cận đa ngành trong nghiên cứu, phòng ngừa và can thiệp tự sát ở trẻ em và thanh thiếu niên” diễn ra vào ngày 4-5, do Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ sức khỏe tinh thần Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn [Đại học Quốc gia TP.HCM] tổ chức. Qua đó có thể thấy được bức tranh toàn cảnh của vấn nạn tự tử ở trẻ em và những phương án can thiệp cần đề ra.

Những con số “giật mình”

41.000 người tự tử mỗi năm, cứ 40 giây lại có một người chết do tự tử; tình trạng tự tử ở thanh thiếu niên 15 - 24 tuổi đã tăng hơn 40% trong thập kỷ qua... - những con số và vấn đề đáng báo động được PGS.TS Trần Thành Nam, chủ nhiệm khoa các khoa học giáo dục Trường đại học Giáo dục [Đại học Quốc gia Hà Nội], đưa ra tại tọa đàm.

Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới [WHO], trên thế giới, hằng năm có khoảng 800.000 người chết vì tự tử mỗi năm [tương đương cứ 40 giây lại có một người chết do tự tử]. Theo số liệu thống kê năm 2014, tự tử là nguyên nhân thứ hai gây tử vong cho thanh thiếu niên 10 - 24 tuổi.

Tình trạng tự tử ở thanh thiếu niên 15 - 24 tuổi đã tăng hơn 40% trong 10 năm qua. Tại Việt Nam, thực trạng tự tử ngày càng trẻ hóa và có dấu hiệu gia tăng, trên thực tế con số có thể nhiều hơn so với số liệu thống kê. Phương tiện phổ biến nhất được trẻ em dưới 15 tuổi sử dụng để tự tử là nhảy từ các tòa nhà cao tầng hoặc chạy vào dòng xe cộ.

“Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 các năm 2020 - 2022, tự tử lại càng đáng báo động khi tình trạng trầm cảm, lo âu và rối loạn tâm thần tăng 3 - 5 lần so với bình thường. Theo khảo sát của WHO ở 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, 6 khu vực cho thấy số ca tăng đáng kể, số người khám sàng lọc đáp ứng trầm cảm tăng 535%. Cũng theo đó trong giai đoạn này, nhóm tuổi 11 - 17 có tỉ lệ tự tử cao nhất”, PGS.TS Trần Thành Nam cho biết.

Can thiệp tự tử thế nào?

Theo ThS.BS CKI Giang Ngọc Thụy Vy, trưởng khoa tâm lý y học Bệnh viện Tâm thần TP.HCM, sự quan tâm của gia đình và xã hội chính là một trong những yếu tố quan trọng giúp bảo vệ trẻ khỏi tự sát.

“Ngay từ ban đầu cần xây dựng cho mỗi người có khả năng hồi phục trở lại trước những thay đổi biến cố trong cuộc sống. Việc phòng ngừa tự sát phải được xây dựng từ trong gia đình, cộng đồng, trường học… Đến khi có những vấn đề sẵn có kích hoạt thì vẫn có một lực lượng để can thiệp, không chỉ là can thiệp ở bệnh viện, phòng khám mà còn là những nơi khác, những đường dây hỗ trợ cho vấn đề khủng hoảng tự sát”, BS Vy chia sẻ.

Dưới góc nhìn xã hội học, ThS Nguyễn Thị Thanh Tùng [Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM] cho rằng cần nhìn nhận các yếu tố nguy cơ đối với hành vi tự sát ở trẻ em và thanh thiếu niên đến từ chính cá nhân và bên ngoài. Cũng như tăng cường nguồn nhân lực về chất lượng và số lượng ở tất cả các cấp thông qua đào tạo, đặc biệt đối tượng tư vấn viên, bác sĩ tâm thần, chuyên gia tâm lý…

“Dạy những kỹ năng cần thiết để ứng phó với các khó khăn về cảm xúc và tâm lý. Giảm bớt áp lực học hành bằng cách đánh giá lại lượng kiến thức mà học sinh cần học. Đầu tư xây dựng và phát triển mô hình phòng tham vấn tâm lý học đường ở tất cả các trường học. Cung cấp cho phụ huynh những kỹ năng cần thiết như nuôi dạy con, giao tiếp với con cái”, ThS Thanh Tùng nói.

Bên cạnh đó, TS tâm lý học Lê Nguyên Phương đưa ra quan điểm, để bảo vệ trẻ em khỏi nguy cơ tự tử cần có những biện pháp toàn diện, đánh giá toàn diện: đánh giá khả năng trẻ em có thể tự tử, đánh giá các yếu tố nguy cơ [về môi trường, gia đình, xã hội] và đánh giá các yếu tố bảo vệ [những yếu tố tích cực như: có bạn bè, thích tập thể thao, nghệ thuật...].

“Yếu tố bảo vệ trẻ đầu tiên là cha mẹ, thông qua sự thông hiểu, đồng cảm và hỗ trợ con. Cha mẹ phải theo dõi xem con đang quan tâm vấn đề gì, đọc gì, xem gì và thảo luận với con về nội dung đó, sau đó cùng con đưa ra những kết luận tích cực cho cuộc sống”, TS Phương nhắc nhở.

Hành vi tự sát là một trong những nguyên nhân gây tử vong khá thường gặp. Nguyên nhân này dẫn đến những thiệt hại về con người không hề nhỏ. Vì những lý do chủ quan và khách quan mà con người đã có hành vi nguy hiểm này. Vậy thì nguyên nhân của tự sát là do đâu? Làm sao để hạn chế tình trạng này? Tất cả sẽ được Bác sĩ Đào Thị Thu Hương giải đáp qua bài viết sau đây.

Nội dung bài viết

  • 1. Khái niệm về hành vi tự sát
  • 2. Tình hình tự sát trên thế giới
  • 3. Những nguyên nhân của hành vi tự sát
  • 4. Những yếu tố nguy cơ của hành vi tự tử
  • 5. Những dấu hiệu của hành vi tự sát sắp diễn ra
  • 6. Những hành vi tự sát phổ biến
  • 7. Cách nói chuyện với người đang có ý định hoặc hành vi tự sát
  • 8. Đánh giá những người có nguy cơ tự sát
  • 9. Làm sao để ngăn ngừa hành vi tự sát và ý định tự sát?
  • 10. Vấn đề điều trị

1. Khái niệm về hành vi tự sát

Hành vi tự sát được khái niệm là khi một người vốn có ý định tự tử. Sau một thời gian ngắn hoặc dài, người đó sẽ có những hành động thực tế cho ý định tự sát. Mục đích cuối cùng là tìm đến cái chết, tự mình giết chết bản thân mình.

Hành vi tự sát không phải là một bệnh tâm thần. Mà nó là một hậu quả nghiêm trọng tiềm ẩn của các rối loạn tâm thần có thể điều trị được. Bao gồm:

  • Trầm cảm nặng.
  • Rối loạn lưỡng cực.
  • Stress sau sang chấn.
  • Rối loạn nhân cách ranh giới.
  • Tâm thần phân liệt.
  • Rối loạn sử dụng chất kích thích.
  • Rối loạn lo âu và rối loạn ăn uống như chứng ăn vô độ và chán ăn tâm thần.

Ngoài ra, hành vi này cũng có thể xuất phát từ những suy nghĩ bồng bột nhất thời. Cũng có thể do không kiểm soát được bản thân, cảm xúc, xảy ra trong một số tình huống điển hình như:

  • Mất mát người thân.
  • Túng quẫn do nợ nần.
  • Buồn vì chuyện tình cảm.
  • Thi hỏng.
  • Thất bại trong công việc,…

Tham khảo bài viết: Suy nhược thần kinh: Nguy cơ dẫn đến trầm cảm

2. Tình hình tự sát trên thế giới

Tự tử gây ra những đau thương, mất mát khôn lường cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trên toàn quốc. Trung bình, 112 người Mỹ chết vì tự tử mỗi ngày. Tự tử là nguyên nhân thứ hai gây tử vong ở lứa tuổi 15 – 24. Và hơn 9,4 triệu người trưởng thành ở Hoa Kỳ đã có ý nghĩ tự tử nghiêm trọng trong vòng 12 tháng qua.

Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới – WHO thì:

  • Gần 800.000 người chết do tự tử mỗi năm.
  • Cứ mỗi lần tự tử lại có thêm nhiều người cố gắng tự tử mỗi năm. Nỗ lực tự tử trước đó là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất dẫn đến tự tử trong dân số nói chung.
  • Tự tử là nguyên nhân thứ ba gây tử vong ở lứa tuổi 15 – 19.
  • 79% số vụ tự tử trên toàn cầu xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình.
  • Uống thuốc trừ sâu, treo cổ và cầm súng là những phương pháp tự sát phổ biến nhất trên toàn cầu.

3. Những nguyên nhân của hành vi tự sát

Tự sát và các hành vi tự sát thường xảy ra ở những người có một hoặc nhiều điều sau đây:

  • Rối loạn lưỡng cực.
  • Rối loạn nhân cách thể bất định.
  • Phiền muộn, lo âu quá mức.
  • Sử dụng ma túy hoặc rượu.
  • Rối loạn stress sau sang chấn.
  • Tâm thần phân liệt.
  • Tiền sử lạm dụng thể chất, tình dục hoặc tình cảm.
  • Các vấn đề căng thẳng trong cuộc sống. Chẳng hạn như các vấn đề tài chính hoặc mối quan hệ nghiêm trọng.
Trầm cảm là nguyên nhân dẫn đến hành vi tự sát.

Những người muốn giành lấy cuộc sống của chính mình thường cố gắng thoát khỏi một tình huống dường như không thể đối phó. Nhiều người cố gắng tự tử nhằm tìm kiếm sự giải thoát khỏi:

  • Cảm giác xấu hổ, tội lỗi hoặc giống như gánh nặng cho người khác.
  • Chính mình cảm thấy như một nạn nhân.
  • Cảm giác bị từ chối, mất mát hoặc cô đơn.

Hành vi tự tử có thể xảy ra khi có một tình huống hoặc sự kiện mà người đó cảm thấy quá sức, chẳng hạn như:

  • Lão hóa [người lớn tuổi có tỷ lệ tự tử cao nhất].
  • Cái chết của một người thân yêu.
  • Sử dụng ma túy hoặc rượu.
  • Sang chấn, biến cố tình cảm.
  • Bệnh hoặc những cơn đau thể chất nghiêm trọng.
  • Thất nghiệp hoặc vấn đề tiền bạc.
Thất nghiệp có thể dẫn đến tự tử.

4. Những yếu tố nguy cơ của hành vi tự tử

Các yếu tố nguy cơ dẫn đến tự tử ở thanh thiếu niên bao gồm

  • Thành viên gia đình đã từng có người tự tử.
  • Lịch sử cố ý làm tổn thương bản thân.
  • Tiền sử bị bỏ quên hoặc lạm dụng.
  • Sống trong các cộng đồng nơi gần đây đã xảy ra các vụ tự tử ở thanh niên.
  • Thất tình.
  • Những người từng có bạn bè hoặc đồng nghiệp đã tự tử.
  • Người độc thân, thất nghiệp, có thu nhập thấp, bấp bênh.
  • Những người gần đây đã được xuất viện từ một bệnh viện tâm thần [Đây thường là một giai đoạn chuyển đổi rất đáng sợ].
  • Những người làm việc trong một số ngành nghề nhất định. Chẳng hạn như sĩ quan cảnh sát, bác sĩ các chuyên khoa bệnh nan y,…

Xem thêm: Rối loạn trầm cảm theo mùa: Nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị

5. Những dấu hiệu của hành vi tự sát sắp diễn ra

Các dấu hiệu cảnh báo tự tử hoặc ý nghĩ tự tử bao gồm:

  • Nói về vấn đề tự tử. Ví dụ: đưa ra những lời nói như “Tôi sẽ tự sát”, “Tôi ước gì mình đã chết” hoặc “Tôi không muốn sống nữa”,…
  • Có được các phương tiện để tự lấy mạng sống của mình, chẳng hạn như mua thuốc trừ sâu, thuốc tây,…
  • Rút lui khỏi tiếp xúc xã hội và muốn được ở một mình.
  • Thay đổi tâm trạng, chẳng hạn như cảm xúc dâng cao vào một ngày nào đó và chán nản sâu sắc vào ngày tiếp theo.
  • Lo lắng về cái chết, chết chóc hoặc bạo lực.
  • Cảm thấy bị bế tác hoặc tuyệt vọng về một hoàn cảnh nào đó.
  • Tăng tần suất sử dụng rượu hoặc các chất ma túy.
  • Thay đổi thói quen bình thường, bao gồm cả thói quen ăn uống hoặc ngủ nghỉ.
  • Làm những việc mạo hiểm hoặc tự hủy hoại bản thân, chẳng hạn như sử dụng ma túy hoặc lái xe ẩu.
  • Cho đi đồ đạc hoặc sắp xếp công việc khi không có lời giải thích hợp lý nào khác cho việc này.
  • Chào tạm biệt mọi người như thể họ sẽ không gặp lại.
  • Thay đổi tính cách phát triển hoặc lo lắng hoặc kích động nghiêm trọng. Đặc biệt là khi gặp một số dấu hiệu cảnh báo được liệt kê ở trên.
Cảm xúc buồn bã.

Các dấu hiệu cảnh báo không phải lúc nào cũng rõ ràng và chúng có thể khác nhau ở mỗi người. Một số người nói rõ ý định của họ, trong khi những người khác giữ bí mật về suy nghĩ và ý định muốn tự tử.

6. Những hành vi tự sát phổ biến

Theo các thống kê trên thế giới, những hành vi tự tử phổ biến bao gồm:

  • Tự tử bằng súng cầm tay. Thông thường là tự bắn vào đầu.
  • Treo cổ.
  • Uống thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ.
  • Sử dụng thuốc quá liều như: Thuốc ngủ, thuốc trị sốt rét, thuốc Paracetamol, Aspirin,…
  • Nhảy cầu, nhảy lầu.
  • Cắt mạch máu ở cổ tay [động mạch quay].
  • Nhịn ăn, nhịn uống.
  • Đâm đầu vào xe lửa, xe tải, xe container,…
  • Đánh bom tự sát.
  • Dùng vật nhọn đâm vào tim, vào cổ, vào bụng,…
  • Sử dụng những chất độc như Xyanua, thủy ngân, thạch tín,…
Tự sát bằng súng.

7. Cách nói chuyện với người đang có ý định hoặc hành vi tự sát

Nếu bạn nghi ngờ rằng một thành viên trong gia đình hoặc bạn bè có thể đang cân nhắc việc tự tử, hãy nói chuyện với họ về những lo lắng của bạn. Bạn có thể bắt đầu cuộc trò chuyện bằng cách đặt câu hỏi theo cách không phán xét và không đối đầu.

Trò chuyện với người có ý định tự sát.

Nói chuyện cởi mở và đừng ngại hỏi những câu hỏi trực tiếp, chẳng hạn như “Bạn có đang nghĩ đến việc tự tử không?”. Trong cuộc trò chuyện, hãy đảm bảo rằng bạn:

  • Bình tĩnh và nói với giọng trấn an.
  • Thừa nhận rằng cảm xúc của họ là chính đáng.
  • Cung cấp sự hỗ trợ và khuyến khích.
  • Nói với họ rằng có sự giúp đỡ và họ có thể cảm thấy tốt hơn khi điều trị.
  • Đồng cảm và cảm thông với họ.
  • Đảm bảo không giảm thiểu các vấn đề của họ hoặc cố gắng khiến họ thay đổi ý định. Lắng nghe và thể hiện sự ủng hộ của bạn là cách tốt nhất để giúp họ. Bạn cũng có thể khuyến khích họ tìm kiếm sự giúp đỡ từ chuyên gia tâm lý hoặc bác sĩ tâm thần.

Tham khảo thêm: Trầm cảm nam giới: Có thể bạn chưa biết

8. Đánh giá những người có nguy cơ tự sát

Các bác sĩ, chuyên gia tâm lý có thể xác định liệu ai đó có nguy cơ tự tử cao hay không. Tất cả dựa trên nhựng triệu chứng, tiền sử cá nhân và tiền sử gia đình của họ.Họ sẽ muốn biết khi nào các triệu chứng bắt đầu và tần suất người đó trải qua chúng.

Đồng thời, cũng sẽ hỏi về bất kỳ vấn đề y tế nào trong quá khứ hoặc hiện tại. Thăm dò về một số tình trạng nhất định có thể xảy ra trong gia đình. Điều này có thể giúp họ xác định các giải thích có thể có cho các triệu chứng. Sau đó, họ sẽ đưa ra những xét nghiệm hoặc giúp các chuyên gia khác có thể để chẩn đoán. Những đánh giá về mặt con người có thể bao gồm:

8.1. Sức khỏe tinh thần

Trong nhiều trường hợp, ý nghĩ tự tử là do rối loạn sức khỏe tâm thần tiềm ẩn. Chẳng hạn như trầm cảm, tâm thần phân liệt hoặc rối loạn lưỡng cực. Nếu có vấn đề sức khỏe tâm thần, người ấy nên được giới thiệu đến các bác sĩ chuyên khoa tâm thần.

Bác sĩ chuyên khoa tâm thần.

8.2. Sử dụng chất

Lạm dụng rượu hoặc ma túy thường góp phần vào ý nghĩ và hành vi tự sát. Nếu sử dụng chất kích thích là một vấn đề cơ bản. Nó xuất hiện thường xuyên trong cuộc sống. Đồng thời ảnh hưởng ít nhiều đến cuộc sống, công việc và các mối quan hệ xã hội.

Lạm dụng rượu có thể dẫn đến hành vi tự sát.

8.3. Thuốc men

Việc sử dụng một số loại thuốc theo toa – bao gồm cả thuốc chống trầm cảm – cũng có thể làm tăng nguy cơ tự tử. Các bác sĩ chuyên khoa có thể xem xét bất kỳ loại thuốc nào mà người đó hiện đang sử dụng. Mục đích là để xem liệu chúng có thể là yếu tố góp phần gây nên ý nghĩ và hành vi tự sát không.

Xem thêm: Những điều cần biết về thuốc chống trầm cảm Amitriptylin

9. Làm sao để ngăn ngừa hành vi tự sát và ý định tự sát?

Không thể ngăn chặn tự tử một cách chắc chắn, nhưng rủi ro thường có thể được giảm thiểu với sự can thiệp kịp thời. Nghiên cứu cho thấy rằng cách tốt nhất để ngăn ngừa tự tử là biết các yếu tố nguy cơ. Cần cảnh giác với các dấu hiệu trầm cảm và các rối loạn tâm thần khác. Đồng thời, nhận ra các dấu hiệu cảnh báo tự tử và can thiệp trước khi người đó có thể thực hiện hành vi tự tử.

10. Vấn đề điều trị

Việc điều trị sẽ phụ thuộc vào nguyên nhân cơ bản dẫn đến hành vi và suy nghĩ tự sát của ai đó. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, điều trị bằng liệu pháp tâm lý và thuốc tỏ ra rất hiệu quả.

10.1. Tâm lý liệu pháp

Tâm lý liệu pháp là một phương pháp điều trị khả thi để giảm nguy cơ có ý định tự tử. Liệu pháp nhận thức hành vi là một hình thức trị liệu trò chuyện. Nó thường được sử dụng cho những người đang có ý định tự tử.

Tâm lý liệu pháp.

Mục đích của phương pháp này là hướng dẫn bạn cách vượt qua các sự kiện và cảm xúc căng thẳng trong cuộc sống. Khi những căng thẳng ấy có thể góp phần vào suy nghĩ và hành vi tự sát của bạn. Phương pháp này cũng có thể giúp bạn thay thế niềm tin tiêu cực bằng những niềm tin tích cực. Đồng thời lấy lại cảm giác hài lòng và lạc quan trong cuộc sống của bạn.

10.2. Sử dụng thuốc

Một số nhóm thuốc có thể được chỉ định bao gồm: Thuốc chống trầm cảm, chống loạn thần, giải lo âu. Ngoài ra, những người có ý định hoặc hành vi tự sát nên thay đổi lối sống, bằng cách:

  • Tránh sử dụng, lạm dụng chất kích thích như rượu, bia, ma túy.
  • Tập thể dục thường xuyên.
  • Ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng.
  • Ngủ đủ giấc, vệ sinh giấc ngủ một cách khoa học.

Nói chung, hành vi tự sát mang lại những thiệt hại và mất mát không hề nhỏ. Nó ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội, có thể xuất hiện ở mọi đối tượng, mọi tầng lớp. Để hạn chế tình trạng tự sát, mọi người nên thay đổi cách suy nghĩ, thay đổi lối sống theo hướng tích cực hơn. Đồng thời điều trị tốt những bệnh lý tâm thần có thể dẫn đến tự sát.

Xem thêm: Trầm cảm khi mang thai ảnh hưởng đến mẹ và bé như thế nào?

Bác sĩ Nguyễn Lâm Giang

Thật khó để tưởng tượng điều gì đã khiến một người bạn, thành viên gia đình hoặc người nổi tiếng tự tử. Có thể không có dấu hiệu cảnh báo rõ ràng, và bạn có thể tự hỏi bạn có thể bỏ lỡ manh mối nào. Thông thường, nhiều yếu tố kết hợp để dẫn một người đến quyết định tự kết liễu đời mình.

Bệnh tâm thần

Hầu hết mọi người đưa ra quyết định cố gắng tự tử ngay trước khi làm như vậy một cách bốc đồng hơn là lên kế hoạch rộng rãi.

Mặc dù có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến quyết định tự tử của một người, nhưng yếu tố phổ biến nhất là & nbsp; trầm cảm nặng. Trầm cảm có thể khiến mọi người cảm thấy đau đớn về tình cảm tuyệt vời & NBSP và mất hy vọng, khiến họ không thể nhìn thấy một cách khác để giảm bớt nỗi đau ngoài việc kết thúc cuộc sống của chính họ. Depression can make people feel great emotional pain and loss of hope, making them unable to see another way to relieve the pain other than ending their own life.

Theo Quỹ phòng chống tự tử của Hoa Kỳ, trầm cảm có mặt trong khoảng một nửa số tự tử.

Các bệnh tâm thần khác có thể làm tăng nguy cơ tự tử bao gồm: & nbsp;

  • Rối loạn lưỡng cực
  • Rối loạn nhân cách ranh giới [BPD]
  • Rối loạn ăn uống
  • Tâm thần phân liệt

Căng thẳng chấn thương

Một người đã có một trải nghiệm đau thương, bao gồm lạm dụng tình dục thời thơ ấu, hãm hiếp, lạm dụng thể xác hoặc chấn thương chiến tranh, có nguy cơ tự tử cao hơn, thậm chí nhiều năm sau chấn thương.

Trong một cuộc khảo sát với gần 6.000 người trưởng thành ở Hoa Kỳ, gần 22% những người bị hãm hiếp đã cố gắng tự tử vào một lúc nào đó trong khi 23% trải qua cuộc tấn công thể xác đã cố gắng tự kết liễu đời mình vào một lúc nào đó.

Được chẩn đoán mắc chứng rối loạn căng thẳng sau chấn thương [PSTD] hoặc nhiều sự cố chấn thương làm tăng nguy cơ hơn nữa. Điều này một phần là do trầm cảm là phổ biến sau chấn thương và trong số những người mắc PTSD, gây ra cảm giác bất lực và vô vọng có thể dẫn đến tự tử.

Sử dụng chất và sự bốc đồng

Thuốc và rượu cũng có thể ảnh hưởng đến một người cảm thấy tự tử, khiến họ bốc đồng hơn và có khả năng hành động theo sự thôi thúc của họ hơn họ sẽ tỉnh táo. Sử dụng chất và rượu có thể đóng góp vào những lý do khác mà mọi người tự tử, chẳng hạn như mất việc làm và các mối quan hệ.

Tỷ lệ sử dụng chất và rối loạn sử dụng rượu cũng cao hơn ở những người bị trầm cảm và các rối loạn tâm lý khác. Đặt những thứ này lại với nhau và các rủi ro tăng lên.

Mất hoặc sợ mất mát

Một người có thể quyết định tự kết liễu đời mình khi phải đối mặt với sự mất mát hoặc sợ mất mát. Những tình huống này có thể bao gồm:

  • Thất bại trong học tập
  • Bị bắt hoặc bị giam cầm
  • Bắt nạt, xấu hổ hoặc sỉ nhục
  • Vấn đề tài chính
  • Kết thúc một tình bạn thân thiết hoặc mối quan hệ lãng mạn
  • Mất việc
  • Mất bạn bè hoặc sự chấp nhận của gia đình do tiết lộ xu hướng tình dục của bạn
  • Mất địa vị xã hội

Vô vọng

Sự vô vọng, trong thời gian ngắn hoặc như một đặc điểm lâu dài hơn, đã được tìm thấy trong nhiều nghiên cứu để đóng góp cho quyết định tự tử. Người đó có thể phải đối mặt với một thách thức xã hội hoặc thể chất và có thể thấy không có cách nào mà tình huống có thể cải thiện.

Khi mọi người cảm thấy họ đã mất hết hy vọng và không cảm thấy có thể thay đổi điều đó, nó có thể làm lu mờ tất cả những điều tốt đẹp trong cuộc sống của họ, làm cho tự tử có vẻ như là một lựa chọn khả thi. & NBSP;

Mặc dù có vẻ rõ ràng với một người quan sát bên ngoài rằng mọi thứ sẽ trở nên tốt hơn, những người bị trầm cảm có thể không thể nhìn thấy điều này do sự bi quan và tuyệt vọng đi cùng với căn bệnh này.

Đau mãn tính và bệnh tật

Nếu một người bị đau hoặc bệnh tật mãn tính mà không có hy vọng chữa khỏi hoặc từ bỏ đau khổ, tự tử có vẻ như là một cách để lấy lại phẩm giá và kiểm soát cuộc sống của họ. Ở một số bang, tự tử hỗ trợ là hợp pháp vì lý do này.

Theo một nghiên cứu trên Tạp chí Y học Dự phòng Hoa Kỳ, các tình trạng sức khỏe sau đây có liên quan đến nguy cơ tự tử cao hơn:

  • Hen suyễn
  • Đau lưng
  • Chấn thương não
  • Sự xấu xa
  • Suy tim sung huyết
  • Bệnh tiểu đường
  • Động kinh
  • HIV/AIDS
  • Bệnh tim
  • Huyết áp cao
  • Đau nửa đầu
  • bệnh Parkinson

Đau mãn tính cũng có thể gây lo lắng và trầm cảm, cũng có thể làm tăng nguy cơ tự tử của bạn. Theo nghiên cứu, những người bị đau mãn tính có khả năng bị trầm cảm hoặc lo lắng gấp bốn lần so với những người không đau.

Cảm thấy như một gánh nặng cho người khác

Một người bị đau mãn tính hoặc bệnh nan y cũng có thể cảm thấy như một gánh nặng cho người khác, vì càng khó khăn hơn để yêu cầu một chuyến đi khác đến văn phòng bác sĩ hoặc giúp đỡ nhiều hơn về các nhiệm vụ hộ gia đình hoặc hỗ trợ thanh toán hóa đơn bệnh viện. Trên thực tế, nhiều người quyết định tự tử thường nói rằng người thân của họ hoặc thế giới, nói chung, sẽ tốt hơn nếu không có họ.

Kiểu hùng biện này là một dấu hiệu cảnh báo phổ biến về tự tử. Mọi người thường thấy mình là gánh nặng cho người khác hoặc cảm thấy vô giá trị do gánh nặng cảm xúc quá mức mà họ đang mang theo.

Cách ly xã hội

Một người có thể bị cô lập về mặt xã hội vì nhiều lý do, bao gồm mất bạn bè hoặc người phối ngẫu, trải qua một cuộc chia ly hoặc ly hôn, bệnh về thể chất hoặc tâm thần, lo lắng xã hội, nghỉ hưu hoặc do chuyển đến một địa điểm mới. Sự cô lập xã hội cũng có thể được gây ra bởi các yếu tố bên trong như Low & nbsp; lòng tự trọng. & NBSP; Điều này có thể dẫn đến sự cô đơn và các yếu tố nguy cơ khác của tự tử như trầm cảm và lạm dụng rượu hoặc ma túy.

Kêu cứu

Đôi khi mọi người cố tự tử không quá nhiều vì họ thực sự muốn chết, nhưng vì họ chỉ đơn giản là không biết cách nhận trợ giúp. Những nỗ lực tự tử không phải là một tiếng kêu cho sự chú ý mà là một tiếng kêu cứu. Nó trở thành một cách để chứng minh với thế giới, họ đang bị tổn thương đến mức nào.

Thật không may, những tiếng khóc này để được giúp đỡ đôi khi có thể chứng tỏ là gây tử vong nếu người đó đánh giá sai sự chết của phương pháp mà họ đã chọn. Những người thực hiện một nỗ lực thất bại cũng có nguy cơ thử lại cao hơn nhiều và những nỗ lực thứ hai của họ có nhiều khả năng gây chết người. & NBSP;

Vô tình tự sát

Một số tình huống dường như tự tử thực sự có thể là một cái chết tình cờ. Trò chơi nghẹt thở [còn được gọi là Thử thách vượt qua của người Hồi giáo, người hâm mộ, người và "Khỉ không gian], nơi thanh thiếu niên bóp cổ để đạt được cảm giác cao như cảm giác cao và ngạt thở tự động là những ví dụ về các vụ tự tử. và vũ khí và tự tử ngộ độc.

Một từ từ rất

Bạn có thể không bao giờ biết tại sao một người tự tử. Mặc dù có vẻ như ai đó có mọi thứ để sống, nhưng có lẽ nó không cảm thấy như vậy với họ.

Rất quan tâm chỉ sử dụng các nguồn chất lượng cao, bao gồm các nghiên cứu được đánh giá ngang hàng, để hỗ trợ các sự kiện trong các bài viết của chúng tôi. Đọc quy trình biên tập của chúng tôi để tìm hiểu thêm về cách chúng tôi kiểm tra thực tế và giữ cho nội dung của chúng tôi chính xác, đáng tin cậy và đáng tin cậy.

  1. Quỹ phòng chống tự tử của Mỹ. Các yếu tố rủi ro và dấu hiệu cảnh báo. 2020.

  2. Quỹ phòng chống tự tử của Mỹ. Các yếu tố rủi ro và dấu hiệu cảnh báo. 2020.

  3. Portzky G, Van Heeringen K, Vervaet M. đã cố gắng tự tử ở những bệnh nhân bị rối loạn ăn uống. Khủng hoảng. 2014; 35 [6]: 378-387. doi: 10.1027/0227-5910/A000275

  4. Ásgeirsdóttir HG, Valdimarsdóttir ua, þorsteinsdóttir þk, et al. Sự liên kết giữa các sự kiện cuộc sống chấn thương khác nhau và sự tự tử. & Nbsp; Eur j psychotraumatol. 2018; 9 [1]: 1510279. doi: 10.1080/20008198.2018.1510279

  5. Breet E, Goldstone D, Bantjes J. Sử dụng chất và ý tưởng và hành vi tự tử ở các nước thu nhập thấp và trung bình: một đánh giá có hệ thống. & NBSP; BMC Public Health. 2018; 18 [1]: 549. doi: 10.1186/s12889-018-5425-6

  6. Ahmedani BK, Peterson EL, Hu Y, et al. Các tình trạng sức khỏe thể chất chính và nguy cơ tự tử. Am J Prev Med. 2017; 53 [3]: 308-315. doi: 10.1016/j.amepre.2017.04.001

  7. Kleiber B, Jain S, Trivingi MH. Trầm cảm và đau: Ý nghĩa của việc trình bày triệu chứng và điều trị dược lý. Tâm thần học [Edgmont]. 2005; 2 [5]: 12-18.

Đọc thêm

  • Franklin JC, Ribeiro JD, Fox KR, et al. Các yếu tố rủi ro cho những suy nghĩ và hành vi tự tử: phân tích tổng hợp 50 năm nghiên cứu. Bản tin tâm lý. 2017; 143 [2]: 187-232. doi: 10.1037/bul0000084

  • Van Orden KA, Witte TK, Cukrowicz KC, Braithwaite S, Selby EA, người tham gia TE. Lý thuyết giữa các cá nhân của tự tử. Đánh giá tâm lý. 2010; 117 [2]: 575-600. doi: 10.1037/a0018697

Bởi Nancy Schimelpfening Nancy Schimelpfening, MS là quản trị viên của nhóm hỗ trợ trầm cảm phi lợi nhuận Sanctuary Sanctuary. Nancy có một cuộc đời kinh nghiệm với trầm cảm, trải nghiệm tận mắt mức độ tàn phá của căn bệnh này. & Nbsp; & nbsp;
Nancy Schimelpfening, MS is the administrator for the non-profit depression support group Depression Sanctuary. Nancy has a lifetime of experience with depression, experiencing firsthand how devastating this illness can be.  

Cảm ơn phản hồi của bạn!

Ví dụ về hành vi tự tử là gì?

Các hành vi tự hủy hoại, chẳng hạn như uống rượu nhiều, sử dụng ma túy bất hợp pháp hoặc cắt cơ thể.Kéo ra khỏi bạn bè hoặc không muốn đi ra ngoài.Đột nhiên gặp rắc rối ở trường hoặc công việc.Nói về cái chết hoặc tự tử, hoặc thậm chí nói rằng họ muốn tự làm tổn thương mình.heavily drinking alcohol, using illegal drugs, or cutting their body. Pulling away from friends or not wanting to go out. Suddenly having trouble in school or work. Talking about death or suicide, or even saying that they want to hurt themselves.

Ngày tự tử nhất trong năm là gì?

Thứ Hai thứ ba trong tháng 1, kể từ khoảng năm 2005, được báo cáo là ngày trong năm mà mọi người cảm thấy chán nản nhất.Điều này tương quan với một niềm tin khác rằng những vụ tự tử nhất diễn ra vào ngày này.third Monday in January has, since about 2005, been reported to be the day of the year that people feel most depressed. This correlates with another belief that the most suicides take place on this day.

Các yếu tố rủi ro tự tử là gì?

Nhiều yếu tố góp phần vào rủi ro tự tử ...
Cố gắng tự tử trước đó ..
Lịch sử trầm cảm và các bệnh tâm thần khác ..
Bệnh nghiêm trọng như đau mãn tính ..
Các vấn đề hình sự/pháp lý ..
Công việc/vấn đề tài chính hoặc mất mát ..
Xu hướng bốc đồng hoặc hung hăng ..
Lạm dụng..
Lịch sử hiện tại hoặc trước đó về những trải nghiệm thời thơ ấu bất lợi ..

Chủ Đề