Đánh giá lớp bình dân học vụ

Vai trò, ý nghĩa của việc chống nạn mù chữ và trách nhiệm của mỗi người dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong lời kêu gọi "Chống nạn thất học" gửi tới toàn thể quốc dân đồng bào: "… Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà…". Cách thức học tập của mỗi người khi ấy cũng được Người chỉ ra rất đơn giản, ai ai cũng có thể làm theo, đó là "Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ… Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học".

Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, phong trào Bình dân học vụ nhanh chóng được triển khai, lan tỏa vào từng thôn xóm, bản làng, trở thành một phong trào nhân dân với những hình thức, thời gian tổ chức linh hoạt, thích nghi với điều kiện của mọi tầng lớp người lao động. Lớp học được đặt tại bất cứ nơi nào thuận lợi cho nhân dân, có thể là ở trường học, cơ quan chính quyền, doanh trại quân đội hoặc tại nhà dân, đình, chùa, lán trại… Chỉ sau một năm phát động, đã có hơn 2,5 triệu người biết đọc, biết viết trong tổng số 22 triệu dân.

Theo nhà giáo Nguyễn Trà, một trong những người tham gia dạy bình dân học vụ một thời, phong trào này đã thực sự khai mở ánh sáng cuộc đời cho rất nhiều người. Giọng người giáo già trầm lại: Cứ xâm xẩm tối, khi vừa kết thúc một ngày lao động, dù mệt mỏi, bà con lại tất bật mang vở, bút, xách đèn dầu đi tìm con chữ trong những căn nhà lá đơn sơ. Người đến lớp đủ các thành phần: người già, trẻ con, thanh niên bất kể là nam hay nữ. Trong ánh đèn dầu lập lòe, những mái đầu cặm cụi, ê a đánh vần. Nhà giáo Nguyễn Trà bảo, thời ấy cần nhất là xóa mù chữ, nên thầy chỉ dạy hai môn là toán và học vần, mục đích giúp người dân biết đọc, biết viết, biết tính cộng, trừ, nhân, chia. Ròng rã nhiều năm liền, niềm vui lớn nhất của thầy là chứng kiến những người chưa biết mặt chữ, sau một thời gian đã háo hức đọc cho nhau nghe tin thời sự đăng trên Báo Cứu quốc. Đến nay, người giáo già đã có trên 70 năm đứng lớp, vẫn miệt mài mở lớp học miễn phí tại nhà ở phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội.

Kinh nghiệm từ phong trào Bình dân học vụ đến nay vẫn có nhiều ý nghĩa và được vận dụng sáng tạo, hiệu quả trong công cuộc đổi mới giáo dục của Việt Nam, trong đó, việc xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 [khóa IX]. Hệ thống giáo dục quốc dân ngày càng hoàn thiện với hơn 43 nghìn cơ sở giáo dục từ các cấp học, bậc học được phân bố trên cả nước, phục vụ việc học tập của 22 triệu học sinh, sinh viên. Việc đáp ứng nhu cầu học của những đối tượng ngoài nhà trường được coi trọng thông qua việc phát triển mạng lưới hơn 700 trung tâm giáo dục thường xuyên, gần 11 nghìn trung tâm học tập cộng đồng [98% số xã, phường, thị trấn có trung tâm học tập cộng đồng]. Đây là địa chỉ học tập gần gũi với mọi tầng lớp nhân dân, nội dung học tập được chia thành các chuyên đề, vừa đáp ứng nhu cầu trang bị kiến thức văn hóa, vừa bồi dưỡng cho người dân về kỹ năng nâng cao năng suất lao động theo hướng "cần gì học nấy". Tại Hà Nội, số học viên theo học các loại hình tại trung tâm giáo dục thường xuyên hằng năm là trên 100 nghìn người, ngoài ra còn có 2 triệu lượt người tham gia học tập các chuyên đề.

Chương trình xóa mù chữ và giáo dục sau khi biết chữ vẫn được chú trọng, tỷ lệ người biết chữ ở độ tuổi từ 15 trở lên hiện đạt khoảng 96% dân số. Tỷ lệ này của Hà Nội đạt trên 99%, tất cả quận, huyện, thị xã đều đạt chuẩn về xóa mù chữ. Tuy vậy, ở những địa bàn khó khăn thì việc xóa mù chữ vẫn là một thử thách không nhỏ khi tỷ lệ người biết chữ mới chỉ đạt khoảng 90%. Mới đây, Đề án "Xóa mù chữ đến năm 2020" đã được Chính phủ phê duyệt, quy định rõ lộ trình, trách nhiệm và kinh phí triển khai, nhằm mục tiêu đến năm 2020 xóa mù chữ cho 1,2 triệu người ở độ tuổi 15-60, nâng tỷ lệ người biết chữ đạt mức 98%.

Cùng với các phong trào truyền thống nhằm khích lệ việc thi đua học tập thường xuyên, học tập suốt đời như gia đình hiếu học, dòng họ khuyến học, mô hình "Cộng đồng học tập", "Đơn vị học tập", "Thành phố học tập" mới được thí điểm một năm qua đã thu hút hơn 200 nghìn gia đình, hàng nghìn dòng họ, xã, phường… đăng ký. Sự lan tỏa của những mô hình này đã góp phần khơi dậy truyền thống hiếu học, làm nền tảng cho việc xây dựng xã hội học tập, góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

GS Phạm Tất Dong cho rằng xây dựng đất nước từ việc tạo điều kiện cho người dân học chữ, cải thiện kỹ năng là bài học “luôn đúng” của bình dân học vụ.

75 năm trước, những lớp bình dân học vụ đầu tiên ra đời để chống nạn mù chữ. Hồ Chủ tịch ra bản hiệu triệu đồng bào cùng tham gia học chữ, khuyên người chưa biết chữ phải thi đua đi học, những người đã biết phải thi đua dạy học; kêu gọi mọi người, kẻ giúp của, người giúp công để tiêu diệt giặc dốt.

Với sự quyết tâm của người dân cả nước cùng nhiều hình thức học độc đáo, những lớp học “có một không hai” ra đời, chỉ một năm [8/1945-8/1946], phong trào bình dân học vụ đã xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người, phát triển được gần 96.000 giáo viên, mở được gần 75.000 lớp học. Sau 5 năm [đến 30/6/1950], gần 12,2 triệu người biết chữ. 10 tỉnh với 80 huyện, hơn 1.400 xã và 7.200 thôn được công nhận thanh toán nạn mù chữ. Số người mù chữ còn lại tập trung ở miền núi, vùng bị địch chiếm như Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ.

GS Phạm Tất Dong, 86 tuổi, Phó chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam, đánh giá bình dân học vụ đã để lại ba bài học vô cùng quý giá, còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay. Thứ nhất, bình dân học vụ theo đuổi mục tiêu đúng đắn là phải để mỗi người dân được tiếp cận với giáo dục bằng cách tạo cơ hội đi học. Đây là bài học đắt giá và quan trọng nhất mà đến nay khi triển khai xã hội hóa học tập, việc này vẫn là ưu tiên số một.

Thứ hai, giáo dục phải đi vào cộng đồng, quần chúng lao động. Nếu chỉ phục vụ cho những người có tiền, ở tầng lớp thượng lưu, giáo dục không trọn vẹn ý nghĩa. Để toàn dân có thể đi học, những trung tâm học tập cộng đồng, thường xuyên cần được thành lập. Những nơi này gần gũi với người dân, thuận tiện đi lại tương tự lớp bình dân học vụ xưa được tổ chức ngay tại làng, xã.

GS Phạm Tất Dong, Phó chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam. Ảnh: MOET

Thứ ba, giáo dục và các mục tiêu học tập cụ thể luôn cần gắn với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội. Trước kia, việc xóa mù ngoài việc giúp dân biết chữ, có hiểu biết còn gắn với mục tiêu chính trị như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Ngày nay, bài học này thể hiện ở việc phát triển giáo dục gắn với yêu cầu đào tạo nhân lực chất lượng cao trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, gắn với chương trình chuyển đổi số.

Ông Dong đánh giá, so với những ngày đầu cách mạng Việt Nam chống giặt dốt, xóa mù chữ cơ bản thì hiện nay người dân vẫn phải xóa mù chức năng. Điều này được hiểu là những kỹ năng không phù hợp hoặc thiếu sót với thời đại thì phải loại bỏ và học bổ sung, gọi khái quát là “xóa mù số”. Chuyển đổi số gắn liền với mọi lĩnh vực, từ kinh tế, xã hội đến văn hóa, giao thông… Xóa mù số hiện nay quan trọng như xóa mù chữ trước kia.

Nhắc về việc xã hội hóa giáo dục mà bình dân học vụ làm được, ông Nguyễn Thìn Xuân, 94 tuổi, Chủ tịch Câu lạc bộ UNESCO, chiến sĩ diệt dốt Nguyễn Văn Tố, gọi đó là kỳ tích. Ông Xuân đánh giá giá trị bình dân học vụ để lại thể hiện ngay ở cây trái dọc miền đất nước.

“Những người một thời học bình dân học vụ, sau là bổ túc văn hóa, có tri thức để trồng trọt, chăn nuôi và đẩy mạnh phát triển sản xuất. Nói vậy để thấy bình dân học vụ đóng vai trò nền tảng của giáo dục thường xuyên, bước đi chập chững đầu tiên để hôm nay chúng ta bước tiếp vững chắc hơn”, ông nói.

Ông Xuân cho rằng tại mỗi giai đoạn, Nhà nước sẽ có chính sách phát triển giáo dục khác nhau, chẳng hạn năm 2005 có kế hoạch xây dựng Việt Nam trở thành một xã hội học tập, năm 2020 có nghị quyết đẩy mạnh chương trình chuyển đổi số quốc gia… Công cuộc xóa mù chữ không phải đã kết thúc mà mỗi giai đoạn sẽ gắn với mục tiêu phát triển riêng.

Ông Nguyễn Thìn Xuân, Chủ tịch Câu lạc bộ UNESC, chiến sĩ diệt dốt Nguyễn Văn Tố. Ảnh: Thanh Hằng

Với ông Nguyễn Phong Niên, 84 tuổi, nguyên Ủy viên thư ký Ủy ban Quốc gia Chống nạn mù chữ, thầy giáo trong phong trào bình dân học vụ những năm 1951-1953, nâng cao dân trí mãi là bài học đúng đắn ở mọi thời đại, chỉ là làm như nào để phù hợp với nhiều người ở các góc độ khác nhau.

Dẫn lại quan điểm “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Niên giải thích sức mạnh của đất nước không phải chỉ nằm ở đội ngũ trí thức mà ở toàn dân. Tương tự, sức mạnh khoa học kỹ thuật không chỉ có ở người sáng tạo mà quan trọng là giúp mọi người biết dùng kỹ thuật công nghệ đó.

“Giờ chúng ta không dựng lớp tại làng, tại nhà để dạy người già sử dụng Iphone, Ipad, cách làm phải khác, mới mẻ hơn. Tuy nhiên, tinh thần mà bình dân học vụ mang lại luôn đúng, đó là nâng cao dân trí, toàn dân cùng học và xây dựng đất nước lớn mạnh hơn”, ông Niên nói.

Thanh Hằng – Dương Tâm/VNN

Chủ Đề