100 bài hát metal thập niên 80 hàng đầu năm 2022

Hard rock (hay heavy rock) là một thể loại rock được định nghĩa không rõ ràng, ra đời vào giữa những năm 1960 cùng với các thể loại garage rock, psychedelic rock và blues rock. Nó được xem là một thể loại rock nặng, đặc trưng với giọng ca đầy nội lực, tiếng guitar điện, bass rè, bộ trống, thường kết hợp cùng piano và keyboard.

Show

Hard rock phát triển thành hình thái âm nhạc chính thức phổ biến vào thập niên 70, với các ban nhạc như Led Zeppelin, The Who, Deep Purple, Aerosmith, AC/DC và Van Halen. Trong những năm 1980, một số ban nhạc hard rock chuyển dòng nhạc từ hard rock nghiêng hẳn sang pop rock,[1][2] trong khi những nhóm khác bắt đầu quay lại chơi dòng nhạc này[3]. Những ban nhạc đã thành lập trước đây, các nhóm glam metal như Bon Jovi, Def Leppard và Guns N' Roses đã đánh dấu sự trở lại vào giữa những năm 1980 và đạt tới đỉnh cao thương mại trong thập niên này cũng như thành công lớn trong các giai đoạn về sau. Vào thập niên 90, hard rock bắt đầu bị giảm độ ưa chuộng do sự thành công thị trường của dòng nhạc grunge, sau là Britpop.

Bất chấp điều này, nhiều ban nhạc post-grunge vẫn theo đuổi, nỗ lực hồi sinh hard rock và đã tạo ra một làn sóng hâm mộ mới trong những năm 2000, các nhóm hard rock mới ra đời từ sự hồi sinh của dòng garage rock và post-punk. Những năm này, chỉ một vài ban nhạc hard rock từ thập kỷ 70, 80 xoay xở được để duy trì sự nghiệp thu âm thành công.

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

"In the End"
100 bài hát metal thập niên 80 hàng đầu năm 2022

"Bìa của In the End"

Bài hát của Linkin Park
từ album Hybrid Theory
Mặt B
  • "Step Up"
  • "In the End" (trực tiếp từ BBC Radio One)
  • "Points of Authority" (trực tiếp tại Docklands Arena, London)
  • "A Place for My Head" (trực tiếp tại Docklands Arena)
  • "Pushing Me Away"
Phát hànhTháng 10 năm 2000[1][2]
23 tháng 8 năm 2001 (thương mại)[3]
Thu âm1999-2000
Thể loại
  • Nu metal[4]
  • rap rock[5]
  • alternative rock[6]
  • hard rock[7]
  • pop[8]
Thời lượng3:36 (bản album)
Hãng đĩaWarner Bros.
Sáng tác
  • Brad Delson
  • Chester Bennington
  • Joe Hahn
  • Mike Shinoda
  • Rob Bourdon
Sản xuấtDon Gilmore
Thứ tự đĩa đơn của Linkin Park
"One Step Closer"
(2000)
"In the End"
(2000)
"Crawling"
(2001)
Mẫu âm thanh

  • tập tin
  • trợ giúp

Video âm nhạc
"In the End" trên YouTube

"In the End" là một bài hát của ban nhạc rock người Mỹ Linkin Park. Đây là ca khúc thứ 8 trong album đầu tay của họ, Hybrid Theory (2000), và được phát hành làm đĩa đơn thứ 2 của album. "In the End" là một trong những bài hát dễ nhận biết và đặc trưng nhất của Linkin Park.

"In the End" nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, với hầu hết các nhà phê bình đều khen ngợi phần riff piano đặc trưng của bài hát, cũng như nhấn mạnh đến sự nổi bật của rapper Mike Shinoda trong bài hát. "In the End" cũng đạt được sự nổi tiếng rộng rãi và thành công về mặt thương mại khi phát hành. Bài hát đã lọt vào top 10 trên nhiều bảng xếp hạng âm nhạc toàn thế giới và đạt vị trí thứ 2 trên US Billboard Hot 100, bài hát đạt vị trí cao nhất của ban nhạc trên bảng xếp hạng, cũng như bài hát đầu tiên của họ lọt vào top 40. Nó cũng đạt vị trí số 1 trong bảng xếp hạng 100 bài hát hàng đầu của Z100 năm 2002. Bài hát này cũng đứng ở vị trí thứ 121 trong 500 bài hát hay nhất kể từ bạn khi sinh ra (The 500 Greatest Songs Since You Were Born) của tạp chí Blender.[9] Bài hát là ca khúc rock được phát lại nhiều nhất thập kỷ này của Billboard. Nó cũng được phối lại trong Reanimation thành bài "Enth E ND". Video âm nhạc của bài hát, đạo diễn bởi Nathan Cox và tay đẩy đĩa của ban nhạc Joe Hahn, đặt ban nhạc trong một bối cảnh giả tưởng.

Chester Bennington, giọng ca chính của ban nhạc, ban đầu không thích bài hát này và không muốn nó được đưa vào Hybrid Theory. [10]

Video âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

100 bài hát metal thập niên 80 hàng đầu năm 2022
Một cảnh từ video nhạc của “In the End” được ghi hình tại sa mạc California và được áp dụng hiệu ứng CGI.

Video âm nhạc cho "In the End" được quay ở nhiều điểm dừng khác nhau trong chuyến lưu diễn Ozzfest năm 2001, được đạo diễn bởi Nathan Cox và DJ Joe Hahn của ban nhạc.[11] Mặc dù bối cảnh của video "In the End" được quay ở sa mạc California, ban nhạc đã tự mình biểu diễn trên một sân khấu phòng thu ở Los Angeles, với các hiệu ứng CGI nổi bật và kết hợp được sử dụng để tạo ra phiên bản hoàn chỉnh. Biểu diễn trên sân khấu phòng thu cho phép Hahn và Cox đặt ống nước phía trên sân khấu để làm ban nhạc ướt sũng.[12]

Video âm nhạc lấy bối cảnh giả tưởng và sử dụng hoạt hình CGI. Ban nhạc biểu diễn trên đỉnh một bức tượng khổng lồ trông giống người Ai Cập, trên đó có một 'người lính có cánh', trông tương tự như 'người lính có cánh' trên ảnh bìa của album Hybrid Theory của Linkin Park.

Mike Shinoda đề cập rằng Princess Mononoke đã truyền cảm hứng cho video âm nhạc.[13]

Thiết kế sản xuất do Patrick Tatopoulos. Nó đã giành được giải "Video Rock hay nhất" và được đề cử cho Video của năm tại Lễ trao giải MTV Video Music năm 2002.[14]

Video đã có hơn 1,1 tỷ lượt xem trên YouTube tính đến tháng 1 năm 2021. Đây là video âm nhạc thứ 2 của họ đạt 1 tỷ lượt xem bên cạnh "Numb". Video đã được tải lên 2 lần bởi kênh YouTube của Linkin Park. Video được tải lên lần đầu tiên vào ngày 4 tháng 3 năm 2007 ở định dạng 240p. Video sau đó đã được tải lại vào ngày 26 tháng 10 năm 2009 ở định dạng 360p. Nó cũng được tải lại cùng ngày bởi kênh YouTube của Warner Bros. Records ở định dạng 480p.[15][16][17] Video được quay ở tỷ lệ khung hình 16:9. Bản tải lên lần đầu trên kênh YouTube của Linkin Park và các bản trên các kênh của Warner Records ở định dạng letterbox 4:3. Bản tải lại thứ 2 trên kênh YouTube của Linkin Park có tỷ lệ khung hình 16:9. Sau khi phát hành Bộ hộp kỷ niệm 20 năm cho Hybrid Theory, video đã được nâng cấp lên chất lượng HD.

Giới phê bình đón nhận[sửa | sửa mã nguồn]

"In the End" nhận được đánh giá tích cực của các nhà phê bình nhạc rock đương đại. VH1 xếp nó ở vị trí thứ 84 trong danh sách 100 bài hát hay nhất của thập niên 2000.[18] Bài hát cũng được Loudwire xếp thứ 2 trong danh sách "Những bài hát Hard Rock hàng đầu thế kỷ 21" ("Top 21st century Hard Rock songs").[19] Tại tạp chí Stylus, nó được đánh giá là "bản nu metal kinh điển".[20] Tại Kerrang!, nó được đưa vào ("Băng Mixtape Nu Metal Tối thượng") "The Ultimate Nu Metal Mixtape".[21] Tuy nhiên, NME chỉ trích bài hát nhiều hơn, gọi nó là "... một bản rap rock chán ngắt khác của MTV từ đáy của chuỗi thức ăn." [22]

Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2015, bài hát được mệnh danh là bài hát rock hay nhất trong danh sách Rock 100 của Kerrang!, đứng trên đĩa đơn năm 2014 của ban nhạc là Final Masquerade.[23]

Xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

"In the End" là đĩa đơn xếp hạng cao nhất của Linkin Park tại Hoa Kỳ, ra mắt ở vị trí thứ 78 và đạt vị trí cao nhất thứ 2 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ vào tháng 3 năm 2002, và bị ngăn khỏi vị trí đầu bảng bởi "Ain't It Funny" của Jennifer Lopez và Ja Rule. Bài hát đã ở trên bảng xếp hạng tổng cộng 38 tuần. Nó đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Modern Rock Tracks trong 5 tuần, bắt đầu từ tháng 12 năm 2001, trở thành bản hit đầu tiên của họ trên bảng xếp hạng này. Bài hát đã trải qua 44 tuần ở đó, trở thành bài hát nằm trên bảng xếp hạng đó lâu nhất của họ và nó cũng đạt vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng Mainstream Rock Tracks với 40 tuần trên bảng xếp hạng, lâu thứ 2 sau "One Step Closer" với 42 tuần. Nó cũng giữ vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Pop Songs trong 5 tuần và ở trên bảng xếp hạng trong 27 tuần. "In the End" là đĩa đơn có thành tích tốt thứ 7 trên Billboard Hot 100 trong năm 2002, là bài hát rock và alternative có thành tích tốt thứ 2 trong thập kỷ trên bảng xếp hạng Alternative Songs cũng như bảng xếp hạng Rock Songs, chỉ đứng sau "Headstrong" của Trapt và "How You Remind Me" của Nickelback tương ứng. Tính đến tháng 6 năm 2014, đĩa đơn đã bán được 2.555.000 bản tại Hoa Kỳ.[24]

Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

Phần 1
STTTựa đềSáng tácThời lượng
1."In the End" Linkin Park 3:38
2."In the End" (Trực tiếp tại BBC Radio One) Linkin Park 3:28
3."Points of Authority" (Trực tiếp tại Docklands Arena, London) Linkin Park 3:31
4."In the End" (Video)   3:36
Phần 2
STTTựa đềSáng tácThời lượng
1."In the End" Linkin Park 3:38
2."A Place for My Head" (Trực tiếp tại Docklands Arena, London)

  • Linkin Park
  • Mark Wakefield
  • Dave Farrell

3:12
3."Step Up"

  • Mike Shinoda
  • Joe Hahn
  • Brad Delson

3:54
DVD
STTTựa đềThời lượng
1."In the End" (Âm thanh) 3:37
2."Crawling" (Video Âm nhạc) 3:38
3."4 X 30 Seconds" 2:14
In the End: Live & Rare
STTTựa đềSáng tácThời lượng
1."In the End" (Bản Album) Linkin Park 3:36
2."Papercut" (Trực tiếp tại Docklands Arena, London) Linkin Park 3:11
3."Points of Authority" (Trực tiếp tại Docklands Arena, London) Linkin Park 3:26
4."A Place for My Head" (Trực tiếp tại Docklands Arena, London)

  • Linkin Park
  • Wakefield
  • Farrell

3:10
5."Step Up"

  • Shinoda
  • Hahn
  • Delson

3:55
6."My December" Shinoda 4:21
7."High Voltage" Linkin Park 3:45

Nhân sự[sửa | sửa mã nguồn]

Linkin Park

  • Chester Bennington - hát
  • Rob Bourdon - trống
  • Brad Delson - guitar chính, bass
  • Joe Hahn - sampler, bàn xoay
  • Mike Shinoda - rap, piano, guitar đệm

Sản xuất

  • Don Gilmore sản xuất
  • Điều hành sản xuất: Jeff Blue
  • Phối âm tại Soundtrack, NYC

Bảng xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ https://loudwire.com/linkin-park-one-billion-views-youtube-in-the-end-lyrics/
  2. ^ “War and Remembrance”. Billboard: 63. 6 tháng 10 năm 2001.
  3. ^ https://australian-charts.com/showitem.asp?interpret=Linkin+Park&titel=In+The+End&cat=s
  4. ^ “The 30 Best Nu-Metal Songs”. Spin. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2019.
  5. ^ “Top 10 Essential Rap-Rock Songs”. About.com. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2019.
  6. ^ “Ranking Every Alternative Rock No. 1 Hit from Worst to Best”. Consequence of Sound. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2019.
  7. ^ “No. 2: Linkin Park, 'In the End' - Top 21st Century Hard Rock Songs”. Loudwire. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2019.
  8. ^ “The 15 Greatest Linkin Park Songs”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2021.
  9. ^ “Maxim”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2014.
  10. ^ “LINKIN PARK Q&A;”. VMusic.com.au. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2013. I don't really participate in picking singles. I learnt that after making Hybrid Theory. I was never a fan of "In the End" and I didn't even want it to be on the record, honestly. How wrong could I have possibly been?
  11. ^ “An interview with bassist Phoenix”. Rough Edge. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2007.
  12. ^ “In the End facts”. Song Facts. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2007.
  13. ^ “January 11, 2002 chat”. Wayback Machine. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 9 năm 2002. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2002.
  14. ^ “MTV Video Music Awards History”. Rock on the Net. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2007.
  15. ^ “In the End (Original and Official Video) on YouTube”. from Linkin Park's YouTube Channel
  16. ^ “In the End (Official Duplicate Video) on YouTube”. from Linkin Park's YouTube Channel
  17. ^ “In the End (Official Video) on YouTube”. from the Warner Bros. Records YouTube Channel
  18. ^ Anderson, Kyle (29 tháng 9 năm 2011). “U2, Rihanna, Amy Winehouse, Foo Fighters fill out VH1's '100 Greatest Songs of the '00s'”. Entertainment Weekly. Time Inc. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2011.
  19. ^ Graham Hartmann (1 tháng 7 năm 2012). “No. 2: Linkin Park, 'In The End' – Top 21st Century Hard Rock Songs”. Loudwire.com. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2014.
  20. ^ Unterberger, Andrew (10 tháng 9 năm 2004). “Top Ten Nu-Metal Bands”. Stylus Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2004. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2014.
  21. ^ “The Ultimate Nu-Metal Mixtape”. Kerrang!. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2014.
  22. ^ “NME Track Reviews – Linkin Park: In The End”. Nme.Com. 2 tháng 10 năm 2001. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2014.
  23. ^ "In The End" and "Final Masquerade" have made it to the top of Kerrang!'s Rock 100 list Facebook April 15, 2015.
  24. ^ Trust, Gary (24 tháng 6 năm 2014). “Ask Billboard: With Nico & Vinz, Norway Continues U.S. Chart Invasion”. Billboard. Prometheus Global Media.
  25. ^ "Australian-charts.com – Linkin Park – In the End". ARIA Top 50 Singles. Truy cập 24 tháng 6 năm 2008.
  26. ^ "Austriancharts.at – Linkin Park – In the End" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập 24 tháng 6 năm 2008.
  27. ^ "Ultratop.be – Linkin Park – In the End" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập 24 tháng 6 năm 2008.
  28. ^ "Ultratop.be – Linkin Park – In the End" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập 24 tháng 6 năm 2008.
  29. ^ "Danishcharts.com – Linkin Park – In the End". Tracklisten. Truy cập 24 tháng 6 năm 2008.
  30. ^ “Eurochart Hot 100 Singles” (PDF). Music & Media. 19 (44): 17. 27 tháng 10 năm 2001. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2020.
  31. ^ "Lescharts.com – Linkin Park – In the End" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập 24 tháng 6 năm 2008.
  32. ^ "Musicline.de – Linkin Park Single-Chartverfolgung" (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. PhonoNet GmbH. Truy cập 24 tháng 6 năm 2008.
  33. ^ "The Irish Charts – Search Results – Linkin Park". Irish Singles Chart. Truy cập 24 tháng 6 năm 2008.
  34. ^ "Italiancharts.com – Linkin Park – In the End". Top Digital Download. Truy cập 24 tháng 6 năm 2008.
  35. ^ "Nederlandse Top 40 – week 7, 2002" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40 Truy cập 13 tháng 1 năm 2020.
  36. ^ "Dutchcharts.nl – Linkin Park – In the End" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Truy cập 24 tháng 6 năm 2008.
  37. ^ "Charts.nz – Linkin Park – In the End". Top 40 Singles. Truy cập 24 tháng 6 năm 2008.
  38. ^ “Polish Singles Chart”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2008.
  39. ^ “Romanian Top 100: Editia 1, saptamina 7.01-13.01, 2002”. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2015.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  40. ^ "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100". Official Charts Company. Truy cập 31 tháng 7 năm 2020.
  41. ^ "Swedishcharts.com – Linkin Park – In the End". Singles Top 100. Truy cập 24 tháng 6 năm 2008.
  42. ^ "Swisscharts.com – Linkin Park – In the End". Swiss Singles Chart. Truy cập 24 tháng 6 năm 2008.
  43. ^ "Linkin Park: Artist Chart History". Official Charts Company. Truy cập 24 tháng 6 năm 2008.
  44. ^ "Official Rock & Metal Singles Chart Top 40". Official Charts Company. Truy cập 31 tháng 7 năm 2020.
  45. ^ "Linkin Park Chart History (Hot 100)". Billboard. Truy cập 14 tháng 1 năm 2016.
  46. ^ "Linkin Park Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard. Truy cập 14 tháng 1 năm 2016.
  47. ^ "Linkin Park Chart History (Alternative Songs)". Billboard. Truy cập 14 tháng 1 năm 2016.
  48. ^ "Linkin Park Chart History (Mainstream Rock)". Billboard. Truy cập 12 tháng 8 năm 2020.
  49. ^ "Linkin Park Chart History (Pop Songs)". Billboard. Truy cập 14 tháng 1 năm 2016.
  50. ^ "Austriancharts.at – Linkin Park – In the End" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập 4 tháng 8 năm 2017.
  51. ^ "Linkin Park Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard. Truy cập 5 tháng 8 năm 2017.
  52. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Digital Top 100 Oficiální. IFPI Czech Republic. Ghi chú: Đổi sang bảng xếp hạng CZ – SINGLES DIGITAL – TOP 100, chọn 201730 rồi bấm tìm kiếm. Truy cập 1 tháng 8 năm 2017.
  53. ^ "Linkin Park: In the End" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập 30 tháng 7 năm 2017.
  54. ^ “Le Top de la semaine: Top Singles Téléchargés – SNEP (Week 30, 2017)” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2017.
  55. ^ "Musicline.de – Linkin Park Single-Chartverfolgung" (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. PhonoNet GmbH. Truy cập 28 tháng 7 năm 2017.
  56. ^ "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Single (track) Top 40 lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập 3 tháng 8 năm 2017.
  57. ^ "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Stream Top 40 slágerlista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập 3 tháng 8 năm 2017.
  58. ^ “Top 20 Most Streamed International & Domestic Singles in Malaysia” (PDF). Recording Industry Association of Malaysia. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2017.
  59. ^ "Portuguesecharts.com – Linkin Park – In the End". AFP Top 100 Singles. Truy cập 4 tháng 8 năm 2017.
  60. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Slovak). Hitparáda – Singles Digital Top 100 Oficiálna. IFPI Czech Republic. Ghi chú: chọn SINGLES DIGITAL - TOP 100, chọn 201730 rồi bấm tìm kiếm. Truy cập 1 tháng 8 năm 2017.
  61. ^ "Spanishcharts.com – Linkin Park – In the End" Canciones Top 50.
  62. ^ "Swisscharts.com – Linkin Park – Numb". Swiss Singles Chart. Truy cập 31 tháng 7 năm 2017.
  63. ^ "Linkin Park Chart History (Hot 100)". Billboard. Truy cập 4 tháng 8 năm 2017.
  64. ^ "Linkin Park Chart History (Hot Rock Songs)". Billboard. Truy cập 3 tháng 8 năm 2017.
  65. ^ “Top 100 Single-Jahrescharts”. GfK Entertainment (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  66. ^ “Årslista Singlar, 2001” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  67. ^ “2001 UK Singles Chart” (PDF). UKChartsPlus. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  68. ^ “ARIA End of Year Singles Chart 2002”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  69. ^ “Jaaroverzichten 2002”. Ultratop. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  70. ^ “Top of the Music – Mix e Singoli” (PDF) (bằng tiếng Ý). FIMI. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2020.
  71. ^ “Top 100-Jaaroverzicht van 2002”. Dutch Top 40. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  72. ^ “Jaaroverzichten – Single 2002”. dutchcharts.nl. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  73. ^ “Billboard Top 100 – 2002”. Billboardtop100of.com. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2020.
  74. ^ a b “The Year in Music 2002” (PDF). Billboard. 114 (52): YE-87. 28 tháng 12 năm 2002. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2020.
  75. ^ “Hot Rock Songs - Year-End 2017”. Billboard. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  76. ^ “Top AFP – Audiogest – Top 3000 Singles + EPs Digitais” (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2020.
  77. ^ “ARIA Australian Top 50 Singles”. Australian Recording Industry Association. 31 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2017.
  78. ^ “Denmark single certifications – Linkin Park – In the End”. IFPI Đan Mạch.
  79. ^ “Italy single certifications – Linkin Park – In the End” (bằng tiếng Ý). Liên đoàn Công nghiệp âm nhạc Ý. Chọn "2019" trong bảng chọn "Anno". Nhập "In the End" vào ô "Filtra". Chọn "Singoli online" dưới phần "Sezione".
  80. ^ “New Zealand single certifications – Linkin Park – In the End”. Recorded Music NZ.
  81. ^ “Spain single certifications – Linkin Park – In the End” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Chọn lệnh single trong tab "All", chọn năm cấp chứng nhận trong tab "Year". Chọn tuần cấp chứng nhận trong tab "Semana". Nháy chuột vào nút "Search Charts".
  82. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2001” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Thụy Điển.
  83. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Awards (Linkin Park; 'In the End')”. IFPI Switzerland. Hung Medien.
  84. ^ “Britain single certifications – Linkin Park – In the End” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Chọn singles trong bảng chọn Format. Chọn Multi-Platinum trong nhóm lệnh Certification. Nhập In the End vào khung "Search BPI Awards" rồi nhấn Enter
  85. ^ “American single certifications – Linkin Park – In the End” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Single rồi nhấn Search
  86. ^ “Denmark single certifications – Linkin Park – In the End (Streaming)”. IFPI Đan Mạch.

The biggest difference between the heavy metal of today and heavy metal during the glory days of the 1980s is that today it is rife with division. Mainstream versus underground. “Extreme” versus “traditional.” Rigid versus experimental. Cartoonishly vulgar versus socially conscious. Those who like screamed vocals versus those who don’t understand why bands don’t sing anymore. Thirty-five years ago, it was a lot simpler. Venom, Celtic Frost, and Bathory were metal. Metallica, Slayer, and Mercyful Fate were metal. Iron Maiden, Judas Priest, and Ozzy Osbourne were metal. And Def Leppard, Ratt, and Mötley Crüe were metal.

If any geezer who witnessed the rise of heavy metal in the ’80s boasts about buying early classic underground albums and shrugs off the pop side of the genre, chances are he’s lying through his grizzled teeth. If you owned a Slayer tape in 1984, you probably had Ratt’s Out Of The Cellar as well. Back then, the excitement of what was happening in the underground and mainstream transcended silly self-imposed boundaries. The evolution of metal in the ’80s was unlike anything the genre has experienced since, and back then the fans drank it all in. As a teen, if you had six bucks burning a hole in your pocket, you could take a chance on something you saw on a record store shelf and the odds were good that what you were going to hear was extraordinary. One day you might go for the tape with the crudely illustrated pentagram and skulls; the next you’d try out something flashier and glam-oriented. And for a while in the ’80s, before saturation peaked and its popularity reached its apex, the pop side of metal matched the underground step for step.

Don’t call it “hair metal.” Don’t call it “glam metal.” Although the coifs were big back then — hell, James Hetfield’s bleached ‘do was sloppily teased — and the spandex, glitter, and women’s makeup were used to the hilt, putting image over music does the music a great disservice. As trite as a lot of those bands were — and many have seen The Decline Of Western Civilization Part II: The Metal Years by now — there was a lot of musical smarts on display, and in several cases, innovation.

The “pop metal” presented here focuses exclusively on how bands in the ’80s were able to juxtapose the core characteristics of heavy metal with elements of pop music. In essence, a marriage between masculine sounds and feminine sounds, which in turn plays into the androgyny of bands’ images back then. Guitars and drums sounded muscular, singers were brash and flamboyant, but at the same time there was openness to melody. Consequently, the very best pop metal found that perfect balance between riffs and melody.

Although this piece focuses on pop metal’s peak decade, from the beginning of 1982 through 1991, its roots, of course, trace back to a decade prior. As if a response to the robust sounds of heavy metal innovators like Black Sabbath, Deep Purple, and Uriah Heep, young bands in the ’70s started to incorporate a more upbeat, energetic feeling. Following in the footsteps of Alice Cooper, T. Rex, and David Bowie, bands like Montrose, Blue Öyster Cult, and KISS put their own decidedly American spin on harder-edged rock and heavy metal. AC/DC and Thin Lizzy brought their own brands of energy, force, and nuance to the sound. However, the real tipping point was when Van Halen released their seminal debut album in 1978. It suddenly made that style even flashier, more creative, and more energetic than ever before, which in turn transformed Los Angeles into that musical style’s ground zero. Specifically, the Sunset Strip of West Hollywood became the hub, as earnest young bands would compete among each other for the attention of club owners, and record label reps, and girls — and not necessarily in that order.

Compiling a definitive list of the very best tracks from the pop metal era was no easy task, and a lot of excellent music had to be left out. Classic tracks by Dio, W.A.S.P., Stryper, Y&T, Badlands, Trixter, Warrant, Slaughter, Dangerous Toys, Great White, Rough Cutt, and more missed the cut, but in the end what you’ll discover is a collection of 36 songs that best exemplified what pop metal was all about. In the end, this music was about loving life and having fun, and in 2017, especially, it’s important to remember to have fun — or at the very least smile once in a while.

36. Enuff Z’Nuff – “Fly High Michelle” (1989)

What a breath of fresh air Enuff Z’Nuff were in 1989. They might have been lumped in with the hair metal trend — and looking at their old videos, you can see why — but they actually had more in common with Big Star and Cheap Trick in how they smartly blended elements of the Beatles and psychedelic rock with flashy hard rock. Arriving at the peak of the sleaze rock wave of metal’s pop era, the Chicago band was a little too rosy-hued for what a lot of rock fans were after, however, “Fly High Michelle” remains a beautiful anomaly. The Chicago band’s Chilton-meets-Lennon audacity works so well on this track, showing the artful potential of pop metal that, sadly, too few artists attempted.

35. Poison - Thiên thần rơi xuống (1988)

Poison là những chàng trai tốt bụng của cảnh hoàng hôn. Âm nhạc của họ nhẹ hơn, tích cực hơn và lãng mạn hơn so với các đồng nghiệp còn lại của họ, nhưng khi nó hoạt động, như trên 1988, Fall Fallen Angel, đó là bằng chứng họ tài năng hơn nhiều so với nhiều người cho họ tín dụng. Một phản ứng từ bi hơn đối với người yêu thích sự chào đón đến rừng rậm, Hồi giáo thiên thần rơi xuống là một bản phác thảo nhân vật nhỏ ngọt ngào của Bret Michaels (Hồi, nơi mà cô gái tôi biết một năm trước? Công việc guitar sủi bọt Deville. Trong khi nói chuyện bẩn thỉu với tôi, và Not Nothin, nhưng một thời gian tốt, đã được thực hiện một cách chuyên nghiệp, bài hát này cho thấy một chút trái tim.

34. Pussycat nhanh hơn - Bức tường phòng tắm (1987)

Album đầu tay của Pussycat từ năm 1987 là một trong những niềm vui lớn của làn sóng nhạc rock Sleaze, một kỷ lục gợi lên mọi thứ từ Aerosmith, đến The Stones, cho đến Johnny Thunders. Bức tường phòng tắm của người Viking là một đĩa đơn lớn, và đúng như vậy, một con búp bê New York vô cùng tôn kính rằng trò chơi gutter thuần túy ngay từ đầu. Còn tiền đề nào tốt hơn cho một bài quốc ca Sleaze Rock hơn là một ca sĩ kết nối với một cô gái (hoặc chàng trai) nhờ một số graffiti trong một gian hàng sơ sài?

33. Châu Âu - Hồi Đếm ngược cuối cùng (1986)

Với một trong những phần giới thiệu tổng hợp nhất trong lịch sử rock, thì The Final Countdown, đã chứng minh thêm rằng ngớ ngẩn có thể đi một chặng đường dài trong kim loại nặng. Cho dù đó là Joey Tempest có vần điệu của Venus Venus, với việc nhìn thấy chúng tôi hay hay sự phi nước đại của bài hát, nó đã tỏ ra quá không thể cưỡng lại trên quy mô toàn cầu đến mức mà sự phổ biến trên toàn thế giới của nó trở nên thực sự siêu thực vào mùa hè năm 1986. 30 năm sau, nó vẫn còn được nhúng trong ý thức văn hóa nhạc pop, dù mỉa mai hay chân thành.

32. Đen ‘N xanh - Miss Miss Missiony (1985)

Ban nhạc Portland Black ‘N Blue là một trong nhiều ban nhạc kim loại Mỹ trong những năm 1980 đã bỏ lỡ chiếc nhẫn bằng đồng đó mặc dù đã đưa ra âm nhạc chất lượng. Sau khi được đưa vào tổng hợp bản demo Massacre Massacre năm 1982 cùng với Metallica và Ratt, và đưa ra một buổi ra mắt năm 1984 rất tốt do Gene Simmons sản xuất, 1985, không có tình yêu đã có một cách tiếp cận nhẹ nhàng hơn với nhà sản xuất Bruce Fairbairn. Trong khi album là một flop, nó đã mang lại một giai điệu nhỏ kỳ diệu có tên là Miss Miss Mystery, một cách khéo léo đi trên ranh giới giữa Power Ballad và Hard Rocker. Đồng sáng tác bởi cộng tác viên Bryan Adams Jim Vallance, nó loại bỏ Braggadocio thông thường của bối cảnh kim loại, để lộ một chút hùng hồn và linh hồn bên dưới mạng lưới Spandex và Aqua.

31. Yêu/ghét - "Tại sao bạn nghĩ họ gọi nó là dope?" (1990)

Tình yêu/ghét là một sự bất thường hoàn toàn trong bối cảnh LA Glam vào cuối thập niên 80 ở chỗ họ có một chút phiêu lưu âm nhạc hơn so với đám đông nhạc rock nhếch nhác thông thường. Chắc chắn, album đầu tay năm 1990 của họ mất hiệu lực trong Red Room lao vào Rock Rock (người có thể quên được Nữ hoàng Rock Rock thực sự đáng sợ) nhưng nó đã được chuộc lại bởi những khoảnh khắc sáng tạo, trong đó là người tốt nhất là một bản hit nhỏ tại sao bạn Nghĩ rằng họ gọi nó là dope? ” Với bóng đá corn-bass (đã xé toạc những quả ớt nóng đỏ thời trang sau đó) và một bản nhạc rap điên cuồng của ca sĩ Jizzy Pearl, bài hát hoạt động vì lời bài hát trung thực thẳng thắn của nó và phần thưởng lớn đó trong điệp khúc.

30. Nụ hôn - "Lick nó lên" (1983)

Giữa những năm80 là một thời gian kỳ lạ cho KISS khi họ cố gắng xác định lại một cách tuyệt vọng để xác định lại hình ảnh và âm nhạc của họ, và trong khi sản lượng của họ từ thời kỳ này phần lớn bị bỏ qua ngày hôm nay, hơn một vài bản nhạc đã đứng trước thử thách của thời gian. Tay guitar Vinnie Vincent là một lý do rất lớn 1983, Lick Lick nó hoạt động rất tốt và ca khúc chủ đề là một ví dụ hoàn hảo, được xây dựng xung quanh đoạn riff đơn giản nhất có thể tưởng tượng được, cuối cùng lặp lại giai điệu điệp khúc. Bài hát là Pure Paul Stanley Smarm, và tuyệt vời như vậy, vì sự thẳng thắn của anh ấy để được thực hiện, erm, dễ nuốt bởi cái móc không thể phủ nhận do anh ấy và Vincent tạo ra.

29. Lita Ford - "Hôn hôn tôi chết" (1988)

Trong khi Joan Jett lãng phí thời gian để khởi động một sự nghiệp solo thành công sau khi chia tay Runaways, người bạn cũ của cô Lita Ford đã mất nhiều thời gian hơn để tìm giọng nói của mình. Ford rơi vào với đám đông Sunset Strip vào đầu thập niên 80 và vật chất ban đầu của cô phản ánh vẻ ngoài và âm thanh đó, mặc dù hơi lúng túng. Phải mất bốn năm để theo dõi thích hợp cho Dancin 'On The Edge năm 1984 để đến (một album được sản xuất bởi bạn trai lúc đó là Tony Iommi đã bị loại bỏ), nhưng nhờ người quản lý mới Sharon Osbourne và nhà sản xuất tóc vàng Mike Chapman The Sleek Kiss Me Deadly đã cất cánh ngay khi nó được phát hành vào đầu năm 1988. Nó vẫn là bức ảnh chắc chắn về tính cách của Ford vào thời điểm đó - trên khuôn mặt của bạn, dễ thương và bắc cầu đá, kim loại và pop với chuyên môn khéo léo.

28. Night Ranger – “When You Close Your Eyes” (1983)

Night Ranger’s 1983 album Midnight Madness will always be remembered for the masterful power ballad “Sister Christian,” but “When You Close Your Eyes” is the best distillation of the San Francisco band’s sound. Very much like Journey, they combined pop songwriting, overdriven metal guitar, and sleek synthesizers into a high-gloss sound. What set Night Ranger apart was their use of dual lead singers — bassist Jack Blades and drummer Kelly Keagy — and their interplay, backed by Brad Gillis’ nimble but restrained lead fills, altogether making this upbeat track an absolute charmer.

27. Extreme – “Get The Funk Out” (1990)

Metal bands had been tinkering with funk as the ’80s went on, and this memorable track from Extreme’s second album remains far and away the best moment. Not only does Nuno Bettencourt’s guitar work effortlessly alternate from ’80s shred and ’70s shred, but “Get The Funk Out” swings hard. It would be nothing without the rhythm section of Pat Badger and Paul Geary, as the duo makes damn sure that there are as many butts shaking as there are heads banging.

26. Cinderella – “Gyspy Road” (1988)

After their 1986 breakthrough debut Night Songs, which offered a very fun mix of party anthems and a tantalizing hint of gothic rock, 1988’s Long Cold Winter was a startling change in direction, as singer/songwriter Tom Kiefer started to explore his love for blues rock. More .33 Special than AC/DC, the opening riff of the shamelessly effervescent “Gypsy Road” bursts with Southern rock life and doesn’t feel at all contrived. At its best, pop metal was celebratory, and few songs from the era exuded as much pure joy as this track does.

25. Autograph – “Turn Up The Radio” (1984)

No question, Autograph owed their record deal to David Lee Roth, as drummer Keni Richards’ friendship with Roth led to their touring with Van Halen and subsequent signing with RCA. However, “Turn Up The Radio” became a smash in late 1984 thanks to its blend of party metal and rock ‘n’ roll hooks. Bolstered by a sensational, innovative solo by guitarist Steve Lynch and a bevy of shout-along lines (“Daytime, nighttime, things go better with rock!”) the single was emblematic of rock in 1984: celebratory, boisterous, and extremely catchy.

24. Winger – “Seventeen” (1988)

While it’s hard not to get over the sleaze factor of Winger’s breakthrough single from 1988, from a musical standpoint it’s a marvel. Four minutes of tightly performed glam metal, hard rock, funk, jazz fusion, and progressive rock, “Seventeen” moves, shifts, and jives away with nimble grace, channeling Funkadelic one moment and Van Halen the next. With Dixie Dregs drummer Rod Morgenstein and young guitar whiz Reb Beach, bassist and singer Kip Winger puts enough glam showmanship in his vocal performance to make it palatable for young rock listeners at the time. With a video that put Kip’s photogenic mug front and center, the kids bought into it — unbeknownst that they were dancing in the high school gym to some first-rate progressive metal.

23. Ozzy Osbourne – “Shot In The Dark” (1986)

The smartest thing Sharon Osbourne did in 1986 was to have her husband Ozzy liven up a very middling album with a cover of “Shot In The Dark,” originally recorded by his bassist Phil Soussan’s old band Wildlife. Bolstered by Jake E. Lee’s flashy guitar work and a very affecting vocal performance by Ozzy, it was the one moment on The Ultimate Sin that approached the greatness of Ozzy’s first two solo albums, a moment where Ozzy went pop and succeeded mightily.

22. Hanoi Rocks – “Boulevard Of Broken Dreams” (1984)

Hanoi Rocks should have been huge. In fact, the Finnish band was on the brink of breaking big into the American market when drummer Razzle was killed in a drunk driving incident with Mötley Crüe’s Vince Neil at the wheel in December 1984. Produced by Bob Ezrin, their fifth album Two Steps From The Move was a boisterous blast of New York Dolls-derived glam metal. “Boulevard Of Broken Dreams” combined murky subject matter (substance abuse) with a gloriously upbeat groove, led by Michael Moore’s menacing growl. The band imploded shortly after Razzle’s death, sadly relegated to footnote status while an unrepentant Neil and company coasted to global fame.

21. Dokken – “In My Dreams” (1985)

Dokken’s singles discography in the ’80s rivals that of Def Leppard and Bon Jovi, but while their sterling run of music that decade put them on the cusp of the big time, their commercial success was only moderate at best. What made Dokken so great was the brilliant, dysfunctional dynamic between singer Don Dokken and shredder extraordinaire George Lynch, and the best moments achieve an impeccable balance between vocal melody and virtuosic guitar work. 1985’s “In My Dreams” is the band’s high water mark, the best example of that sensitive/savage give-and-take. The vocal harmonies rival the best work by Scorpions, while Lynch’s solo, delivered at blinding speed, is simply astonishing, flashy yet ever mindful of serving the song.

20. David Lee Roth - Hồi Yankee Rose (1986)

Sau khi khởi hành công khai từ Van Halen vào năm 1985, David Lee Roth đã đi tất cả các ánh sáng trên toàn bộ chiều dài solo đầu tay của mình. Với cựu Alcatrazz/Zappa Whiz Steve Vai trên guitar và Billy Sheehan bằng ngón tay không kém bằng hạm đội trên bass, thì Yan Yankee Rose là một người salvo mở đầu đáng kinh ngạc. Tốt như bài hát Hook của Track (đèn sáng! Trong khi Van Halen chơi nó tương đối an toàn trên 5150 bị đánh giá thấp, Roth đã thể hiện một khía cạnh thử nghiệm vào năm 1986, phát hiện ra một âm thanh phù hợp hoàn hảo với tính cách của Diamond Diamond Dave.

19. Def Leppard - Động vật Hồi (1987)

Trong tất cả 12 bài hát trên kiệt tác của Def Leppard, 1987, người nổi tiếng là một người tuyệt vời nhất. Tất cả mọi thứ về nó đều vô nhiễm: những bản hòa âm nhiều phần, âm thanh trống, lớp của các bản hòa âm và máy bay không người lái, cây đàn guitar nhanh nhẹn hoạt động trên những cây cầu và sự phá vỡ solo vênh vang đó. Rất ít người biết cách của họ xung quanh một âm thanh cũng như Def Leppard và Mutt Lange đã làm hồi đó và Joe Elliott dẫn đầu, đưa một số nhân loại vào một ca khúc có thể cảm thấy vô trùng. Trong khi một người bị đình trệ duy nhất ở Mỹ-điều quan trọng cần nhớ là sự cuồng loạn được coi là một thất bại trước khi đổ một ít đường vào tôi Bước đột phá biểu đồ quá hạn của ban nhạc ở quê nhà của họ.

18. Bon Jovi - Bạn cho tình yêu một cái tên xấu (1986)

Sau khi tán tỉnh Stardom trong hai album đầu tiên của họ, ban nhạc Jersey Hard hoạt động Bon Jovi đã vung vẩy hàng rào trong album số ba, hợp tác với nhà sản xuất Bruce Fairbairn. Trong khi cách tiếp cận của Fairbairn về sự trơn trượt khi ướt chính xác là cùng một tảng đá pop bóng cao mà anh ấy đã giúp khuôn cho các ban nhạc Canada Prism, Loverboy và Tuần trăng mật, sự kết hợp giữa những thứ quái dị của Bon Jovi, công việc guitar hào nhoáng của Richie Sambora và âm thanh của Fairbairn là âm thanh hoàn hảo Thời gian vào mùa hè năm 1986. Tự hào với một dòng mở đầu không thể cưỡng lại (hãy tiếp tục, hát ra) Bạn cho tình yêu một cái tên xấu đã thành công khi mà Run Runaway và và trong và ngoài tình yêu đã bỏ lỡ dấu ấn. Được hỗ trợ bởi vẻ ngoài tóc chó của họ và một video cho phép máy ảnh, Bon Jovi được coi là một cảm giác qua đêm. Nhưng đối với những người biết, đó là một thời gian dài đến và chắc chắn kiếm được nhiều tiền.

17. Riot yên tĩnh - Sức khỏe kim loại (Bang Your Head) (1983)

Bìa của Riot Riot, năm 1983 của Slade xông vào Cum On Feel The Noize, là người đột phá của ban nhạc Los Angeles - cũng như thời điểm đưa kim loại nặng vào ý thức chính thống của Mỹ - nhưng không thể bỏ qua ca khúc chủ đề từ Metal Health. So với Def Leppard, thành công chéo kim loại lớn khác của năm 1983, điều này nặng hơn rất nhiều, dẫn đầu bởi một đoạn riff mở rộng đáng sợ hoàn toàn bằng với sự hiện diện thống trị của ca sĩ Kevin Dubrow. Với sự tham gia sản xuất của Spencer Profer đã làm dịu bài hát của Edge Edge một chút, sức khỏe kim loại mạnh mẽ (Bang Your Head) là một thế hệ mới bắt đầu vào lĩnh vực thú vị của Heavy Metal trong thập niên 80.

16. Vua Lừa x - trên đầu tôi (1989)

Metal đã không có một khoảnh khắc âm nhạc nào giống như trên đầu tôi, trước đó hoặc kể từ đó. Kết hợp các đoạn riff lái xe khó khăn, sáng tạo rock tiến bộ và ảnh hưởng Tin Mừng khổng lồ, Houston Trio King, X X đã tạo ra vàng trên ca khúc nổi bật này từ album cổ điển năm 1989 Gretchen Goes to Nebraska. Nó có một bản nhạc rock ’n roll roll với sự băm nhỏ độc ác khi Doug Pinnick làm chứng cho người nghe của mình trong một màn trình diễn giọng hát của nhà máy điện. Chỉ đủ trừu tượng để để lại ý nghĩa của nó để giải thích, nó là một bản nhạc kim loại thống nhất người nghe với sự cởi mở, tích cực và ý tưởng của nó.

15.

Có rất nhiều bài hát trong kinh điển âm nhạc nổi tiếng, nơi một tiếng trống là hook. Ngay khi bạn nghe thấy tiếng trống đầy tiếng vang nhưng vui nhộn và phần giới thiệu của Cowbell trên trên mạng, chúng tôi sẽ không nhận nó, bạn biết chính xác nó là bài hát gì. Trong lịch sử, điều quan trọng là phải nhớ Twisted Sister là một cầu nối quan trọng giữa làn sóng mới của Anh kim loại nặng và vụ nổ kim loại nặng của Mỹ, vì vai trò của họ là những người đổi mới thường bị bỏ qua. Họ cũng biết một giai điệu rock hay, và chúng tôi sẽ không lấy nó, được cắt từ cùng một miếng vải với Alice Cooper, những kẻ độc tài và búp bê New York từ thập kỷ trước. Được dẫn dắt bởi một Dee Snider chế ngự tuyệt vời, năm túi bụi bẩn từ Long Island đã tiến vào Thiếu niên Zeitgeist với bài quốc ca không thể quên của họ và năng lượng của nó bây giờ cũng có thể sờ thấy như vào mùa xuân năm 1984.

14. Guns N’ Roses – “Welcome To The Jungle” (1987)

Although Appetite For Destruction was every bit as contrived as every other Sunset Strip album before, the big difference was that Guns N’ Roses were more convincing than anyone. “Welcome To The Jungle” remains a perfect evocation of 1980s Hollywood sleaze, tapping into the darkness that self-professed outlaws Mötley Crüe and W.A.S.P. could only hint at. It is gritty, mean, and unflinching, but most importantly, it is phenomenally catchy. From Slash’s descent-into-hell intro, to that wicked, wicked serpentine groove that out-Aerosmiths Aerosmith, and Axl’s idiosyncratic but instantly memorable vocal delivery — it’s an insidious opening salvo on the most explosive rock/metal album of 1987.

13. Whitesnake – “Still Of The Night” (1987)

From 1978 through 1982, Whitesnake was a very good (albeit archaic-sounding) heavy blues act led by former Deep Purple singer David Coverdale and guitarists Micky Moody and Bernie Marsden. Things changed when Coverdale completely reworked the band’s sound, giving it a more contemporary hard rock sound thanks to the inclusion of flashy young guitarist John Sykes, formerly of Thin Lizzy and Tygers Of Pan Tang. The partnership hit paydirt in 1987 with Whitesnake’s self-titled seventh album, and while the updated rendition of Whitesnake’s 1982 single “Here I Go Again” was their biggest hit, it was “Still Of The Night” that made the big impression among the metal crowd. Featuring a slithering lead riff by Sykes and some brilliant use of stops and starts, it’s pure blues rock in the tradition of early Whitesnake and Led Zeppelin and Cream before that, with an inspired keyboard break that adds heightened drama to the song. Coverdale is in fine form, vamping lecherously as he loves to do, but it’s Sykes who carries it with his mix of flamboyance and grit. Sykes would be long gone by the album’s release, as Coverdale underwent another band/image makeover, sporting moussed and highlighted hair and an all-star backing band. While Coverdale would ride that wave of well-earned fame over the next few years, Whitesnake would never equal what he and Sykes pulled off.

12. Skid Row – “18 And Life” (1989)

While many forget just how great of a heavy metal band Skid Row could be, there’s no question their 1988 debut album featured some phenomenal pop metal moments. Much like Bon Jovi at the time, the New Jersey band played the Springsteen card on the blue-collar ballad “18 And Life,” but what put the song over the top were the vocal skills of a Canadian. Sebastian Bach was an up-and-comer in the Toronto metal scene throughout the ’80s, and with Skid Row he had finally found the perfect collaborators. With his startling vocal range, his ability to convey emotion, and his impeccable enunciation, Bach brought element of theatricality that so many similar bands lacked. His sensational performance on the melancholic and beautiful “18 And Life” is a gigantic reason why it is by far Skid Row’s most popular song.

11. Mötley Crüe – “Home Sweet Home” (1985)

While “Wild Side” and “Too Young To Fall In Love” are Mötley Crüe’s best moments, “Home Sweet Home” is their best moment when metal and pop found a perfect balance. This 1985 single was not the first power ballad of its kind, but it set the template for pop metal for the rest of the decade, from its overt sentimentality to its “heroic road warrior” music video (most were directed by Wayne Isham). The way it shifts from Tommy Lee’s tender piano intro to that crashing power chord is perfect while the glorious execution of heavy metal dynamics and Mick Mars’ towering solo adds just the right amount of darkness to keep such a saccharine song from getting too syrupy.

10. Kix – “Cold Blood” (1988)

Throughout the ’80s, Maryland band Kix showed an incredible work ethic, but their efforts never translated into album sales. Then, in 1988, they hit paydirt with their fourth album Blow My Fuse, which connected with a large audience thanks to some contagious, boisterous barroom rock ‘n’ roll. “Cold Blood” tapped into the Crüe/GNR sleaze sound with its slithering, bluesy guitar fills, but its melodic chorus strips away the menace and cranks up the fun. Kix’s success was fleeting but very deserved, and “Cold Blood” was one of the brightest moments of the pop metal era.

9. Judas Priest – “Turbo Lover” (1986)

Judas Priest’s 1986 album Turbo was a divisive record, opting for a more contemporary rock sound and embracing synthesizers, but in retrospect it’s one of the smartest albums of their storied career, rife with sly experimentation. A monstrous single for the band, “Turbo Lover” incorporates a motorik beat lifted straight out of Kraftwerk and brilliantly utilizes the Roland GR-700 guitar synthesizer, making what would otherwise have been a rather boring track with hackneyed lyrical metaphors (“Wrapped in horsepower/ Driving into fury”) into a spellbinding, atmospheric experience. For all the initial detractors, it has since become one of the most popular songs in Judas Priest’s discography.

8. Guns N’ Roses, “Sweet Child O’ Mine” (1987)

The greatest album of sleazy, badass rock ‘n’ roll since Exile On Main St., Appetite For Destruction also had plenty of soul and by far the best example of that is this oddly sweet little ballad buried deep on side two. What starts off as sounding cornball and overly sentimental winds up taking the listener on a journey from brightness to darkness, pop slowly giving way to gutter-level metal. There are so many memorable moments: Slash’s cornball intro, initially done as an exercise. Duff McKagan’s upper-register bass melody, a little derivative of Peter Hook from New Order. A beat too brisk to be a power ballad. Axl’s disarmingly sweet lyrics dedicated to Erin Everly, his girlfriend at the time. That key change from F-sharp major to E-flat minor. The single greatest hard rock guitar solo of the ’80s. A moment of doubt: “Where do we go now?” Some astonishing interplay between Axl and Slash. An ending that’s uncertain, and surprisingly downcast. A musical legacy defined in four seconds shy of six minutes.

7. Alice Cooper – “Poison” (1989)

After a pair of reputable comeback albums in the late ’80s that focused on the robust, heavy metal side of his oeuvre, Alice Cooper revisited the glam ‘n’ sleaze of Billion Dollar Babies on 1989’s Trash. Co-written with ace songwriter Desmond Child, “Poison” was Coop’s ’80s peak and a global smash thanks to a chorus that exuded menace and sensitivity, building intensity until it bursts into a climactic line underscored by rich backing vocals. If there’s one thing Child knew it was economy, and the simple language of “Poison” (“Your skin/ So wet/ Black lace /On sweat”) leaves an indelible impression to this day.

6. Aldo Nova – “Fantasy” (1982)

Pre-dating the breakthroughs of Def Leppard, Bon Jovi, and Night Ranger by a year, Canadian singer-songwriter Aldo Nova honed the ’80s pop metal template, which combined the swagger of Van Halen and Montrose with the keyboard-driven rock of Journey and Loverboy. A portrait of ’80s excess, it’s part cautionary tale, part celebration (“Feels all right/ Powder pleasure in your nose tonight”), boasting a sharp riff accentuated by a brilliant descending twin guitar harmony that mirrors that downward spiral. The man knew what he was doing, because the public listened: “Fantasy” cracked the US Top 30 and his self-titled debut album went double platinum.

5. Scorpions – “Rock You Like A Hurricane” (1984)

One of the great things about Scorpions is how singer Klaus Meine, through his middling grasp of the English language, could come up with the most brilliant, memorable nonsensical lines that a native English speaker could never come up with. 1984’s absurdly titled global smash “Rock You Like A Hurricane” is peak Klaus Meine, but also peak Scorps. They’d been tinkering with mainstream-friendly rock on several albums after spending of the ’70s breaking new ground in heavy metal, and “Hurricane” was the perfect marriage of heaviness and melody. Rudy Schenker’s rhythm riff is authoritative, Matthias Jabs’ lead fills are timeless, and Meine is all over the song, singing about hungry wolves and purring kitties that “scratch ma skin.” It makes absolutely no sense, but sounds phenomenal. Dieter Dierks’ digital production was groundbreaking at the time, and 33 years later sounds as badass as it ever did.

4. Ratt – “Round And Round” (1984)

Ratt were so on top of their game from 1983 to 1986 — yielding three albums that remain high watermarks of the Sunset Strip scene — that too many tracks to mention would qualify for this list. However, “Round And Round” is the easy top choice, a wicked song with nonsensical lyrics featuring a twin guitar attack that rivals Judas Priest. The riffs by Warren DeMartini and Robbin Crosby are razor sharp (their tandem solo is a thing of beauty), bassist Juan Croucier adds richness to the song with his distinct, funky bassline, and Stephen Pearcy sneers like the arrogant pretty-boy that he was. “Round And Round” is pure American swagger, arrogant and brash, and not only one of pop metal’s finest moments, but peak heavy metal circa 1984 as well.

3. Van Halen – “Jump” (1984)

Metal fans might grumble that “Panama” is the definitive Van Halen moment from the 1984 album, but the impact of “Jump” in late-’83 was colossal. The deviation was stunning: here was the ultimate American guitar rock band, with the ultimate American guitar god, doing a complete about-face and delivering a song that was 90% keyboards. And the end result was, and still is, glorious. Eddie Van Halen’s incessant riff on his Oberheim OB-Xa never leaves your head after you hear it for the first time, and David Lee Roth sounds his most charismatic since the band’s 1978 debut. Along with Alex Van Halen’s most restrained drumming to date and just enough guitar overdubs to keep the song grounded, “Jump” is a perfect encapsulation of rock ‘n’ roll energy and resounding proof to stodgy rock fans that keyboards can convey that energy just as well as an electric guitar can.

2. Sư tử trắng - Chờ đợi ”(1987)

Khi hầu hết mọi người nghĩ về White Lion, họ có thể sẽ nhớ ca sĩ Mike Tramp, người có giọng nói nam tính và vẻ ngoài tốt đẹp đã giúp ban nhạc thành phố New York đột nhập vào năm 1988. Tuy nhiên, lý do lớn nhất White Lion đã vượt qua năm đó là bài hát Chuyên môn của guitarist Vito Bratta. Ở trạng thái tốt nhất, sở trường của anh ấy để làm nổi bật những cú móc với tác phẩm guitar sáng tạo là vô song, và Chờ đợi từ album Pride năm 1987 là một kiệt tác. Bratta cho phép Tramp dẫn đường, khiến anh ta trở thành tâm điểm ngay từ đầu, đi kèm với những câu thơ với một mô hình riff Van Halen-esque vui tươi. Tuy nhiên, bên cây cầu, sức mạnh được xây dựng như guitar acoustic và guitar điện đan xen với tiếng hát tramp một cách đơn giản, vì vậy nếu bạn đi xa/ Tôi biết rằng tôi sẽ theo dõi/ 'vì có một nơi trong trái tim tôi nói với tôi/' giữ. 'Sau khi một số trò chơi cọ đe dọa của Bratta, bài hát cho phép ánh sáng trở lại cho đoạn điệp khúc-một sự bùng nổ lấp lánh của những bản hòa âm thanh nhạc là vẻ đẹp tuyệt đẹp. Một nghệ sĩ guitar chính có sở thích và sự kiềm chế là đáng kinh ngạc cho thể loại mà anh ấy tham gia, Bratta rút ra một bản độc tấu khéo léo, duyên dáng và cảm xúc, bay quanh nhịp điệu như một con bướm. Nó có một sự xấu hổ tuyệt đối mà người bản địa Đảo Staten đã ngừng phát hành âm nhạc vào năm 1992, nhưng dấu ấn anh ta làm với White Lion là không thể xóa nhòa.

1. Def Leppard - Ảnh chụp ảnh (1983)

Ảnh chụp ảnh có thể là một trong những thành công chéo kim loại/pop trước đó của thời đại, nhưng vẫn là không, không có gì, ví dụ hoàn hảo nhất về hình thức âm nhạc này. Đĩa đơn đầu tiên ra khỏi album Pyromania của Def Leppard, Epochal 1983, nó là một cú đẩy và kéo khéo léo giữa các kim loại nặng, cơ bắp, định hướng riff và sự nhạy cảm pop nguyên sơ. Nó làm cho một số chàng trai và cô gái muốn trở thành họ, và nó khiến một số chàng trai và cô gái muốn làm chúng. Một thiền định nhỏ khá đơn giản trên một bức ảnh của Marilyn Monroe, nhà sản xuất Mutt Lange cho thấy tài năng đáng kinh ngạc của anh ta, nhào nặn đường đua thành một thứ gì đó có thể tạo ra một sân vận động nhưng cho phép ghi lại đáng kinh ngạc. Lúc đầu, bài hát này là tất cả về sự vênh vang với đoạn mở đầu của Steve Clark, trích dẫn việc nhấn mạnh vào lối vào đáng nhớ của Joe Elliot,: Tôi đã thoát khỏi may mắn/ thoát khỏi tình yêu/ có một bức ảnh/ hình ảnh của. Trên giấy tờ, những lời bài hát thật khó xử. Nhưng trong hồ sơ, nó ngay lập tức đáng nhớ, và bài hát đều đặn xây dựng động lực khi nó tính đến đoạn điệp khúc. Mặc dù vậy, nơi mà sự sáng chói của sáng tác và sản xuất bắt đầu. Chỉ khi bạn mong đợi đoạn điệp khúc sẽ bùng nổ sau tất cả sự căng thẳng của tòa nhà, nó sẽ thực hiện một sự thay đổi: tất cả sự biến dạng trong những cây đàn guitar biến mất để ủng hộ các giai điệu, và tiêu đề được hát một cách dịu dàng bởi các hòa âm nhiều phần được sắp xếp. Ảnh chụp ảnh đã đặt ra tiêu chuẩn cho thập kỷ tới, và trong khi một loạt các bản nhạc tuyệt vời đã cố gắng sống theo ví dụ của nó, vì bạn chỉ đọc, không có gì được đo lường hoàn toàn với khoảnh khắc sáng nhất của Def Leppard.

//

Nghe danh sách phát nhạc pop pop cuối cùng của chúng tôi đầy đủ dưới đây:

Những gì được coi là bài hát kim loại tuyệt vời nhất từ ​​trước đến nay?

#
HỌA SĨ
TIÊU ĐỀ
1
Sabbath đen
người Sắt
2
Guns n 'Roses
Chào mừng đến với rừng rậm
3
METALLICA
Bậc thầy của con rối
4
AC/DC
Trở lại màu đen
VH1 - 40 bài hát kim loại tuyệt vời nhất (cơ sở dữ liệu âm nhạc :: Dave Tompkins) Cs.Uwaterloo.ca

Bài hát kim loại xấu nhất là gì?

AC DC trở lại màu đen.....
Judas Priest - Breaking the Luật.....
Guns n 'Roses - Chào mừng bạn đến với khu rừng.....
Ozzy Osbourne - Crazy Train.....
Dio - Thánh Diver.....
Def Leppard - Ảnh.....
Pantera - Đi bộ.....
Số phận thương xót - ác.Melissa, từ đó bài hát này được thực hiện, là bản phát hành đầu tiên của nhãn hiệu kim loại yêu dấu Roadrunner ..

Ban nhạc kim loại thập niên 80 tốt nhất là ai?

Top 10 ban nhạc kim loại nặng nhất của thập niên 80..
Metallica..
Iron Maiden ..
Judas Priest ..
Motorhead..
Sabbath đen ..
Megadeth..
Slayer..
Anthrax..

Metal Metal có phổ biến trong thập niên 80 không?

Heavy Metal đã có một thời hoàng kim vào những năm 80 với các ban nhạc như Mötley Crüe, Guns N 'Roses, Riot Riot và Def Leppard thống trị mười bảng xếp hạng hàng đầu của Billboard.Metallica, Anthrax, Megadeth và Slayer đang đạt được đề cử giải Grammy.. Metallica, Anthrax, Megadeth, and Slayer were racking up the Grammy Award nominations.