Biểu hiện của cảm hứng lãng mạn trong văn học

KHUYNH HƯỚNG SỬ THI VÀ CẢM HỨNG LÃNG MẠN

TRONG VHVN GIAI ĐOẠN 1945 - 1975

1/ Nền văn học chủ yếu được sáng tác theo khuynh hướng sử thi

a/ Thế nào là một tác phẩm được sáng tác theo khuynh hướng sử thi

*/ Sử thi anh hùng là

*/ Tác phẩm được sáng tác theo khuynh hướng sử thi là tác phẩm:

- Đề tài có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân, liên quan đế những vấn đề sống còn của cả cộng đồng dân tộc.

- Nhân vật được ca ngợi là những người anh hùng sống chết vì Tổ quốc, vì Cách mạng

- Mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng : Số phận cá nhân, chuyện đời tư thường ít được đặt ra. Nếu có nói đến chẳng qua cũng để nhấn mạnh thêm trách nhiệm và tình cảm của người anh hùng đối với cộng đồng [hi sinh quyền lợi, hạnh phúc cá nhân vì lợi ích chung]

Bạn đang xem tài liệu "Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

KHUYNH HƯỚNG SỬ THI VÀ CẢM HỨNG LÃNG MẠN TRONG VHVN GIAI ĐOẠN 1945 - 1975 1/ Nền  văn học chủ yếu được sáng tác theo khuynh hướng sử thi a/ Thế nào là một tác phẩm được sáng tác theo khuynh hướng sử thi */ Sử thi anh hùng là */ Tác phẩm được sáng tác theo khuynh hướng sử thi là tác phẩm: - Đề tài có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân, liên quan đế những vấn đề sống còn của cả cộng đồng dân tộc. - Nhân vật được ca ngợi là những người anh hùng sống chết vì Tổ quốc, vì Cách mạng - Mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng : Số phận cá nhân, chuyện đời tư thường ít được đặt ra. Nếu có nói đến chẳng qua cũng để nhấn mạnh thêm trách nhiệm và tình cảm của người anh hùng đối với cộng đồng [hi sinh quyền lợi, hạnh phúc cá nhân vì lợi ích chung] - Lời văn sử thi thường trang trọng và đẹp một cách tráng lệ hào hùng. b/ Tại sao nền văn học giai đoạn này lại chủ yếu sáng tác theo khuynh hướng sử thi ? - Ra đời và phát triển trong cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại, văn học giai đoạn này phải đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt và kéo dài suốt 30 năm. - Trước những thử thách to lớn của cuộc chiến tranh, mỗi con người đều phải vươn lên nhưnhững anh hùng và đều phải có ý thức nhân danh cộng đồng mà suy nghĩ và hành động c/ Những tác giả, tác phẩm tiêu biểu : - Thơ : Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Chính Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân - Văn xuôi : Nguyễn Đình Thi [Xung kích, Vỡ bờ ]; Tô Hoài [Tây Bắc]; Nguyên Ngọc [Đất nước đứng lên, Rừng xà nu]; Nguyễn Thi [Người mẹ cầm súng, Những đứa con trong gia đình]; Nguyễn Khải [Họ sống và chiến đấu] d/ Biểu hiện của khuynh hướng sử thi: */ Đều phản anh và cổ vũ cho cuộc đấu tranh vì Độc lập tự do của Tổ Quốc. */ Những tình cảm được thể hiện chủ yếu là tình cảm đối với đất nước với nhân dân với Đảng với lãnh tụ, là tình đồng chí, tình quân dân. */ Nhân vật chủ yếu đều là những con người ở mũi nhọn của cuộc chiến đấu anh hùng. Họ có thể là lãnh tụ, chiến sĩ cách mạng, là anh bộ đội, anh giải phóng quân, cô du kích là mẹ như Mẹ Tơm, Mẹ Suốt; là chị như chị Trần Thị Lý, chị Út Tịch, chị Sứ hoặc là các em thiếu nhi như em Lượm, em Hòa [Tố Hữu]; em Lũy [Xung kích]; em Bé [Mẹ vắng nhà ] – Tất cả đề là những anh hùng sẵn sàng hi sinh vì Tố quốc vì Cách Mạng */ Những con người ấy được thể hiện trong văn học không phải chỉ với tư cách cá nhân mà họ còn đại diện cho cộng đồng. Cho nên Nguyên Ngọc đặt tên cho tác phẩm của mình khi viết về anh hùng Đinh Núp là “Đất nước đứng lên”; Tố Hữu gọi chị Trần Thị Lý là “Người con gái Việt nam”, với lời thơ thật trang trọng hình ảnh thơ thật chói lọi : Em là ai cô gái hay nàng tiên Em có tuổi hay không có tuổi Mái tóc em là mây hay là suối Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm đông Thịt da em là sắt hay là đồng. - Lê Anh Xuân viết về anh giải phong quân hi sinh trên đường băng Tân Sơn Nhất cũng không thể hiện anh như một con người cá nhân “Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ – Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường – Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ”. Anh – hình ảnh tiêu biểu  cho chiến sĩ giải phóng quân nói chung. Và bằng những từ ngữ trang trọng tráng lệ, Lê Anh Xuân đã dựng lên bức tượng đài kĩ vĩ của dân tộc Việt  Nam thời đại chống Mĩ và thắng Mĩ. */ Khuynh hướng sử thi không chỉ thể hiện ở một số tác phẩm thơ văn nào đấy mà nó được thể hiện hầu hết ở các thể loại, từ truyện kí, kịch bản sân khấu đến thơ trữ tình; không phải chỉ ở những cuốn tiểu thuyết lớn hay những thiên trường ca mà cả những truyện ngắn, truyện vừa, bút kí, thậm chí cả những vần thơ tứ tuyệt : Chống gậy lên non xem trận địa Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây Quân ta khí mạnh nuốt ngưu đẩu Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy. [Hồ Chí Minh] */ Giọng điệu cơ bản của sử thi : là ca ngợi, khẳng định, cổ vũ, tự hào: Ôi Tổ quốc giang sơn hùng vĩ Đất anh hùng của thế khỉ 20 [ Tố Hữu ] Hay : Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng          [ CLV ] Văn học sử thi 1945 – 1975 là một hiện tượng độc đáo có tính chất lịch sử. Nó nối tiếp dòng văn học yêu nước từ bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và nhất là thơ văn Cách mang đầu thế kỉ. Có thể nói mỗi khi có cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, giải phóng nhân dân, đất nước thì văn học sử thi lại xuất hiện như một biểu hiện thẩm mĩ của ý thức dân tộc và cộng đồng. 2/ Nền văn học được sáng tác theo cảm hứng lãng mạn: a/ Thế nào là cảm hứng lãng mạn trong văn học 45 – 75: - Cảm hứng lãng mạn khẳng định cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc và hướng về lí tưởng, về tương lai. - Cảm hứng lãng mạn trong văn học 1945 – 1975 là cảm hứng lãng mạn tích cực, cảm hứng lãng mạn cách mạng. Nó giúp con người ta vượt lên trên cuộc sống gian khổ và ác liệt mà hướng về tương lai chiến thắng, về cuộc sống hạnh phúc và xây dựng chủ nghĩa xã hội sau chiến tranh. b/ Tại sao văn học giai đoạn này lại sáng tác theo cảm hứng lãng mạn ? - Đứng trước giai đoạn khó khăn nhất của lịch sử, sự tồn vong của dân tộc, sự ác liệt đến tàn khốc của chiến tranh, không cho phép con người ở giai đoạn lịch sử này sống bằng lợi ích cá nhân, bằng thực tại thiếu thốn và gian khổ. Mà họ chỉ có thể sống bằng lịch sử, bằng lí tưởng bằng tương lai huy hoàng của Độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. c/ Biểu hiện: - Các tác phẩm văn xuôi : Cảm hứng lãng mạn được thể hiện ở hướng vận động của cốt truyện, của số phận nhân vật của dòng suy tưởng, người cầm bút đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ đến niềm vui, từ hiện tại khó khăn đến tương lai đầy hứa hẹn. [Rừng xà nu, Vợ chồng Aphủ, Vợ nhặt đều có kết thúc tốt đẹp] - Thơ ca : + Cảm hứng lãng mạn thường tắm lên cảnh vật và lòng người màu sắc của ngày mai tươi sáng :              Đã nghe gió ngày mai thổi lại Đã nghe hồn thời đại bay cao [Bài ca xxuân 61] –> tin tưởng vào tương lai, lạc quan yêu đời + Từ thực tế được nhân lên với kích thước của lí tưởng [dẫn chứng ] + Viết về anh bộ đội trong kháng chiến chống Pháp, cô du kích, anh giải phóng quân trong kháng chiến chống Mĩ, tác tác giả đều miêu tả trong ánh hào quang thần kì của lãng mạn thần thoại [dẫn chứng ] III/ Kết luận

Cảm hứng lãng mạn là vượt lên trên thực tế, thoát li hiện thực, đề cao tuyệt đối cái Tôi [thơ Mới], là niềm tin vào một xã hội lí tưởng [truyện lãng mạn] - có tính chất tiêu cực.

Câu hỏi: Cảm hứng lãng mạn là gì?

Trả lời:

Cảm hứng:Là những cảm xúc chủ đạo, chi phối sự tưởng tượng, sáng tạo, hoạt động có hiệu quả.

Lãng mạn: Khuynh hướng nghệ thuật tiến bộ tin tưởng vào cuộc sống tương lai tươi đẹp. Lãng mạn còn để chỉ tính cách hay mơ mộng, xa rời thực tế, giàu cảm xúc, tưởng tượng, hoặc yếu đuối, ủy mị...

Cảm hứng lãng mạn:

*Trong văn học 1930 - 1945: Cảm hứng lãng mạn là vượt lên trên thực tế, thoát li hiện thực, đề cao tuyệt đối cái Tôi [thơ Mới], là niềm tin vào một xã hội lí tưởng [truyện lãng mạn] - có tính chất tiêu cực.

*Trong văn học 1945 - 1975: Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng khẳng định cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc và vượt lên hiện thực, hướng tới lí tưởng với niềm tin sắt đá - có tính chất tích cực. Cụ thể là:

+ Khẳng định phương diện lý tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới.

+ Ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

+ Tin tưởng vào chiến thắng, vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

Cảm hứng lãng mạn đã nâng đỡ con người Việt Namcó thể vượt lên mọi thử thách, trong máu lửa của chiến tranh đã hướng tới ngày chiến thắng, trong gian khổ cơ cực đã nghĩ tới ngày ấm no hạnh phúc. Cảm hứng lãng mạn trở thành cảm hứng chủ đạo thể hiện trong nhiều thể loại văn học [thơ, truyện,...]

Kiến thức vận dụng để trả lời câu hỏi

1.Hướng dẫn dàn ýphân tích cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng trong Tây Tiến

a.Mở bài

- Giới thiệusơ lược về tác giả Quang Dũng và bài thơTây Tiến.

- Nêu vấn đề cần phân tích: Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trongTây Tiến.

b. Thân bài:

- Giải thích cảm hứng lãng mạn là gì và sự thể hiện cảm hứng lãng mạn trong tác phẩm văn chương:

+ Cảm hứng lãng mạn trong văn học được hiểu là xu thế vươn lên, vượt lên trên thực tại khách quan bằng cảm xúc chủ quan của người nghệ sĩ, thể hiện những khát vọng mạnh mẽ hướng về những vẻ đẹp khác lạ trong thế giới của mơ ước, tưởng tượng, ở tương lai hay quá khứ.

+ Cảm hứng lãng mạn vì thế thường khai thác những đề tài như thiên nhiên, tình yêu, tôn giáo, hồi tưởng, kỉ niệm,... đồng thời đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường, độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hằng ngày. Nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của tưởng tượng, liên tưởng, cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, thủ pháp tương phản, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ.

* Cảm hứng lãng mạn trongTây Tiến

- Nỗi nhớ da diết của Quang Dũng đối với đoàn quân Tây Tiến.

- Khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc đầy tươi đẹp, hùng vĩ, nét đẹp trong cuộc sống sinh hoạt của người dân miền núi được nhìn qua con mắt lãng mạn của người nghệ sĩ, người lính Tây Tiến.

- Cảnh núi non hùng vĩ, nên thơ nhưng cũng không kém phần hiểm nguy, dữ dội: “Sông Mã xa rồi... chơi vơi”, “Dốc lên... ngàn thước xuống”; “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”...

- Cảnh sinh hoạt của nhân dân miền núi: “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, “Nhớ ôi... thơm nếp xôi”, “Doanh trại bừng lên... xây hồn thơ”, “Người đi Châu Mộc... hoa đong đưa”...

=> Trong cái khó khăn, gian khổ, khắc nghiệt, những người lính Tây Tiến vẫn hướng đến những điều tốt đẹp

* Tinh thần bi tráng trong Tây Tiến

- Viết về chiến tranh, Quang Dũng không hề nhắc đến súng đạn, khung cảnh chiến trường nhưng ta cũng có thể cảm nhận được sự khốc liệt của chiến tranh: "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc...", "rải rác biên cương mồ viễn xứ"... nhưng vượt lên trên tất cả, họ vẫn "Quân xanh màu lá dữ oai hùm", "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".

=> Hình tượng người chiến sĩ bất khuất, oai phong, lẫm liệt.

- Nhà thơ diễn tả sự hi sinh của những người đồng đội nhưng chúng không hề bi lụy mà lại mang tinh thần bi tráng: "Áo bào thay chiếu... khúc độc hành".

– Đánh giá:
Như vậy, cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau làm nên linh hồn bất diệt của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp độc đáo của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp đặc sắc của thi phẩm. Có những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng độc giả và khẳng định giá trị đích thực của mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng của một thời đại anh hùng rực lửa, không thể nào quên.

c. Kết bài

– Khái quát lại giá trị nội dung : Bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng Tây Bắc ; hình tượng người lính kiên cường, quả cảm không ngại hi sinh nhưng cũng lãng mạn, mộng mơ .

2. Một số bài văn mẫu phân tích cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng trong bài thơ Tây Tiến

Mẫu 1

Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng, bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa và phong độ hào hùng của một nhà thơ chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca, và lòng người hình ảnh chiến sĩ vô danh của Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng. Là một thi phẩm xuất sắc đạt gần đến độ toàn bích, bài thơ Tây Tiến ở đoạn nào cũng có những câu đặc sắc, những hình ảnh thơ độc đáo. Nhưng sức hấp dẫn của bài thơ chính là vẻ đẹp của chủ nghĩa lãng mạn khi khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến – người lính cách mạng xuất thân từ thành thị tham gia vào cuộc kháng chiến gian khổ mà hào hùng của dân tộc.

Cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương, phóng đại, đối lập, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng.

Cảm hứng lãng mạn thể hiện đậm nét trước hết ở cái tôi của Quang Dũng. Nó trào ra từ đầu bài thơ đầy ắp và mãnh liệt một nỗi nhớ - nhớ chơi vơi, một nỗi nhớ rất lạ, hình như nhẹ tênh mà nặng trĩu vô cùng, để rồi sau đó tuôn chảy ào ạt như một dòng suối trong suốt bài thơ.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

Nỗi nhớ trải dài theo dòng sông Mã trùng điệp theo hình non thế núi. Nhớ đến hụt hẫng, trống vắng trong lòng người. Tây Tiến là một đoàn quân, nhưng tiếng gọi “ơi” lại trìu mến như tiếng gọi với một người thân. Ba vần “ơi” như da diết vang vọng vào vách núi. Đó là nỗi nhớ của tác giả với Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ da diết, lan tỏa thấm đượm trong từng câu thơ, hình ảnh thơ. Cái tôi Quang Dũng có mặt khắp nơi, lắng đọng từng chỗ, từ cảnh chiến trường hiểm trở, hoang sơ đến cảnh sông nước thanh bình thơ mộng đến đêm hội đuốc hoa đầy màu sắc xứ lạ phương xa, từ nỗi nhớ bản làng “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” đến “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật hào hoa, lãng mạn.

Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn thể hiện đậm nét trong bút pháp lãng mạn. Những thủ pháp cường điệu, đối lập được sử dụng rộng rãi, sáng tạo đã tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái tuyệt mĩ của con người và thiên nhiên.

Thiên nhiên miền Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, vừa hoang sơ mà ấm áp, làm say lòng người. Trí tưởng tượng bay bổng khiến thi nhân hình dung ra một “đêm hơi’, không chỉ có sương rừng ướt lạnh mà còn có cái lãng đãng, huyền ảo, cảm được cái oai linh của thần núi, thấy được cái “hồn lau nẻo bến bờ” và nghe thấu được cả tiếng “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Nhà thơ nhớ những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng đường núi non hiểm trở, thử thách ghê gớm với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất Hà thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên mường như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch... được nhắc đến không chỉ gợi bao nỗi nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang sơ. Nó vừa gợi ra sự gian nan, bí ẩn, thách thức, vừa gựi sự tò mò, háo hức của những chàng trai thành thị. Tất cả khung cảnh thiên nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc đến mức che lấp cả đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát hiện ra vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”. Những bông hoa núi với hương thơm ngan ngát hiện ra dần dần mờ ảo qua đêm sương, qua cái nhìn say mê lãng mạn, khiến cái mệt mỏi của đoàn quân dường như tan biến. Bao đèo cao, dốc thẳm dựng thành phía trước mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua:

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Dốc lên thì khúc khuỷu, gập ghềnh, ngoằn ngoèo; dốc xuống thì thăm thẳm, dựng đứng. Câu thơ giàu chất tạo hình như họa lại một chặng đường hành quân hiểm trở. Dốc núi ngoằn ngoèo, dốc vút lên ngàn thước, rồi lại đổ xuống thẳng đứng ngàn thước. Câu thơ cũng gập ghềnh với nhiều thanh trắc và cách ngắt nhịp 4/3 bẻ gập câu thơ tạo thế núi hoang dại, khủng khiếp. Độ cao của dốc như được đo bằng hơi thở dồn dập của người lính vượt đèo, nên càng ấn tượng. Những đỉnh núi cao mù sương, cao vút như chạm mây, mây nổi thành cồn heo hút ở lưng trời. Mũi súng trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao nhất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính. Đó là chất tinh nghịch, hồn nhiên rất lính của người chiến binh Tây Tiến.

Thiên nhiên hoành tráng, hùng vĩ nhưng người lính không hề bị chìm đi mà vẫn nổi lên đầy thách thức. Nó khẳng định ý chí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao để đi tới. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người, người lính trèo lên đỉnh núi như đi trong mây quả cảm và lãng mạn vô cùng.

Cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội mà nên thơ. Mưa mịt mù khiến những ngôi nhà sàn Pha Luông ở lưng chừng núi thấp thoáng trong mưa như bồng bềnh trên biển khơi. Câu thơ toàn thanh bằng gợi không gian mênh mông, ngập chìm trong mưa qua cái nhìn từ trên cao trải xuống. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành, yêu thương, nơi các anh đã và đang đem máu xương và lòng dũng cảm để bảo vệ.

Gian khổ với các chiến sĩ còn là “thác gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo cái oai linh, bí ẩn của rừng đại ngàn. Vẻ hoang dại ấy không chỉ mở ra ở không gian cụ thể mà còn được khám phá ở thời gian “đêm đêm”, “chiều chiều”. Tác giả miêu tả thời gian, nhưng lại gợi được không gian núi rừng, lúc nào cũng âm u, hoang vu như trong bóng tối. Nó luôn là mối đe dọa sẵn sàng nuốt chửng con người. Đặc biệt họ toàn là những người lính trẻ thủ đô mới lần đầu rời thành phố đến rừng đại ngàn. Vì thế ấn tượng về Tây Bắc với những địa danh xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, ác liệt, không kém cuộc đọ sức với quân thù. Nhưng cảnh ấy cũng càng kích thích chiến sĩ không ngại ngần xông pha với tinh thần hào hứng hăng say.

Đối lập với sự khắc nghiệt là vẻ đẹp tuyệt mỹ của thiên nhiên Tây Bắc. Vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc như được kết bằng hoa rừng: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đặc biệt đoạn thơ:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Tất cả gợi nhớ cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, hoang dại thật huyền ảo. Cảnh vật như nhòe đi, như mềm mại và có hồn hơn. Chữ “ấy” ở câu trên và chữ “thấy” ở câu dưới bắt thành một vần lưng giàu âm điệu. Hoa lau nở trắng sáng, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là những thi liệu cổ điển quen thuộc nhưng khi đi vào thơ của Quang Dũng như mang hồn lưu luyến của cảnh chia li. Nổi bật trên dòng nước là dáng uyển chuyển thanh tú trên thuyền độc mộc của các cô gái Tây Bắc. Hình ảnh “hoa đong đưa” vừa là hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đong đưa làng duyên trên dòng nước lũ vừa như ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc như những bông hoa rừng đong đưa trên sông nước. Đó là những vần thơ thi trung hữu họa, khiến người đọc như lạc vào cái đẹp của cõi mơ. Mơ nhưng rất thực, làm say lòng người, nhất là các chiến sĩ Tây Tiến lãng mạn, trẻ trung, nó ẩn chứa tình yêu sâu nặng với thiên nhiên đất nước của Quang Dũng và của các chiến sĩ Tây Tiến. Hình ảnh những cô gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài thơ càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm hành quân gian khổ, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm dừng chân bên bản làng quây quần bên những nồi xôi bốc khói. Mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Gói xôi ấm tình cô gái Mai Châu, những cô gái miền sơn cước xinh đẹp làm nhiệm vụ nuôi quân không quản ngại vất vả, hiểm nguy đã để lại trong lòng người lính trẻ một nỗi nhớ không nguôi. Nỗi nhớ cất lên thành lời tha thiết “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói”. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp ngày mùa lẫn tình em ấm áp. Làng bản Mai Châu, bóng hình sơn nữ, hương nếp xôi quyện lại trong hình ảnh thơ thành nỗi nhớ ngọt ngào, bâng khuâng, lãng mạn trong tâm hồn của người lính trẻ.

Những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi trong ánh lửa đuốc lung linh, trong âm thanh của tiếng khèn réo rắt, trong tâm hồn say sưa đắm đuối của người lính trẻ.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc. Hai chữ “kìa em” diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng đến say mê, rạo rực của người lính trẻ. Hình ảnh các cô gái Tây Bắc bất ngờ hiện ra lộng lẫy trong bộ áo xiêm rực rỡ dưới ánh đuốc lung linh nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp, tình tứ trong điệu múa lạ như múa sạp, múa xòe... trong tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn. Nét đẹp những đêm liên hoan văn nghệ trên biên cương xa xôi như đã “xây hồn thơ” cho thấy tâm hồn trong sáng, giàu mộng mơ, giàu lí tưởng trong kí ức của chiến sĩ trẻ. Giọng thơ hân hoan, say mê hoài niệm nhung nhớ một thời gian khổ mà hào hùng, lãng mạn đầy ắp nghĩa tình. Qua đó càng cho thấy đời sống tinh thần vô cùng trong sáng, phong phú, lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến ở nơi chiến trường gian khổ ác liệt xưa.

Đặc biệt bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ những nét vẽ phi thường, khác lạ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm”

Cả đoàn binh không mọc tóc ví sốt rét rừng khắc nghiệt, hoặc vì chủ trương cạo trọc tóc để tiện cho việc đánh giáp lá cà với địch. Quang Dũng không né tránh hiện thực của cuộc kháng chiến gian khổ này. Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng thường nói về căn bệnh sốt rét rừng: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh. Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi” trong Đồng chí của Chính Hữu.

Nhưng Quang Dũng cảm nhận sự thật này trong cảm hứng lãng mạn, anh hùng nên khắc họa được vẻ đẹp kiêu dũng của người lính vượt lên xem thường mọi gian khổ thiếu thốn. Từ ngữ mạnh bạo mang âm hưởng mạnh mẽ. Chữ “đoàn binh” có âm vang và mạnh hơn chữ “đoàn quân”; còn “không mọc tóc” thì gợi nét ngang tàng, chủ động, hiên ngang lẫm liệt của đoàn quân Tây Tiến trước hoàn cảnh.

“Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là màu da xanh xao do sốt rét rừng, nhưng qua nét bút lãng mạn và cảm hứng anh hùng của Quang Dũng thì màu xanh ấy lại mang vẻ tươi xanh đầy sức sống của núi rừng. Hình ảnh “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” gợi ánh mắt quyết liệt, hướng đến quân thù, khao khát giết giặc lập công cho tổ quốc. Nhưng bên ngoài dáng vẻ oai phong đó là tâm hồn trẻ trung, trong sáng, giàu mộng mơ. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – lối diễn đạt này có vẻ cầu kì nhưng phù hợp với tâm hồn những người lính trẻ thu đô xa người yêu đi kháng chiến. Nhớ về các cô gái hà thành, bóng dáng những thiếu nữ Hà Nội yêu kiều thơ mộng không hề phai nhạt trong tâm hồn những người lính ngay cả trong khói lửa chiến tranh. Lãng mạn đó là vẻ đẹp lạc quan, yêu đời của những người lính xuất thân từ thành thị đi kháng chiến.

Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn của một thời đại anh hùng rực lửa, không thể nào quên. Cảm hứng lãng mạn đã làm nên vẻ đẹp riêng và giá trị bền vững của bài thơ Tây Tiến. Đó là vẻ đẹp của một thời hoa lửa hào hùng một đi không trở lại.

Xem thêm:

>>> Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến

Mẫu 2:

Quang Dũng sáng tác không nhiều, nhưng thơ ông để lại ấn tượng sâu sắc với những rung cảm sâu lắng trong tâm hồn người đọc. Thơ Quang Dũng hiện lên một “cái tôi” hào hoa, thanh lịch giàu chất lãng mạn, với khả năng cảm nhận một cách tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên, bình dị, chân thật. Bài thơTây Tiếntiêu biểu cho hồn thơ ấy. Không lẩn tránh đề cập đến cái bi nhưng cảm hứng lãng mạn đã đem đến cho cái bi màu sắc và âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Tinh thần bi tráng, cảm hứng lãng mạn đã được triển khai trên nền cảm xúc kí ức -Nhớ Tây Tiến.

Tây Tiếnlà tên một binh đoàn có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt - Lào, tiêu hao sinh lực địch. Phần đông lính Tây Tiến là những chàng trai Hà thành. Họ mang vào chiến trường không chỉ có tình yêu Tổ quốc, khát vọng độc lập mà còn có những nét hào hoa thanh lịch cùa người Tràng An. Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ.

Năm 1947, Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến, ông từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn này. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Nỗi nhớ Tây Tiến đau đáu, da diết đã khiến nhà thơ viết nên một bài thơ tuyệt tác.

Tây Tiếngợi lên một cuộc hành quân về phía Tây Tổ quốc, một cuộc hành quân đầy gian lao vất vả giữa vùng rừng núi đầy hiểm trở, hung vĩ đầy vẻ hoang dại và huyền bí.

Vốn sẵn tố chất hào hoa của người trai đất Hà thành , chất hào hoa lại được gặp thiên nhiên và con người miền Tây với vẻ đẹp huyền hoặc, Quang Dũng lại từng sống và chứng kiến những tháng ngày hào hung giữa binh đoàn Tây Tiến, hồn thơ ấy đã hòa quyện lại tất cả để tạo nên những thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn.

Cảm hứng lãng mạn của bài thơ trước hết là nỗi nhớ ngập tràn: tác giả nhớ rừng núi hoang vu, hiểm trở, dữ dội, nhớ những cảnh đẹp huyền ảo nên thơ, đặc biệt là nhớ bước quân hành của đoàn quân Tây Tiến, nhớ gương mặt, ánh mắt, nhớ cả những hi sinh gian khổ, những giây phút đồng đội nằm xuống nơi biên cương. Tất cả cứ theo dòng hồi ức mà hiện lên cùng với trí tưởng tượng phóng khoáng, bay bổng.

Để giúp cho trí tướng tượng bay cao, bay xa và tình cảm, cảm xúc được diễn tả một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất, nhà thơ đã vận dựng thủ pháp nghệ thuật tô đậm cái phi thường, gây ấn tượng mạnh về cái hùng vĩ, dữ dội cũng như cái tuyệt mĩ, thơ mộng. Một trong những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng đắc địa nhất là thủ pháp đối lập. Đối lập giữa cái hùng vĩ, dữ dội với cái tuyệt mĩ, thơ mộng, đối lập giữa gian khổ, vất vả với anh hùng, bất khuất, đối lập giữa cái bi và cái hùng...

TrongTây Tiến,thiên nhiên sừng sững trở thành một hình tượng lớn. Hồn thơ lãng mạn cứa Quang Dũng đã tô đậm, tuyệt đối hóa cái sừng sững, hùng vĩ của thiên nhiên để qua đó thấy được ý chí dấn thân của người lính Tây Tiến.

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngủi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Bốn câu thơ trên được coi là tuyệt bút trong việc khắc họa cái hùng vĩ,hiểm trở cùa thiên nhiên.“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”.Nhịp điệu tiếp nối liên tục của những thanh trắc kết hợp với cùng một lúc hai từ láy tượng hình[khúc khuỷu, thăm thẳm]dường như đã đẩy chiều cao của dốc núi lênn vời vợi với hình thế cheo leo, gập ghềnh. Cách ngắt nhịp câu thơ[Dốc lênkhúckhuỷu/dốc thăm thẳm]như muốn diễn tả nỗi vất vả, cực nhọc cùng với lưng áo đẫm mồ hôi của người lính Tây Tiến.

Chưa đủ, ngòi bút Quang Dũng vẫn tiếp tục đẩy chiều cao của dốc núi lên lên tuyệt đối:Heo hút cồn mây súng ngửi trời.Núi cao tưởng chừng như chạm mây, mây chất thành đống, thành cồn, “heo hút cồn mây”, người lính như đứng trên mây, giữa bốn bề mây đến nỗi “súng ngửi trời”. Chữ “ngửi” được dùng rất bạo. “Súng ngửi trời” là cách đo chiều cao của người lính - vừa chính xác, vừa rất “tếu”. Hiệu quả của bút pháp lãng mạ không chỉ dựng lên một thiên nhiên hiểm trở mà còn dựng lên kích thước, tư thế của người lính, một tư thế, kích thước sánh ngang tầm thiên nhiên.

Hai câu trước có sự phối hợp tuyệt vời của những thanh trắc. Dòng thơ tiếp theo như gãy đôi để vẽ ra hai chiều của dốc núi: một vút lên, một đổ xuống gần như thẳng đứng:“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”.Cảnh được dựng bằng thủ pháp đối lập để khắc họa cái dữ dội, hùng vĩ của núi rừng. Những dốc núi cao tới chóng mặt, bên dưới là vực sâu thăm thẳm. Người lính như treo mình giữa vách đá, trên một sườn núi giữa chặng đường hành quân.

Cảm xúc lãng mạn được xây dựng trên nền cảm xúc kí ức. Đoạn thơ được viết ra như một dòng kí ức đứt, nối, mờ tỏ liên tục. Cho nên đan cài với những câu thơ tả cảnh dữ dội, hùng vĩ là những câu thơ mênh mang, chơi vơi. Hai câu cuối đoạn là một sự đầm ấm bất ngờ đến ngây ngất bởi tiếng gọi thiết tha vang lên tự đáy lòng[Nhớ ôi Tây Tiến],bởi hình ảnh gợi sự thanh thản, đầm ấm đến nao lòng [cơmlên khỏi, thơm nếp xôi].Hai câu thơ còn có giá trị chuyển cảnh, chuyển đoạn.

Nếu ở đoạn trên, bút pháp lãng mạn đã tô đậm vẻ hoang dại, hùng vĩ của thiên nhiên thì ở đoạn tiếp theo, cảm hứng lãng mạn lại gây ấn tượng mạnh về cái thơ mộng, tuyệt mĩ của núi rừng và con người Tây Bắc.

Đêm liên hoan văn nghệ có “ đuốc” có “hoa”, có tiếng khèn, điệu múa và nhất là có hình ảnh những thiếu nữ miền Tây Bắc trong trang phục dân tộc óng ánh sắc màu, hoa văn núi rừng. E ấp trong những điệu xòe duyên dáng. Tất cả như say, như mơ, như mê đế “hồn thơ” được “xây" lên từ đó.

Cảnh sông nước bộc lộ hồn thơ nhạy cảm, tinh tế và tài hoa của Quang Dũng. Làn sương chiều mỏng, dáng lau đơn sơ, phơ phất, dáng người trên độc mộc, dòng nước, hoa đong đưa tình tứ... Nhà thơ không tả mà chỉ gợi bằng những câu thơ thiên về cảm tính trực giác. Cái nhạt nhòa hư ảo càng được tăng lên bởi những từ ngữ gợi nhớ một nỗi nhớ mênh mang[chiều sương ấy,có thấy, có nhớ, người đi, hồn lau, bếnbờ,dòng nước, đong dưa...].Tất cả cứ lung linh, khó nắm bắt. Chỉ có thể cam nhận bằng tâm hồn - một tâm hồn chứa tận cùng sâu thẳm là tình yêu và nỗí nhớ.

Bút pháp lãng mạn tiếp tục được nhà thơ khai thác triệt để khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Thật ra không phải đến đây hình ảnh người lính mới hiện lên mà ở hai phần trên, hình ảnh người lính cứ thấp thoáng ẩn hiện:ởtư thế trèo đèo, lội suối, ở những phút dừng chân giữa chặng đường hành quân, ở “đêm hội đuốc hoa” và “Châu Mộc chiều sương ấy”...

Nhà thơ không miêu tả một gương mặt riêng biệt mà dồn tất cả sự đối lập tạo nên một gương mặt chung khiến ta vừa cảm động, vừa cảm phục, vừa xót thương vừa tự hào. Hình ảnh thơ tuy có thiên về nét vẽ hình thể nhưng lại giúp người đọc thấy rõ hơn khí phách hào hùng của những chiến sĩ Tây Tiến - những anh “vệ trọc” nổi tiếng một thời.

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Thật hào hùng mà cũng thật hào hoa. Chiến tranh tàn khốc rất cần đến - những nét dữ dằn nhưng không thể giết chết những giấc mơ, không thể cướp đi những mộng đẹp. Đó là vẻ đẹp và đó cũng là sức mạnh.

Trước đây có người cho rằng người chiến sĩ Tây Tiến trong bài thơ chỉ có cái vẻ “yên hùng”, khí phách bên ngoài, còn bên trong yếu ớt, tiểu tư sản, mơ mộng viển vông. Nhưng người lính trongĐồng chícủa Chính Hữu nhớ “giếng nước gốc đa”, nhớ “bạn thân cày”, nhớ “gian nhà không”... Người lính trongNhớcủa Hồng Nguyên nhớ đến cháy lòng người vợ trẻ “mòn chân bên cối gạo canh khuya”... thì người lính trongTây Tiếncủa Quang Dũng mơ về Hà Nội để nhớ một dáng hình con gái thì cũng là một điều dễ hiểu. Trong chiến tranh, nếu người lính không còn biết mơ, biết nhớ, không còn mảy may rung động trước một bông hoa đẹp hay sắc đẹp cùa một người con gái thì điều đó quả thật là vô cùng đáng sợ. Họ chiến đấu làm gì? Vì ai? Nếu không phải là để trả lại cho con người, cho dân tộc những giá trị nhân văn cao đẹp như vậy.

Tây Tiến cóphảng phất nét buồn đau nhưng đó là nét buồn đau bi tráng. Nằm trong thi pháp chung của nền văn học 1945 - 1975, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lăng mạn,Tây Tiếnđã để lại dấu ấn riêng độc đáo. Đó là sự phối hợp hài hòa giữa các mặt đối lập trong các hình tượng thơ.Tây Tiếncòn là sự gửi gắm tất cả men say ước nguyện của Quang Dũng vào sự nghiệp cứu nước. Vì thế,Tây Tiếnhấp dẫn người đọc bởi thế giới nghệ thuật của cái đẹp, cái cao cả hào hùng - sản phẩm của một bút pháp và cảm hứng lãng mạn.

Video liên quan

Chủ Đề