Để cải thiện năng suất của giống lợn ỉ người ta đã áp dùng phương pháp nào

Lợn Landrace [phát âm Tiếng Việt như là lợn Lan-đơ-rát] hay gọi chính xác là Lợn Landrace Đan Mạch là một giống lợn cao sản có nguồn gốc từ Đan Mạch và được nuôi ở nhiều nơi trên thế giới. Lợn Landrace có rất nhiều ưu điểm như sinh sản tốt, tăng trọng nhanh, tiêu tốn ít thức ăn, tỷ lệ thịt xẻ cao, tỷ lệ nạc cao và chất lượng thịt tốt, chúng có khả năng thích nghi tốt, phòng bệnh tốt, nhanh lớn. Lợn Landrace được nuôi để lấy thịt.

Một con lợn Landrace

Lợn có nguồn gốc Đan Mạch được hình thành vào khoảng 1924-1925 do quá trình tạp giao giữa các giống lợn đến từ Anh, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, Trung Quốc tạo thành. Chúng được tạo thành bởi quá trình lai tạo chính giữa giống lợn Youtland có nguồn gốc Đức với lợn Yorkshire có nguồn từ Anh.

Giống lợn này chủ yếu được nuôi nhiều ở Đan Mạch. Sau 1990, chúng được chọn lọc và có năng suất cao và được nuôi ở nhiều nước châu Âu. Hiện nay giống lợn này được xuất đi khắp nơi để cải thiện giống lợn của nhiều nước và trở thành các giống Lợn Landrace Mỹ, Lợn Landrace Anh, Lợn Landrace Pháp, Lợn Landrace Canada, giống này cũng đã được nhập vào Việt Nam và nuôi phổ biến.

Landrace được coi là giống heo tốt nhất trên thế giới hiện nay và được nuôi rất phổ biến ở nhiều nơi, Giống heo vừa sản xuất nạc vừa để nái. Rất thích hợp cho hộ chăn nuôi và trang trại. Giống lợn này được nhập vào Việt Nam vào khoảng 1970 qua Cuba. Giống lợn Landrace được chọn một trong những giống tốt để thực hiện chương trình nạc hóa đàn lợn ở Việt Nam

Toàn thân lợn có màu trắng hồng, đầu nhỏ, dài, tai to rủ xuống kín mặt, tai cúp về phía trước, cổ nhỏ và dài, vai-lưng-mông-đùi rất phát triển, mông đùi to, mõm thẳng, mông nở, ngoại hình thể chất vững chắc. Toàn thân có dáng hình thoi nhọn giống như quả thủy lôi, do chúng nhiều hơn giống lợn khác 1-2 đôi xương sườn nên thân rất dài. Các chỉ tiêu:

  • Trọng lượng trưởng thành 250 – 300 kg.
  • Tỷ lệ nạc từ 70 – 80%.
  • Cơ thể có 65% là thịt nạc
  • Thịt ngon, mềm, sớ cơ ít dai.
  • Tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng: 2,8 – 3,0 kg.
  • Đạt 100 kg khi được 160 – 170 ngày tuổi.
  • Số con đẻ trung bình 10-12/ổ.
  • Nái nuôi con, tiết sữa tốt.
  • Kháng bệnh tốt.
  • Kém thích nghi trong điều kiện thời tiết nóng, nước chua phèn, mặn.

Đây là giống lợn tiêu biểu cho hướng nạc. Lợn có khả năng tăng trọng từ 750-800 g/ngày, 6 tháng tuổi lợn thịt có thể đạt 105–125 kg. Khi trưởng thành con đực nặng tới 400 kg, con cái 280–300 kg. Lợn Landrace có khả năng sinh sản cao, mắn đẻ và đẻ nhiều trung bình đạt 1,8–2 lứa/năm. Mỗi lứa đẻ 10 -12 con, trọng lượng sơ sinh [Pss] trung bình đạt 1,2–1,3 kg, trọng lượng cai sữa [Pcs] từ 12–15 kg. Sức tiết sữa từ 5–9 kg/ngày. Khả năng sinh trưởng của lợn rất tốt. Giống lợn này kén ăn và tương đối đòi hỏi nhu cầu dinh dưỡng cao cũng phải có điều kiện chăm sóc tốt.

  • Oklahoma State University: Danish Landrace Lưu trữ 2013-01-15 tại Wayback Machine

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Lợn_Landrace&oldid=68296753”

Hiệu quả từ công tác giống lợn ngoại trong chăn nuôi ở tỉnh ta 

 Trong chăn nuôi con giống đóng vai trò rất quan trọng, là yếu tố quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm. Với mục tiêu cải tạo chất lượng con giống, nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi, từ đầu năm 2014 đến nay, Trung tâm giống vật nuôi Quảng Bình đã nhập về một số dòng lợn FH [France Hybrid] của Cộng hòa Pháp để nhân giống và chuyển giao đến người chăn nuôi nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giảm giá thành sản phẩm.

 Chăn nuôi lợn trên địa bàn tỉnh ta hiện nay đang phát triển theo hướng gia trại, trang trại quy mô tập trung, thế nhưng công tác giống vẫn chưa được chú trọng Việc sử dụng các giống lợn làm nái sinh sản trước đây thường cho năng suất kém, khả năng sinh sản thấp, mỗi nái chỉ từ 19-20 con/năm, làm cho giá thành sản xuất tăng lên, chi phí sản xuất cao gây khó khăn trong việc cạnh tranh giữa các vùng trong cả nước và các quốc gia trong khu vực.
Trước tình hình giá lợn hơi xuống thấp và kéo dài như hiện nay, để ngành chăn nuôi lợn có hiệu quả buộc người chăn nuôi phải có các giải pháp để tăng năng suất, giảm giá thành sản phẩm. Do đó, việc làm cần thiết hiện nay phải thay đổi cơ cấu giống lợn, đưa các giống lợn cao sản vào sản xuất, thay thế dần đàn lợn kém năng suất, nhất là đàn lợn nái. Đây chính là vấn đề then chốt để nâng cao các chỉ tiêu sinh sản cho đàn nái, góp phần nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm, mang lại hiệu quả kinh tế cho ngành chăn nuôi.

Lợn nái dòng France Hybrid đang được Trung tâm nuôi giữ và nhân giống

Xác định được công tác giống là khâu then chốt trong chăn nuôi, Trung tâm Giống vật nuôi Quảng Bình đã thường xuyên cập nhật và thay thế những giống mới có năng suất cao, và gần đây nhất đơn vị đã nhập về một số dòng lợn FH cấp ông bà để sản xuất đàn lợn nái bố mẹ và đực lai cuối cùng. Đây được coi là dòng lợn ngoại có năng suất vượt trội mà các chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực chăn nuôi đã khảo nghiệm. Qua khảo sát, chọn lọc và đánh giá về năng suất sinh sản của dòng lợn FH tại Trung tâm cho thấy, số lứa đẻ mỗi năm và số con mỗi lứa đẻ đều tăng, trung bình mỗi con nái đẻ 2,4 lứa/năm, số con cai sữa/lứa đẻ hơn 12 con, mỗi năm một lợn nái sản xuất được 26-28 lợn con. Tiếp nhận đàn lợn nái cấp bố mẹ do Trung tâm cung cấp, một số trang trại trên địa bàn tỉnh đánh giá cao về khả năng sinh sản, như trang trại ông Đinh Đăng Tuân, xã Hưng Thủy, huyện Lệ Thủy, trang trại ông Nguyễn Văn Tùng, xã Hải Ninh, huyện Quảng Ninh... Nhận xét từ các trang trại là: dòng lợn FH có khả năng sinh sản cao, mắn đẻ và đẻ nhiều, nuôi con khéo. Hướng tới để phát triển chăn nuôi chúng tôi sẽ áp dụng nuôi dòng lợn FH để thay đổi dần đàn lợn giống kém năng suất trước đây.

Trong bối cảnh hội nhập và khó khăn như hiện nay, giá thành thịt có xu hướng ngày càng giảm và chất lượng thịt ngày càng được quan tâm đặc biệt. Để phát triển chăn nuôi lợn hiệu quả và bền vững, việc làm cần thiết hiện nay phải thay đổi dần đàn lợn nái kém năng suất bằng những con giống tốt, tiến tới giảm dần cơ cấu đàn nái nhưng vẫn đảm bảo số lợn nuôi thịt. Trên cơ sở đó từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm thịt lợn nhằm giảm giá thành sản xuất, nâng cao chất lượng và tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm.


Thu Giang
[TT Giống vật nuôi]

Gian nan phục tráng giống lợn Ỉ cổ truyền

[Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Tập quán chăn nuôi lợn Ỉ và trồng lúa nước xuất hiện ngay từ khi ra đời ở Đồng bằng Bắc Bộ, luôn gắn liền với đời sống của nông dân Việt suốt hàng ngàn năm qua. Thế nhưng giờ đây, giống lợn Ỉ đang ở giữa bờ vực của sự tuyệt chủng..

Lợn Ỉ tên nghe thật quen, khiến ta nhớ tới con vật đen trũi, mặt nhăn, lưng võng, bụng sát đất mà chẳng bao giờ bị viêm vú. Hàng ngày lợn mẹ cứ nhẩn nha đưa đàn con mình bới hết đống đất này tới bụi rậm nọ, tìm con giun con dế, rễ cây rễ cỏ, thậm chí chúi mũi vào đống rác mà chẳng bao giờ bị ngộ độc, bởi nhờ có bộ khứu giác từng được xưng tụng là “vị giác tinh”.

Những con lợn Ỉ đang được bảo tồn tại DABACO ở Bắc Ninh.

Bảo tồn khi đã… muộn

TS Võ Văn Sự, nguyên Trưởng khoa Động vật quý hiếm – Viện Chăn nuôi, người nhiều năm trăn trở “cứu” lợn Ỉ trước “họa” tuyệt chủng cho biết, lợn Ỉ mang hình thái đặc trưng:da đen bóng, mặt nhăn, mắt híp, nọng cổ và má chảy sệ, chân thấp, mõm ngắn, bụng sệ quét đất. Lợn nái thường đi chữ bát, mỗi năm chỉ đẻ 2 lứa, mỗi lứa cho 8-11 con. Lợn sơ sinh có khối lượng rất thấp, chỉ 0,4 kg/con. Nuôi 1 năm tuổi, lợn mới đạt trọng lượng 36-45 kg/con, 3 năm tuổi đạt 50 -75 kg/con. Tỷ lệ mỡ ở dòng Ỉ Mỡ lên tới 48% so với thịt xẻ; Ỉ Gộc có tỷ lệ mỡ 42%. Tuy vậy, mỡ lợn Ỉ có cấu trúc chủ yếu là acid béo không no, tương tự như dầu ăn thực vật, nên tuy thịt lợn nhiều mỡ nhưng ăn không ngán như thịt lợn ngoại, và cũng không làm tăng hàm lượng cholesteron trong máu.

“Mỡ lợn Ỉ vô cùng thơm ngon. Xưa kia, nhà quê nào rán mỡ lợn Ỉ thì chẳng thể dấu nổi, mùi mỡ thơm toả đi đầu làng cuối xóm. Dân gian hàng nghìn năm nay truyền tụng 6 sản vật đặc trưng ngày Tết “Nêu cao, tràng pháo, bánh chưng xanh/ Thịt mỡ, dưa hành, câu đói đỏ”. Mỡ lợn Ỉ là thành phần không thể thiếu được trong chiếc bánh chưng xưa. Đã hơn 30 năm, bánh chưng Việt Nam mất đi hương vị vì phải sử dụng thịt lợn lai làm nhân”, TS Võ Văn Sự than thở.

Năm 1969 điều tra số lượng vật nuôi cho thấy cả nước còn 2 triệu con lợn Ỉ, thế nhưng đến năm 1990 thì giống lợn Ỉ gần như tuyệt chủng. Lý giải nguyên nhân đẩy lợn Ỉ xuống “vực thẳm”, theo ông Sự vì giống lợn này quá chậm lớn, nuôi cả năm cũng chưa được nổi 50 kg, nên không tranh chấp nổi với các giống lợn “Tây” nuôi 4 tháng đã đạt 80 kg. Những năm 1980, khi ngành chăn nuôi nước ta hô hào phong trào “lai kinh tế”, dùng lợn Đại Bạch của Liên Xô phối giống với lợn Ỉ tạo con lai F1 cho ưu thế lai. Chương trình ngoại hoá đàn lợn thành công tới mức “tận diệt” nguồn gen nội thuần chủng. Từ năm 1985, thế giới đã bắt đầu hướng tới việc bảo tồn những giống vật nuôi truyền thống, những chủng giống vật nuôi nào mà số lượng giảm xuống dưới 1000 con thì phải được bảo tồn. Chương trình bảo tồn vật nuôi của Việt Nam được thực hiện muộn hơn, mãi tới năm 1992, nước ta mới bắt đầu công bố đa dạng sinh học, thống kê các giống vật nuôi và triển khai đề án “Bảo tồn nguồn gen vật nuôi quốc gia”. Vào thời điểm đó, các nhà khảo sát đều không tìm thấy lợn Ỉ thuần chủng. Vì vậy, trong tập bản đồ các giống vật nuôi ở Việt Nam do Bộ NN&PTNT phát hành, lợn Ỉ được xếp vào loài đã bị tuyệt chủng.

Từ đầu những năm 1990, TS Võ Văn Sự được giao nhiệm vụ tại khoa Động vật quý hiếm – Viện Chăn nuôi, chuyên bảo tồn và phát triển các giống vật nuôi quý hiếm. Thuở đó, TS Võ Văn Sự lặn lội về các miền quê để tìm  những con lợn ỉ đen sì, bụng sệ sát đất, da nhăn nheo. Một giống lợn từng có 2 triệu con, ai ngờ thật khó tìm. TS Sự đã phải bỏ ra 4 tháng trời ròng rã đi khắp các làng quê ở Đồng bằng sông Hồng. Xuống Nam Định, tối tìm nhà người dân ngủ nhờ, ngày lại lên đường lân la dò hỏi: “Các bác có biết đâu bán lợn Ỉ không?”. Cũng có một số nhà còn nuôi lợn Ỉ đấy, nhưng đều là lợn Ỉ lai, hàm lợn máu lợn Ỉ chỉ dưới 65%, những con lợn thuần chủng 100% máu Ỉ tuyệt nhiên không thấy. Nam Định không có, ông sang Thái Bình, rồi Ninh Bình. Nông dân đi làm sớm, ông cũng phải dậy từ 3-4 giờ, đi quanh làng để nghe tiếng lợn đòi ăn, chỗ nào có tiếng kêu nặng chình chịch, nhưng ngắn và gấp là ông tấp vào hỏi: “Nhà ta có lợn Ỉ gộc đấy à?”. Có những buổi chiều, nghe người ta mách “nhà ông Hát giữa làng còn một con”, ông bèn tìm đến. Nhà khóa cổng, ông ngồi ở chân đống rơm chờ. Sẩm tối, vợ chồng nhà nọ về. “Vâng, bác vào mà xem”. Hăm hở vén mành chuồng lợn. Mặc mùi phân nồng nặc, ông xán lại: Không phải! Đâu phải ai cũng biết đích xác thế nào là giống lợn Ỉ thuần chủng, cứ đen đen xâu xấu thì bảo “chắc chắn nhà đấy có”.  Song cuối cùng, chuyến đi xuyên 3 tỉnh, hơn 4 tháng trời biền biệt không về nhà đó, TS Sự cũng tìm được giống lợn ỉ pha, nhưng chỉ đạt 70% máu lợn Ỉ.

Giống lợn Ỉ đang ở giữa bờ vực của sự tuyệt chủng.

Nhọc nhằn phục tráng lợn Ỉ

Trong một chuyến khảo sát tại huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá vào năm 1995, ông Nguyễn Như Cương là giảng viên của trường ĐH Hồng Đức đã phát hiện một số con lợn Ỉ được nuôi giữ bởi những hộ nghèo nhất nhì trong vùng. TS Võ Văn Sự hào hứng về Thanh Hóa, kiểm tra phân tích cho thấy hàm lượng gen lợn Ỉ ở những con lợn này khá cao, lên đến 75-85% máu lợn Ỉ.

Từ năm 2001, đàn lợn Ỉ ở Hoằng Hoá được Viện Chăn nuôi đưa vào chương trình đề án “Bảo tồn quỹ gen vật nuôi Việt Nam”, ông Nguyễn Như Cương đại diện cho Hội Chăn nuôi thú y Thanh Hoá ký kết hợp đồng bảo tồn với Viện Chăn nuôi. Mỗi năm Nhà nước chi 50 triệu đồng cho cơ sở bảo tồn lợn Ỉ tại Thanh Hóa. Tuy nhiên, việc đề tài Phục tráng giống lợn ỉ do Viện Chăn nuôi và Thanh Hóa thực hiện không thành công, khi đàn lợn Ỉ đã phát triển lên 38 con, nhưng độ thuần chủng không nâng cao lên được, đàn lợn đối diện với nguy cơ dịch bệnh, có thể xóa sổ bất cứ lúc nào. Vì vậy, đến năm 2009, đàn lợn được đưa về Trung tâm Thực nghiệm và bảo tồn vật nuôi [thuộc Viện Chăn nuôi quốc gia] ở Thụy Phương, Hà Nội để tiếp tục công cuộc bảo tồn và phục tráng giống. Thế nhưng, đàn lợn Ỉ được nuôi dưỡng tại Viện Chăn nuôi cứ chết dần, tuy sinh sản được nhiều đàn hậu duệ, nhưng đàn con sinh ra phần lớn đều chết non. Vì vậy đến năm 2016, Bộ NN&PTNT chuyển giao những con lợn Ỉ từ Viện Chăn nuôi về cho Công ty Dabaco ở Bắc Ninh. Ngày 11/11/2016, Bộ NN&PTNT phối hợp với Bộ Khoa học & Công nghệ [KH&CN] tổ chức Lễ ký kết Chương trình phối hợp hoạt động khoa học và công nghệ giữa hai Bộ. Tại lễ ký kết này, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT  Nguyễn Xuân Cường và Bộ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ  Chu Ngọc Anh  đã giao nhiệm vụ cho Tập đoàn DABACO Việt Nam cùng với các nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu của Việt Nam trong thời gian ngắn nhất phục tráng 2 giống lợn đặc sản của Việt Nam là giống lợn Móng Cái thuần và lợn Ỉ thuần sớm đưa vào sản xuất.

Trước thềm năm mới Kỷ Hợi, tôi tìm đến Trung tâm Thực nghiệm và bảo tồn vật nuôi của Viện Chăn nuôi, bà Nguyễn Thị Mười, Giám đốc Trung tâm cho biết, toàn bộ lợn Ỉ đã chuyển giao hết cho DABCO, nên tại Trung tâm không còn cá thể nào. Số lượng lợn Ỉ giao cho DABCO là 10 con lợn nái và 2 cá thể lợn đực. Với sự nỗ lực phục tráng, độ thuần chủng của đàn lợn Ỉ bảo tồn từ mức 85% máu lợn Ỉ khi nhận chuyển giao từ Thanh Hóa, đến thời điểm năm 2015, đã có những con lợn đạt đến 95-98% máu lợn Ỉ. Tuy vậy, chỉ có 2 con đạt đến độ này, và chưa có con lợn nào đạt độ thuần chủng 100% máu lợn Ỉ như mục tiêu đề ra, phần lớn số con còn lại chỉ dao động ở mức 85-95% máu lợn Ỉ. Nhưng điều đáng nói, lợn Ỉ bào tồn rất khó nuôi, tỷ lệ lợn chết lên đến 80-100% ngay trong giai đoạn trước cai sữa, nguyên nhân là do cận huyết. “Trước đây cha ông ta nuôi lợn Ỉ, đàn lợn cả nước còn đông đến mấy triệu con, thì không bị cận huyết, nên lợn Ỉ được ngợi ca là có sức chống chịu cao, ít bệnh tật so với các giống lợn ngoại. Nhưng nay bảo tồn chỉ có mấy chục con đem giao phối với nhau, dẫn đến cận huyết, sức khỏe rất kém, lợn con nào sinh ra thì chết con đó. Từ đàn lợn ngót 40 con, về sau chỉ còn hơn chục con. Chúng tôi nhiều lần về Thanh Hóa tìm mua thêm lợn đực Ỉ để làm tươi máu đàn lợn bảo tồn, nhưng không có. Người ta cũng giới thiệu trong dân có những con lợn Ỉ, nhưng là lợn dưới 60% máu Ỉ, nếu sử dụng nhân đàn thì sẽ đi ngược mục tiêu phục tráng giống”, bà Mười cho hay.  Theo bà Mười, trong đàn lợn chuyển giao cho DABACO, có 2 ổ lợn nái mới sinh con. Thế nhưng DABCO nhận về, họ nuôi cũng chết hết.  

Chúng tôi tìm đến Công ty TNHH Lợn giống hạt nhân DABACO, thành viên Tập đoàn DABACO, tại xã Lạc Vệ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nơi hiện đang bảo tồn những con lợn Ỉ cuối cùng. Ông Nguyễn Văn Hùng, cán bộ ở đây cho biết, công cuộc bảo tồn giống lợn Ỉ vẫn hầu như không có tiến triển và rất gian nan. Tuy vẫn có những đàn lợn con mới chào đời,  nhưng nuôi sống được rất được rất hãn hữu. Và càng chưa thể dự đoán được đến bao giờ mới phục tráng thành công lợn 100% máu lợn Ỉ như nhiệm vụ được Bộ NN&PTNT giao.

Bài và ảnh: Chu Minh Khôi

  • bảo tồn giống heo
  • giống lợn
  • Lợn ỉ Việt Nam

Video liên quan

Chủ Đề