chuyên môn nhất định. Từ các khái niệm này, có thể rút ra khái niệm về quản lý nhà nước
về giáo dục đào tạo như sau:
Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là việc các cơ quan nhà nước thực hiện
quyền lực nhà nước để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động GD-ĐT trong phạm vi
toàn xã hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của Nhà nước.
Hay nói cách khác, quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo là sự tác động có tổ chức
và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động GD-ĐT do các cơ quan quản
lý có trách nhiệm về giáo dục của Nhà nước từ trung ương đến địa phương tiến hành để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp GD-ĐT,
duy trì kỹ cương, thoả mãn nhu cầu GD-ĐT của nhân dân, thực hiện mục tiêu GD-ĐT của
nhà nước.
Chủ thể hoạt động quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo là các cơ quan quản lý có
thẩm quyền được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Các chủ thể này có thể là
các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương, và cơ quan quản lý giáo dục, là tổ chức,
người chịu trách nhiệm trước Nhà nước về giáo dục.
Khách thể của quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo là mọi hoạt động GD-ĐT của
hệ thống giáo dục quốc dân trong phạm vi toàn xã hội.
Đối tượng quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo là tất cả mọi thành tố của hệ thống
giáo dục quốc dân bao gồm: Nhân sự [cán bộ, giáo viên], chương trình giáo dục, các hoạt
động giáo dục, người học, các nguồn lực, học liệu, môi trường giáo dục, các cơ sở giáo dục,
các mối quan hệ trong giáo dục,
Về tổng thể, mục tiêu của quản lý nhà nước về GD&ĐT là việc bảo đảm trật tự kỷ
cương trong các hoạt động GD-ĐT, để thực hiếm được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho xã hội, hoàn thiện và phát triển nhân cách của công dân.
Trong khái niệm quản lý nhà nước về GD-ĐT phải kể tới hai yếu tố quan trọng trong
việc điều hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục, đó là công cụ và phương pháp trong
quản lý hành chính nhà nước về GD-ĐT. Công cụ chủ yếu trong quản lý hành chính nhà
nước là hệ thống các văn bản pháp luật, do đó công tác thể chế tạo ra hành lang pháp lý cho
5
các hoạt động quản lý nhà nước về GD-ĐT. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước chủ
yếu là phương pháp hành chính, tổ chức.
1.1.2 Đặc điểm quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo
Thứ nhất, tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lý
Đây là đặc điểm nổi bật của quản lý nhà nước ở mọi lĩnh vực nói chung và quản lý
nhà nước về GD-ĐT nói riêng. Đặc điểm này biểu hiện ở 3 vấn đề cơ bản sau:
- Điều kiện để thực hiện quản lý nhà nước là chủ thể quản lý phải có thẩm quyền,
thông thường thẩm quyền của các chủ thể quản lý phải được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật. Muốn có thẩm quyền để quản lí, các cơ quan quản lý nhà nước về GD-ĐT
phải được thành lập hợp pháp và cần phải thực hiện hoạt động quản lý theo đúng, đủ chức
năng, thẩm quyền được quy định, không lạm quyền cũng không đùn đẩy trách nhiệm. Đối
với các cơ quan được tổ chức theo chế độ thủ trưởng thì phải thực hiện đúng chế độ thủ
trưởng trong việc ra quyết định và trong việc chịu trách nhiệm về các quyết định quản lý
trước tập thể và cấp trên. Trong các cơ quan quản lý được tổ chức theo chế độ tập thể lãnh
đạo thì các vấn đề quản lý phải được bàn bạc tập thể và quyết định theo đa số. Trong quản
lý nhà nước, các chủ thể không có thẩm quyền sẽ không được phép thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về GD-ĐT. Việc hiểu cho đúng, làm cho đủ thẩm quyền là thước đo
khả năng sử dụng quyền lực nhà nước của một cơ quan quản lý. Trong thực tế có nhiều
trường hợp không nhận thức đúng tính quyền lực nhà nước trong các hoạt động quản lý nên
để xảy ra tình trạng Phép vua thua lệ làng, thủ kho to hơn thủ trưởng . Việc thực hiện
thẩm quyền quản lý của các chủ thể cũng phải gắn với sự phân cấp và tuân thủ thứ bậc chặt
chẽ trong quản lý nhà nước về GD-ĐT.
- Phương tiện quản lý nhà nước về GD-ĐT là các văn bản pháp luật và pháp quy.
Phương pháp chủ yếu để quản lý nhà nước là phương pháp Hành chính - Tổ chức. Cần nhận
thức rằng pháp luật, pháp quy là sự cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng và nhà
nước; phản ánh lợi ích của toàn dân. Vì vậy đây chính là hành lang pháp lý cho việc
triển khai các hoạt động quản lý, bảo đảm tính quyền lực nhà nước trong quản lý. Việc
6
không tuân thủ hành lang pháp lý trong các hoạt động quản lý về giáo dục tức là vi phạm
trật tự kỷ cương và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
- Trong quản lý nhà nước phải tuân thủ thứ bậc chặt chẽ hoạt động quản lý theo sự
phân cấp rõ ràng và mệnh lệnh - phục tùng là biểu hiện rõ nhất của tính quyền lực trong
quản lý nhà nước. Tính quyền lực nhà nước ở đây cũng chính là việc các cơ quan quản lý
cần nhận thức đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa
phương phải phục tùng trung ương trong quá trình quản lý nhà nước về GD-ĐT.
Thứ hai, kết hợp quản lý hành chính và quản lý chuyên môn trong các hoạt động
quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo
Hoạt động này vừa theo nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động
của quản lý giáo dục, vừa theo nguyên tắc hành chính giáo dục đối với một cơ sở giáo dục.
Hành chính - giáo dục thực chất là triển khai chức năng, nhiệm vụ quyền hạn do Nhà nước
quy định [phân cấp, phân công hoặc uỷ quyền]. Các cơ quan, tổ chức thay mặt Nhà nước
triển khai sự nghiệp GD-ĐT và điều hành, điều chỉnh các hoạt động GD-ĐT. Quản lý hành
chính thực chất là việc xây dựng các văn bản pháp quy và chấp hành các văn bản. Kết hợp
với quản lý giáo dục là đưa việc xây dựng các văn bản cho các hoạt động chuyên môn của
giáo dục và làm cho một người hiểu, biết được các qui định của văn bản để thực hiện cho
đúng. Ví dụ: Từ quy định của Bộ GD&ĐT về việc soạn bài, giảng bài, chấm bài, Cơ quan
Sở, Phòng GD-ĐT thậm chí đến hiệu trưởng nhà trường sẽ có những quy định chi tiết hơn
về các vấn đề đó để đảm bảo tính cụ thể, thiết thực và phù hợp với địa phương và cơ sở giáo
dục, trên cơ sở đó giáo viên chấp hành thực hiện các quy định về chuyên môn. Đó chính là
cách làm hành chính hoá các hoạt động chuyên môn.
Như vậy, đây là đặc điểm quan trọng nhất trong hoạt động quản lí nhà nước về GDĐT nhằm bảo đảm môi trường sư phạm thuận lợi cho việc thực hiện được mục tiêu giáo dục
mà Nhà nước quy định.
Cần lưu ý rằng quan tâm thích đáng đến đặc điểm này sẽ giúp cho các chủ thể quản
lý giải quyết tốt mối quan hệ ngành - lãnh thổ trong hoạt động quản lý nhà nước về GD-ĐT.
Chỉ đạo hay quản lý các hoạt động GD-ĐT trên địa bàn cần phải hiểu rõ nghiệp vụ sư phạm,
7
đặc điểm của quá trình giáo dục để chỉ đạo, quản lý chuyên môn. Chỉ trên cơ sở biết kết hợp
quản lý hành chính và quản lý chuyên môn thì mới có thể chỉ đạo, quản lý tốt hoạt động
GD-ĐT tiến tới thực hiện tốt mục tiêu GD-ĐT của Nhà nước.
Thứ ba, kết hợp Nhà nước-xã hội trong quá trình triển khai quản lý nhà nước về
GD-ĐT
Chúng ta đều biết GD-ĐT là một hoạt động mang tính xã hội cao và Đảng ta cũng đã
nhấn mạnh tư tưởng GD-ĐT là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Rõ ràng,
dân chủ hoá và xã hội hoá công tác giáo dục là một tư tưởng có tính chiến lược và nó có vai
trò rất to lớn trong sự phát triển giáo dục nói chung và quản lý nhà nước về giáo dục nói
riêng; rất nhiều bài toán quản lý nhà nước về GD-ĐT sẽ rất khó giải quyết nếu không có sự
tham gia của đông đảo lực trong xã hội. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng cần nhận thức
trong quản lý nhà nước về GD-ĐT.
1.2 Nội dung quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo
Điều 61 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Phát triển
giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Luật Giáo dục cũng quy định: Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục
quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo, quy
chế thi cử, hệ thống văn bằng, chứng chỉ; tập trung quản lý chất lượng giáo dục, thực hiện
phân công, phân cấp quản lý giáo dục, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ
sở giáo dục.1 Mục tiêu quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo là phát triển các thành tố
của hệ thống giáo dục trên các mặt: quy mô, cơ cấu, chất lượng; bảo đảm trật tự, kỷ cương
trong hoạt động giáo dục; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; hoàn thiện
nhân cách công dân.
Để thực hiện được những nhiệm vụ và mục tiêu trên, Luật Giáo dục đã cụ thể hóa
những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về GD-ĐT tại Điều 99 như sau:
1 Điều 14 Luật Giáo dục 2005 [sửa đổi, bổ sung 2009]
8
1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát
triển giáo dục;
2. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục; ban hành
điều lệ nhà trường; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục khác;
3. Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu
chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành sách
giáo khoa, giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ;
4. Tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất lượng giáo
dục;
5. Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo dục;
6. Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục;
7. Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục;
8. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục;
9. Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh
vực giáo dục;
10. Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục;
11. Quy định việc tặng danh hiệu vinh dự cho người có nhiều công lao đối với sự
nghiệp giáo dục;
12. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; giải quyết khiếu nại,
tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục.
Như vậy, có thể tóm lược nội dung quản lý nhà nước về GD-ĐT theo bốn nhóm vấn
đề sau:
- Hoạch định chính sách, ban hành các văn bản pháp quy, bao gồm các hoạt động:
Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo
dục; Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục; ban hành điều
9