Hiệp ước basel là gì

[CBZ] Basel là các quy định do Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng đưa ra dưới dạng hiệp ước và khuyến cáo các ngân hàng tuân thủ để tránh rủi ro tín dụng, rủi ro thị trườngrủi ro tác nghiệp.

Mục đích của các hiệp ước là để bảo đảm các tổ chức tài chính có đủ vốn để đáp ứng các nghĩa vụ cũng như để giải quyết các thua lỗ bất ngờ.

Hiệp ước Basel đầu tiên, thường được gọi là Basel I [năm 1988], yêu cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải nắm giữ một mức vốn tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó mức vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân hàng đó.

Hiệp ước Basel II, sẽ được thực thi đầy đủ trước năm 2015, chú trọng ba lĩnh vực chính, gồm yêu cầu vốn tối thiểu, đánh giá giám sát và kỷ luật thị trường, thường được gọi là ba cột trụ chính.

Hiệp ước Basel III, với những quy định mới về khái niệm và các tiêu chuẩn tối thiểu cao hơn, sẽ được thực hiện từ tháng 1-2013 và hoàn thành vào cuối năm 2018. Ví dụ, hệ số an toàn vốn tối thiểu [CAR] được giữ nguyên ở mức 8%, nhưng Basel III yêu cầu vố chủ sở hữu [vốn cấp 1] của các ngân hàng phải nâng từ 4% lên 6%.

Hiệp ước vốn Basel II là phiên bản thứ hai của Hiệp ước Basel, trong đó đưa ra các nguyên tắc chung và các luật ngân hàng của ủy ban Basel về giám sát ngân hàng.

Định nghĩa

Hiệp ước vốn Basel II là phiên bản thứ hai của Hiệp ước Basel, trong đó đưa ra các nguyên tắc chung và các luật ngân hàng của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng.

Hiệp ước về vốn Basel II được trình bày như một tập hợp các qui định được đề xuất mà có thể sẽ mang đến một loạt các thách thức về tuân thủ cho các ngân hàng trên thế giới.

Mục tiêu của Basel II

- Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế.

- Tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện quốc tế.

- Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản rủi ro.

Nhận xét

Hai mục tiêu đầu của Basel II là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước vốn Basel I. Mục tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển dần từ cơ chế điều tiết dựa trên tỉ lệ, mà đó chỉ là một phần của khung mới, hướng đến một sự điều tiết mà sẽ dựa nhiều hơn vào các số liệu nội bộ, thông lệ và các mô hình.

Nội dung Basel II

- Basel II sử dụng khái niệm"Ba trụ cột":

[1] Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc.

Theo đó, tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu hay tỉ lệ bắt buộc vốn tối thiểu [CAR] vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành [hay rủi ro hoạt động] và rủi ro thị trường.

So với Basel I, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro vận hành. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức [từ 0%-150% hoặc hơn] và rất nhạy cảm với xếp hạng.

[2] Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những "công cụ" tốt hơn so với Basel I.

Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp , mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại [residual risk].

Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:

+ Thứ nhất, các ngân hàng cần phải có một qui trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó.

+ Thứ hai, các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của qui trình này.

+ Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo qui định.

+ Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo qui định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.

[3] Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường.

Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và qui trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.

Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hi vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.

[Tài liệu tham khảo: Hiệp ước vốn Basel, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam]

Minh Lan

Vào năm 1988, BCBS đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà nó được đề cập như là Hiệp ước vốn Basel [the Basel Capital Accord] hay Basel I. Hệ thống này cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%.

Sự hình thành Hiệp ước vốn Basel I

Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng [Basel Committee on Banking supervision - BCBS] được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển [G10] tại thành phố Basel, Thụy Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80.

Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà nó được đề cập như là Hiệp ước vốn Basel [the Basel Capital Accord] hay Basel I. Hệ thống này cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%.

Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Đến năm 1996, Basel I được sửa đổi với rất nhiều điểm mới. Tuy vậy, Hiệp ước vẫn có khá nhiều điểm hạn chế.

Mục đích của Basel I

- Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế.

- Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.

Tiêu chuẩn của Basel I

[1] Tỉ lệ vốn dựa trên rủi ro - "Tỉ lệ Cook"

- Tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS với mục đích củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia.

- Theo tiêu chuẩn này, ngân hàng phải giữ lại lượng vốn bằng ít nhất 8% của rổ tài sản, được tính toán theo nhiều phương pháp khác nhau và phụ thuộc vào độ rủi ro của chúng.

- Tỉ lệ an toàn vốn [CAR] = Vốn bắt buộc / Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền [RWA]

Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%.

[2] Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3: Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỉ lệ vốn an toàn của ngân hàng. Tiêu chuẩn này qui định:

Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3

Vốn cấp 1 là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn; Dự trữ công bố [Lợi nhuận giữ lại]; Lợi ích thiểu số [minority interest] tại các công ty con, có hợp nhất báo cáo tài chính; Lợi thế kinh doanh [goodwill].

Vốn cấp 2 [Vốn bổ sung] gồm: Lợi nhuận giữ lại không công bố; Dự phòng đánh giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung; Công cụ vốn hỗn hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính và các tổ chức tài chính khác.

Vốn Cấp 3 [Dành cho rủi ro thị trường] = Vay ngắn hạn

[3] Vốn tính theo rủi ro gia quyền:

RWA = Tổng [Tài sản x Mức rủi ro phân định cho từng tài sản trong bảng cân đối kế toán] + Tổng [Nợ tương đương x Mức rủi ro ngoại bảng]

Basel I đưa ra trọng số rủi ro gồm 4 mức: quốc gia 0%; ngân hàng 20%; doanh nghiệp 100%... Trọng số rủi ro không phản ánh độ nhạy cảm rủi ro trong mỗi loại này.

Những thiếu sót của Basel I

- Sau khi rủi ro tín dụng được thiết lập vào năm 1988, Uỷ ban Basel đã chuyển sự chú ý của họ sang rủi ro thị trường để phản ứng lại các hoạt động kinh doanh chuyên hữu ngày càng tăng của các ngân hàng thương mại và đến năm 1996, Basel I đã được sửa đổi với mục đích tính đến cả phí vốn đối với rủi ro thị trường.

- Mặc dù vậy, Basel I vẫn có khá nhiều điểm hạn chế.

Một trong những điểm hạn chế cơ bản của Basel I là không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp với mức độ ngày càng tăng lên, đó là rủi ro vận hành [không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro vận hành]. Ngoài ra, còn một số điểm hạn chế khác như không phân biệt theo loại rủi ro, không có lợi ích từ việc đa dạng hóa…

[Tài liệu tham khảo: Hiệp ước vốn Basel, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam]

Minh Lan

Video liên quan

Chủ Đề