Chất bảo quản dùng cho thuốc nhỏ mắt có dung môi là nước

Thuốc dùng cho mắt hay gọi là thuốc nhãn khoa bao gồm nhiều dạng như: thuốc mỡ, thuốc hỗn dịch [tức thuốc có chứa các hạt nhỏ rất mịn], thuốc đặt vào mắt, thuốc nước…

Thuốc nhãn khoa nói chung là những chế phẩm vô khuẩn [nghĩa là không chứa các vi khuẩn gây bệnh], không chứa các chất lạ gây hại, được pha chế và đóng gói thích hợp để nhỏ mắt, tra vào bờ mí mắt hoặc cài đặt vào mắt, với mục đích điều trị hoặc chẩn đoán các bệnh về mắt.

THUỐC NHỎ MẮT CẦN ĐẠT NHỮNG TIÊU CHUẨN ĐẶC BIỆT NÀO?

Thuốc nhỏ mắt phải đạt 3 tiêu chuẩn sau:

Vô khuẩn: Tất cả các chế phẩm dùng trong nhãn khoa đều phải đạt tiêu chuẩn vô khuẩn. Để bảo đảm tiêu chuẩn này, thuốc nhỏ mắt phải được điều chế trong điều kiện môi trường vô khuẩn, thường được thêm chất sát khuẩn thích hợp và sau khi pha chế phải được tiệt khuẩn. Vì vậy, không thể lấy bất cứ dạng thuốc nào khác để dùng cho mắt.

Một sai lầm khá phổ biến là có người dùng thuốc nhỏ tai, nhỏ mũi thay cho thuốc nhỏ mắt; Thậm chí còn dùng thuốc dạng kem bôi ngoài da trị nấm để tra vào mắt và gây tai biến hư cả con mắt. Vì thế, xin lưu ý tuyệt đối không dùng thuốc nhỏ tai, nhỏ mũi, thuốc dạng kem bôi ngoài da để dùng cho mắt.

Do mọi chế phẩm dùng cho mắt đều phải đảm bảo vô khuẩn, nên nước dùng để pha chế thuốc nhỏ mắt phải là nước cất đạt các yêu cầu tiêu chuẩn ghi trong dược điển. Vì vậy, người thường xuyên đến hồ bơi cần mang kính bơi để bảo vệ đôi mắt. Nếu bụi vào mắt, bất đắc dĩ mới dùng nước sinh hoạt để rửa mắt, làm trôi bụi ra khỏi mắt; tốt nhất nên dùng thuốc nhỏ mắt [loại làm sạch mắt].

Độ pH: pH là đại lượng cho biết tính acid, tính kiềm của một dung dịch. Nước mắt có độ pH trung tính, nghĩa là không có tính acid hay tính kiềm [pH của nước mắt trong khoảng 7,4-7,6], do đó tốt nhất thuốc nhỏ mắt nên có độ pH bằng với pH của nước mắt. Khi pha chế thuốc nhỏ mắt, nhà bào chế phải cân nhắc, tính toán, lựa chọn độ pH sao cho vừa có tác dụng ổn định hoạt chất của thuốc, vừa giúp mắt không bị kích ứng và đáp ứng tốt trong điều trị. Có người đã nhỏ nước cốt chanh vào mắt với mục đích làm sạch và sát trùng, nhưng thực tế lại có hại, làm mắt rất xót, vì độ acid của nước cốt chanh gây kích ứng rất mạnh đối với mắt.

Đẳng trương: Khi nhỏ thuốc vào mắt, ta cảm thấy dễ chịu, một phần là do dung dịch thuốc nhỏ mắt đẳng trương với dịch nước mắt, nói cách khác thuốc nhỏ mắt phải có tính chất giống như nước mắt. Nếu dung dịch thuốc nhỏ mắt không đẳng trương sẽ dễ gây khó chịu, gây đau ở mắt, làm nước mắt tiết ra nhiều và đẩy thuốc ra ngoài. Có người đã dùng một loại dược liệu là vị thuốc Đông y hòa tan trong sữa mẹ rồi nhỏ vào mắt để chữa bệnh. Tuy sữa mẹ cũng gần đẳng trương với nước mắt, không gây khó chịu, nhưng việc làm này thật sự không an toàn vì dược liệu có thể bị nhiễm khuẩn hoặc chứa các chất lạ có hại cho mắt.

Hiểu biết về tính đẳng trương của thuốc nhỏ mắt, chúng ta có thể rút ra kinh nghiệm, nếu nhỏ một thuốc nào đó vào mắt mà thấy xót, khó chịu, đau nhức thì có thể là do thuốc nhỏ mắt không đạt độ đẳng trương, phải ngưng dùng ngay và hỏi ý kiến bác sĩ chuyên khoa.

Ngoài 3 tiêu chuẩn kể trên, tùy theo dạng thuốc nhỏ mắt, còn có một số tiêu chuẩn khác như: Dung dịch thuốc nhỏ mắt phải đạt độ trong, không được chứa các tiểu phân lạ làm tổn thương biểu mô giác mạc v.v...

Những trình bày trên cho thấy việc sử dụng thuốc trong nhãn khoa cần hết sức thận trọng, phải nắm vững tính năng của dạng thuốc, chỉ dùng đúng thuốc nhỏ mắt để chữa các bệnh về mắt, không thể dùng bất cứ dạng thuốc nào khác. Lâu nay, có một số người [thậm chí cả nhà chuyên môn], khi sử dụng thuốc nhỏ mắt chỉ nghĩ đến sự đáp ứng của hoạt chất đối với yêu cầu chữa trị mà không lưu ý đến dạng thuốc thích hợp, dẫn đến những nhầm lẫn hết sức đáng tiếc.

CÁC NHÓM THUỐC NHỎ MẮT

Tùy theo bệnh lý, bác sĩ nhãn khoa sẽ lựa chọn thuốc nhỏ mắt chứa các hoạt chất khác nhau. Có thể kể các nhóm thuốc sau:

Nhóm thuốc nhỏ mắt chống nhiễm trùng gồm:

- Thuốc chứa chất sát trùng: Argyrol [chứa bạc vitelinat, ngừa nhiễm trùng mắt do lậu cầu ở trẻ sơ sinh], sulfaxylum [một loại sulfamid], kẽm sulfat [dung dịch 0,5-1%].

- Thuốc chứa chất kháng sinh, kháng khuẩn: Cloramphenicol [Cloraxin 0,4-0,5%], tetracyclin [thuốc mỡ 1% trị đau mắt hột], neomycin [Neocin], ciprofloxacin [Ciloxan], gentamycin [Ophtagram], tobramycin [Tobrax]...

- Thuốc chứa chất kháng sinh, kháng nấm: natamycin [Natacyn]...

Thuốc chứa chất kháng siêu vi: acyclovir [Zovirax].

Thuốc chống nhiễm trùng + corticoid: Dexacol [cloramphenicol+ dexamathason], Neodexa [neomycin + dexa]. Chlorocid-H, Polydexa...

Thuốc corticoid: Cebedex, Pred-Fort...

Thuốc giãn đồng tử [để khám mắt]: atropin, homatropin, Mydriacyl.

Thuốc co đồng tử: pilocarpin.

Thuốc trị tăng nhãn áp: acetazolamid, Alphagan, Betangan, Timolol.

Thuốc tê: tetracain.

Thuốc chứa chất kháng viêm không steroid: diclofenac [Naclof].

Thuốc rửa mắt, làm dịu mắt: Refresh, Tears natural, Visine, V. Rohto, Dainako.

Thuốc làm chậm đục thủy tinh thể: Catarstar, Catacol, Vitreolent, Vitaphakol.

NHỮNG LƯU Ý KHI SỬ DỤNG THUỐC NHỎ MẮT

Khi sử dụng thuốc nhỏ mắt, ta cần lưu ý một số vấn đề sau:

- Khi đã mở lọ thuốc ra, chỉ nên dùng trong vòng 15 ngày kể từ khi mở. Vì vậy, khi mở lọ thuốc để dùng, ta nên ghi lại ngày mở để đến đúng hạn 15 ngày sẽ bỏ đi. Vì quá thời gian này, có thể thuốc không còn đạt độ vô khuẩn.

- Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều loại thuốc nhỏ mắt khác nhau, từ thuốc nhỏ mắt, thuốc làm dịu mắt, bổ dưỡng đến loại đặc biệt như làm chậm đục thủy tinh thể, trị tăng nhãn áp...; Nhưng nhiều nhất vẫn là các thuốc chứa kháng sinh kết hợp với corticoid như Dexacol, Polydexa, Tobradex... Vì vậy, để đảm bảo điều trị đúng bệnh, người bệnh cần đến khám ở bác sĩ chuyên khoa để được hướng dẫn mua dùng loại thuốc thích hợp.

TS.DS. Nguyễn Hữu Đức

Page 2

Thuốc nhỏ mắt thường bán không cần đơn nên nhiều người khi bị bệnh về mắt thường đến quầy thuốc tự ý mua về dùng. Thuốc nhỏ mắt thường được coi là thuốc dùng ngoài, vì vậy, không ít người không xem kỹ đã dùng sai quy định khiến bệnh không lành, mà lại nặng lên, thậm chí mù lòa suốt đời.

Mắt không phải là cơ quan hấp thu, nhưng lại có cấu tạo rất tinh tế, cho nên các loại thuốc nhỏ mắt phải đạt các yêu cầu về chất lượng gần như thuốc tiêm. Thuốc nhỏ mắt chủ yếu là những chế phẩm dạng dung dịch hoặc hỗn dịch có tác dụng diệt khuẩn, chống viêm, gây tê trên bề mặt niêm mạc mắt. Yêu cầu chung là các thuốc nhỏ mắt phải vô khuẩn, trong suốt [đối với dạng dung dịch], có áp suất thẩm thấu gần với nước mắt, có độ pH thích hợp không gây kích ứng mắt. Khi nhỏ thuốc vào mắt, mắt thường có phản ứng tăng tiết nước mắt để tự bảo vệ, do đó, thuốc bị pha loãng và một phần bị đẩy ra ngoài theo nước mắt. Để hạn chế tình trạng này, thuốc nhỏ mắt phải càng ít kích ứng mắt càng tốt. Vì vậy, đa số các thuốc nhỏ mắt có dung môi pha chế là nước cất. Chỉ một số ít thuốc nhỏ mắt có vitamin A trong thành phần mới dùng dung môi dầu thực vật, do vitamin A tan trong dầu. Ngoài ra, người sản xuất còn cho thêm các chất làm tăng độ nhớt vào thuốc để tăng độ bám dính của thuốc lên niêm mạc mắt.

​Dùng thuốc nhỏ mắt cần  phải đúng chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.

Các loại thuốc nhỏ mắt thường gặp

Hiện nay thường có các loại thuốc nhỏ mắt sau:

Thuốc nhỏ mắt thành phần chỉ có corticoid: thường có thành phần hoạt chất là prednisolon, dexamethason, fluorometholon. Dùng thuốc nhỏ mắt chứa corticoid phải thận trọng vì corticoid là thủ phạm gây mất thị lực vĩnh viễn. Corticoid trong thuốc nhỏ mắt nhanh chóng làm mắt dễ chịu, hết đỏ nhưng nếu lạm dụng gây nhiều biến chứng vì corticoid tạo môi trường cho vi khuẩn và vi nấm phát triển. Sử dụng lâu dài thuốc nhỏ mắt có chứa corticoid gây teo dây thần kinh thị giác, cườm nước, có nguy cơ dẫn đến mù lòa cao. Cần ghi nhớ thuốc nhỏ mắt có chứa corticoid không được dùng cho các bệnh nhân bị cườm nước, viêm giác mạc do siêu vi, viêm kết mạc do nấm… Vì vậy, việc dùng thuốc nhỏ mắt phải do bác sĩ chỉ định.

Thuốc nhỏ mắt thành phần chỉ có kháng sinh: loại thuốc này dùng để sát trùng và chống nhiễm khuẩn mắt. Các loại thuốc nhỏ mắt này thường được trình bày dạng lọ dung dịch mà hoạt chất là các kháng sinh như neomycin, tobramycin, ciprofloxacin, ofloxacin. Hay gặp nhất là dạng dung dịch hoặc dạng mỡ các kháng sinh chloramphenicol, gentamycin.

Thuốc nhỏ mắt kết hợp cả kháng sinh và corticoid: đây là loại thuốc nhỏ mắt rất phổ biến kết hợp trong thành phần cả hai nhóm hoạt chất chống viêm và chống nhiễm khuẩn. Thuốc hay được dùng khá phổ biến là chloramphenicol và dexamethason [dexacol].

Thuốc giãn đồng tử, thuốc dành cho bệnh cườm nước: Dùng trong chuyên khoa, phải do bác sĩ chỉ định và dùng theo sự hướng dẫn của nhân viên y tế.

Ngoài ra, hiện nay, các loại thuốc nhỏ mắt có tác dụng chống khô mắt, mỏi mắt... cũng được rất nhiều người ưa chuộng.

Cách dùng thuốc nhỏ mắt

Có 2 loại: nhỏ mắt [thuốc nước] và tra mắt [thuốc mỡ].

Nhỏ mắt: Phương pháp nhỏ thuốc rất quan trọng. Nếu nhỏ không đúng cách, thuốc có thể chảy ra ngoài thay vì vào mắt. Điều trước tiên cần nhớ là người nhỏ mắt phải rửa tay thật sạch và tháo kính áp tròng ra khỏi mắt trước khi nhỏ thuốc.

Trước tiên, cần lau mắt bằng mẩu bông ẩm, sạch cho hết bụi bặm. Tiếp đó, nhỏ vài ba giọt thuốc vào góc trong của mắt. Sau khi nhỏ, phải kéo mi dưới xuống một chút cho thuốc chan hòa khắp mắt. Nhớ là sau khi nhỏ xong mới kéo mi dưới xuống, đừng vừa nhỏ vừa kéo. Tiếp đó, lau các giọt thuốc thừa chảy ra cạnh góc sống mũi và hai mi.

Cần dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ mỗi ngày có thể nhỏ từ 3 - 6 lần tùy bệnh và mức độ mắc bệnh. Nếu mỗi ngày phải nhỏ 2 - 3 loại thuốc thì nhớ là tránh nhỏ cùng một lúc vì chúng sẽ pha loãng nhau ra. Vì vậy, cần nhỏ cách nhau nửa giờ.

Tra mắt: Nằm là tốt nhất. Mở khe mắt bằng ngón cái và ngón trỏ của bàn tay trái. Ngón trỏ mở mi trên, ngón cái kéo mi dưới cho lộ kết mạc mi dưới màu đỏ ra. Bóp một thỏi thuốc mỡ vào mi dưới. Giữ mi trên không cho chớp vội bởi vì động tác chớp của mi trên rất nhanh. Nếu buông mi trên ra trước, mi trên sẽ chớp lấy thuốc mỡ gây dính ra ngoài mi và không ngấm được vào mắt.

BS. NGÔ VĂN TUẤN


Video liên quan

Chủ Đề