Chùa Thiên Phúc có tên là chùa An Trung , là tên gọi theo thôn An Trung , còn có tên gọi là chùa Tây Cú .
Sở dĩ có tên gọi là chùa Tây Cú vì vào khoảng giữa những năm 20 của thế kỷ 20 có bà Nguyễn Thị Bốn , vợ của một người Pháp đứng ra sửa chữa chùa , đền và đình An Trung
Theo truyền thuyết thì Chùa và đền Lý Quốc Sư đã được đạt móng xây dựng cùng một ngày , những tư liệu đó gợi ý là chùa được xây dựng từ rất sớm . Trải qua bao biến thiên của lịch sử hiện nay chùa còn giữ được nhiều hoành phi câu đối và các tượng thờ rất đẹp .
Mấy năm gần đây Thượng Tọa Thích Thanh Hưng trụ trì chùa Thiên Phúc cùng tín đồ Phật giáo trong quận Hoàn Kiếm đã nhiều lần làm đơn kiến nghị tới các cơ quan liên quan có thẩm quyền đề nghị giải quyết những hộ dân ở trong khuôn viên chùa do lịch sử để lại và hện nay đã được các cấp chính quyền quan tâm cùng với nhà chùa hỗ trợ di dời đến chỗ ở mới trả lại mặt bằng khuôn viên chùa .
Thượng tọa đang trùng tu lại ngôi chùa với lối kiến trúc khang trang nhưng vẫn giữ được sự cổ kính hài hòa của kiến trúc phương đông , nhất là phần trang trí thờ tự tượng pháp và các gian thờ tổ vẫn mang phong cách trang nghiêm cổ kính với hoành phi , câu đối , những bệ thờ , các vật dụng trang trí thờ tự vẫn giữ được dấu ấn thời gian xứng đáng là một địa điểm phục vụ tín ngưỡng cho tín đồ Phật tử Thủ đô và cũng là nằm trong chương trình kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long – Hà nội .
Hiện nay Công trình đã hoàn thiện được phần hạng mục chính điện , nhà thờ tổ gian thờ mẫu , hiện đang phá dỡ mặt bằng đễ tiếp tục trùng tu các hạng mục khác như Tam quan , nhà khách , tháp tổ …
Page 2
Page 3
Số 128 Thanh Đàm Hoàng Mai -
389 Ngọc Hồi, Văn Điển
Page 4
Km 10 Quốc lộ 1A
Page 5
Page 6
Page 7
Page 8
Page 9
35 Hai Bà Trưng
Page 10
Page 11
Page 12
Page 13
Page 14
Page 15
Page 16
Page 17
Page 18
Page 19
Page 20
22 Hàng Tre
Số 5 Phố Huế - Trần Hưng Đạo
Page 21
Page 22
Page 23
Số 26 Hàng Vôi
47C, Lý Thường Kiệt
Page 24
Page 25
Page 26
11 Lý Thường Kiệt
25 Hàng Bè
Toàn cảnh chùa
Tên thường gọi: Chùa Thầy
Chùa thường gọi là chùa Thầy hay chùa Cả, tọa lạc ở chân núi Sài, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội 35km về phía Tây Nam. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa được dựng từ đời Vua Lý Nhân Tông [1072 – 1128], lúc bấy giờ là am Hương Hải, do Thiền sư Từ Đạo Hạnh lập để tu hành, sau dần dần xây dựng thành chùa với quy mô lớn. Theo Đại Nam nhất thống chí thì Thiền sư họ Từ tên tục là Lộ, con quan Đô sát Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan, quê ở làng An Lăng, huyện Vĩnh Thuận, nay là làng Láng, Hà Nội.
Trước chùa có nhiều hồ nước tên Long Trì, giữa hồ có nhà Thủy Đình là nơi diễn rối nước trong ngày hội. Hai bên chùa có cầu Nhật Tiên và Nguyệt Tiên do Hoàng giáp Phùng Khắc Khoan [Trạng Bùng] cho xây năm 1602. Cầu mái lợp theo kiểu “thượng gia hạ kiều” [trên là nhà, dưới là cầu]. Cầu Nhật Tiên bên trái thông ra Tam Phủ trên một đảo nhỏ giữa ao Rồng. Cầu Nguyệt Tiên bắc qua ao lên núi.
Khu chính điện của chùa Cả hình chữ nhật, rộng khoảng 40m, dài khoảng 60m, kiến trúc kiểu chữ “Tam”, có hai dãy hành lang chạy kèm theo hai bên. Chùa Thượng thờ tượng Di Đà Tam Tôn ở trên, phía dưới là bệ đá Bách Hoa đài hai tầng với hai lớp hoa sen, các góc có hình thần điểu Garuda, có niên đại thời Trần, để hòm sắc lịch triều tôn phong của Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Dưới cùng là tượng Thiền sư nhập định trên một bệ đá thời Lý. Bên trái, thờ tượng toàn thân Thiền sư bằng gỗ chiên đàn đặt trong khám. Gian bên phải thờ tượng vua Lý Thần Tông [hậu thân của Thiền sư] đặt trên ngai vàng, được tạc vào năm Thái Hòa [1499] thời Lê Nhân Tông. Chùa Trung thờ Tam Bảo, ở đây có 2 pho tượng Hộ Pháp [mỗi tượng cao khoảng 4m]. Chùa Hạ là nơi lễ bái.
Rời chùa Cả, qua cầu Nguyệt Tiên, vào cổng “Bất nhị pháp môn” để lên núi. Ở lưng chừng núi có chùa Cao với hang Thánh Hóa là nơi Thiền sư Từ Đạo hạnh giải thi để đầu thai làm vua Lý Thần Tông. Trên núi còn có “Chợ Trời”, hang Cắc Cớ …
Lễ hội chùa Thầy [7 tháng 3 Âm lịch]
Chùa là ngôi cổ tự nổi tiếng bậc nhất ở Việt Nam.
Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.Chùa Việt Nam - Xưa và Nay
Võ văn Tường