Huỳnh thúc kháng là ai

Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Huỳnh Thúc Kháng [1876 - 1947]. [Ảnh tư liệu]

[Stxdd.thanhuytphcm.vn] - Nhân cách cao đẹp, cùng tài năng, đức độ, ý chí quật cường của cụ Huỳnh Thúc Kháng, quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mãi mãi là tấm gương sáng để các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau học tập, noi theo.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng sinh ngày 1/10/1876, người làng Thạnh Bình, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Cụ đỗ tiến sĩ năm Giáp Thìn [1904]. Là người cùng các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp lãnh đạo của phong trào Duy Tân, năm 1908, cụ Huỳnh Thúc Kháng bị thực dân Pháp bắt và đày đi Côn Đảo suốt 13 năm mới được trả tự do.

Những năm 1926 - 1928, cụ làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung kỳ. Khi thấy Viện này không thực sự đại diện cho tiếng nói và nguyện vọng của nhân dân, cụ đã từ chức và sáng lập báo Tiếng Dân, làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút báo này tại Huế từ năm 1927 đến 1943. Qua báo Tiếng Dân, cụ đã công bố nhiều nguồn tư liệu quý về lịch sử nước nhà, trong đó có những chứng cứ về chủ quyền lãnh thổ đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, trân trọng tài năng, đức độ của cụ Huỳnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh điện cho Ủy ban nhân dân lâm thời Trung bộ mời cụ ra Hà Nội, tham gia Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Dù tuổi cao, nhưng với lòng yêu nước nhiệt thành, cụ đã nhận lời gánh vác việc nước, sát cánh cùng các chiến sĩ cộng sản và đồng bào cả nước vượt qua khó khăn, giữ vững nền dân chủ cộng hòa non trẻ.

Bắt đầu làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, cụ Huỳnh Thúc Kháng dự phiên họp đầu tiên của Chính phủ vào ngày 4/3/1946 và sau đó đảm nhiệm vị trí quyền Chủ tịch Chính phủ, theo Sắc lệnh số 82 ngày 29/5/1946, do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, khi Người đi thăm Pháp, cho đến ngày 21/10/1946, khi Hồ Chí Minh về nước. Sau đó, cụ lại tiếp tục được tái nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ mới thành lập vào tháng 11/1946. Điều đó thể hiện sự tin tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh với chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng trong lúc cuộc kháng chiến hết sức cam go.

Tượng bán thân chí sĩ - nhà báo Huỳnh Thúc Kháng đặt tại Trung tâm Báo chí tỉnh Quảng Nam, số 11 Hùng Vương, TP. Tam Kỳ. [Ảnh: thanhnien.vn]

Ngay sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, cách mạng Việt Nam đứng trước hoàn cảnh hết sức khó khăn, phức tạp. Trong bối cảnh ấy, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã tham gia điều hành các công việc của Chính phủ, lãnh đạo và tổ chức thành công việc ổn định tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, tiến hành đấu tranh với quân đội Trung Hoa Dân quốc [quân Tưởng] và đối phó với hành động bạo lực lấn lướt của thực dân Pháp khi chúng thay thế quân Tưởng ở Bắc vĩ tuyến 16.

Dù ở cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ, hay quyền Chủ tịch nước, cụ Huỳnh đã làm hết sức mình phụng sự cho đất nước. Đặc biệt trong thời gian giữ chức vụ quyền Chủ tịch nước, cụ đã ký 160 sắc lệnh [từ Sắc lệnh số 92 đến 251] và quyết định nhiều vấn đề quan trọng khi chủ trì các phiên họp của Hội đồng Chính phủ và đã thể hiện rất thành công trong thực hiện phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn trong việc đối phó với kẻ thù và chuẩn bị lâu dài mọi mặt cho cuộc kháng chiến sắp tới chống lại thực dân Pháp.

Những đóng góp của cụ Huỳnh Thúc Kháng trong công cuộc điều hành đất nước, phối hợp chặt chẽ với những người cộng sản và tất cả các lực lượng yêu nước trong Chính phủ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao. Trong Lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về, ngày 23/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chia sẻ niềm tin tưởng và cảm ơn tới cụ Huỳnh Thúc Kháng: “Trong lúc tôi đi vắng, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của cụ Huỳnh quyền Chủ tịch, sự săn sóc giúp đỡ của Quốc hội, sự ra sức gánh vác của Chính phủ, sự đồng tâm hợp lực của quốc dân, mà giải quyết được nhiều việc khó khăn, công việc kiến thiết cũng tiến bộ” .

Cụ mất ngày 21/4/1947, hưởng thọ 71 tuổi. Thương tiếc người đã hiến trọn đời mình cho dân tộc độc lập, tự do và hạnh phúc của đồng bào, trong thư gửi toàn thể quốc dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cụ Huỳnh là người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao. Vì lòng yêu nước mà trước đây cụ bị bọn thực dân làm tội đày ra Côn Đảo mười mấy năm trường gian nan cực khổ. Nhưng lòng son dạ sắt, yêu nước thương nòi của cụ Huỳnh chẳng những không sờn lại thêm cương quyết. Cụ Huỳnh là người giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm làm giàu, không thèm làm quan. Cả đời cụ Huỳnh chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập”.

Kỷ niệm 145 năm ngày sinh cụ Huỳnh Thúc Kháng, chúng ta nhớ đến tấm gương sáng của một chí sĩ cách mạng, cả cuộc đời không màng danh vị, không vì giàu sang, luôn phấn đấu, hy sinh cho hạnh phúc của nhân dân và sự phát triển của đất nước. Noi gương cụ, thế hệ cán bộ và nhân dân Việt Nam hôm nay nguyện phấn đấu không mệt mỏi cho một đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, phát triển dựa trên ý chí tự chủ, tự cường, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Nguyễn Văn Thanh

Tin liên quan


Huỳnh Thúc Kháng hay Hoàng Thúc Kháng [Thuở nhỏ có tên là Huỳnh Hanh, tự Giới Sanh, hiệu là Mính Viên ; 1876–1947] là một chí sĩ yêu nước nổi tiếng của Quảng Nam.
Người Việt Nam thường nhắc đến ông với một tên gọi gần gũi: "cụ Huỳnh". Huỳnh Thúc Kháng là một trong Thập Ngũ Phụng Tề Phi của đất Quảng Nam xưa, ông là thủ khoa của kỳ thi hương năm 1900 [Canh Tý]. Ông người làng Thạnh Bình, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Huỳnh Thúc Kháng đi học lúc 8 tuổi, đến năm 13 tuổi đã văn hay chữ tốt. Năm Canh Tý [1900], ông dự thi Hương và đậu Giải nguyên. Ông nổi tiếng ở kinh đô Huế, sánh cùng Trần Quý Cáp, Phạm Liệu. Năm Giáp Thìn [1904], ông đỗ Tiến sĩ. Ông cùng với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Trần Quí Cáp là những nhà lãnh đạo phong trào Duy Tân. Vì lý do đó, ông bị bắt trong năm Mậu Thân [1908], rồi bị đày ở Côn Đảo suốt 13 năm [1908-1921] mới được trả tự do. Năm 1926, ông đắc cử dân biểu rồi được cử làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kì. Trong ba năm hoạt động ở Viện, ông cương quyết tranh đấu trong nghị trường, rồi nhân việc chống lại Khâm sứ Pháp Jabouille, ông từ chức. Năm 1927, ông sáng lập tờ báo Tiếng Dân, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo này tại Huế cho đến khi tờ báo này bị đình bản [1943]. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ông ra tham gia nội các Chính phủ Liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Năm 1946, khi Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán, Huỳnh Thúc Kháng được cử làm quyền Chủ tịch nước. Thời gian này ông còn là chủ tịch Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam [Liên Việt].
Cuối năm 1946, ông là đặc phái viên của chính phủ vào cơ quan Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Nam Trung Bộ tại Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 21 tháng 4 năm 1947, ông lâm bệnh nặng và mất tại gia đình chị Võ Thị Tuyết, thôn Phú Bình, xã Hành Phong, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Làm theo tâm nguyện của cụ, nhân dân đã an táng cụ trên đỉnh núi Thiên Ấn. Nơi đây là đệ nhất thắng cảnh của Quảng Ngãi – "Thiên Ấn niên hà" [Ấn trời đóng xuống sông].
Nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng tại xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước vẫn còn lưu giữ nhiều kỷ vật có giá trị, được một người cháu nuôi trong dòng tộc bảo quản.

Page 2

Cụ nổi tiếng thông minh học giỏi nhớ lâu, 15 tuổi kết giao với Phan Chu Trinh, 18 tuổi kết giao với Trần Quý Cáp. Năm 1900, Cụ đậu giải Nguyên, năm 1904 đậu Tiến sĩ, trở thành một trong “tứ hổ” Trung Kỳ nổi tiếng thời ấy. Thời gian thi học ở kinh đô Huế, qua người bạn thâm giao Phan Châu Trinh lúc ấy đang làm quan ở Bộ lễ Huỳnh Thúc Kháng có dịp tiếp xúc với các nho sĩ tân học có tư tưởng cách mạng như Phan Bội Châu, Đào Nguyên Phổ… được đọc Tân Thư và hấp thụ tư tưởng văn minh dân quyền. Vốn không ham quan tước, lại chịu ảnh hưởng tây học nên sau khi thi đõ đại khoa, Huỳnh Thúc Kháng không ra làm quan mà cũng như Trần Qúy Cáp, cụ trở về làng ẩn cư. Năm sau, 1905, Phan Châu Trinh từ quan rồi cả ba cụ cùng làm một cuộc Nam du xem xét tình hình, đề xướng tân học. Lúc đi ngang tỉnh Bình Định, gặp kỳ khảo hạch thí sinh, cụ Huỳnh làm bài phú Lương Ngọc danh sơn nội dung mạt sát khoa cử, cổ xúy tân học, vang dội một thời. Từ cuộc Nam du trở về cụ Huỳnh chuyên lo vận dụng nhân dân thay đổi lối sống, mặc âu phục, cắt tóc ngắn, cùng các thân sĩ chung sức lập các hội buôn, hội nông, hội trồng quế, xây trường học, thư viện.  Cụ đến khắp các địa phương trong tỉnh diễn thuyết, hô hào Duy Tân.

Năm 1908, vụ kháng thuế nổ ra ở Quảng Nam rồi lang rộng các tỉnh miền Trung, cụ Huỳnh cùng thân sĩ các tỉnh bị thực dân Pháp và triều đình Huế bắt đày ra Côn Đảo với án chung thân… Cuộc đời 13 năm Côn Đảo của cụ sau đó là cả một quá trình rèn luyện trong nhà tù mà cụ gọi là “ trường học thiên nhiên” khắc nghiệt. Khi cụ ra khỏi tù thì tình hình trong nước và thế giới đã có nhiều thay đổi. Chính phủ bù nhìn Nam triều và thực dân Pháp nhất là toàn quyền Pasquier nhiều lần tìm cách mua chuộc lôi kéo cụ ra công tác với chúng nhưng Huỳnh Thúc Kháng thẳng thắn cự tuyệt. Phan Châu Trinh ở Pháp về Sài Gòn, cụ Huỳnh có vào thăm và vĩnh biệt. Năm 1926, thực dân Pháp cải tổ Hội đông tư vấn bù nhìn tróc sơn thành Viện dân biểu Trung kỳ để dễ tiếp tục chính sách mị dân, cụ Huỳnh Thúc Kháng ra ứng cử với tư cách người đứng giữa hai phái trí thức cựu nho [ nho học] và tân học [ tây học]. Cụ trúng cử và giữ chức Nghị trưởng. Hoài vọng của cụ là sử dụng viện dân biểu này như một diễn đàn đấu tranh công khai đòi thực dân Pháp phải cải cách dân chủ, mở rộng chính sách cai trị, bảo vệ quyền lợi dân tộc. Nhưng Viện Dân biểu do Pháp nặn ra này chỉ là tổ chức bù nhìn, một chiêu bài phục vụ  cho chúng nên thời gian cụ Huỳnh làm Viện trưởng, những xung đột của cụ và nhà cầm quyền thực dân diễn ra ngày càng gay gắt, biểu hiện thành các vụ xung đột “ Huỳnh Thúc Kháng-d’Elloy” và “ Huỳnh Thúc Kháng-Jaboille”. Xét thấy không thể tiếp tục đấu tranh nghị trường  với thực dân, cụ Huỳnh khẳng khái từ chức năm 1928. Thời gian cụ làm Viện trưởng dân biểu theo sự ủy thác của cụ Phan Bội Châu và các đồng nhân, cụ Huỳnh đứng ra tổ chức tờ báo Tiếng Dân, tờ báo đầu tiên ở miền Trung, do cụ làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, số đầu tiên ra ngày 10-8-1927. Từ đây đến ngày 28-4-1943 khi bị đóng cửa, báo Tiếng Dân với nhà báo Huỳnh Thúc Kháng đã góp phần vào việc giáo dục quần chúng đấu tranh công khai tố cáo chính sách thống trị của chính phủ Pháp, vạch mặt bọn Việt gian cùng những thủ đoạn mị dân của chúng, đòi hỏi dân chủ dân sinh. Trong không khí ngột ngạt của kinh đô Huế và toàn xứ Trung Kỳ, tờ báo là một làn gió mát rất được độc giả hoan nghênh.

Từ năm 1940, phát xít Nhật đặt chân đến Việt Nam, thực dân Pháp đầu hàng. Để thành lập một chính quyền tay sai bản sứ phục vụ cho mưu đồ Đại Đông Á, biết cụ Huỳnh có uy tín lớn trong nhân dân, bọn Nhật nhiều lần tìm cách mời cộng tác, lấy danh nghĩa Cường Để viết thư cho cụ để dụ dỗ cụ Huỳnh ra làm việc với Nhật nhưng trước sau cụ vẫn một mực cự tuyệt. Năm 1943, Nhật hất cẳng Pháp, Bảo Đại đứng đầu chính phủ bù nhìn lại mời cụ Huỳnh ra thành lập Nội Các, cụ Huỳnh chẳng những từ chối mà còn viết thư thẳng thắn khuyên Bảo Đại thoái vị giao quyền cho nhân dân. Những chiêu bài “Việt Nam độc lập” mà Phát xít Nhật dựng lên đã bao lần không đánh lừ được cặp mất tinh đời đã rằng luyện lâu dài trong đấu tranh chính trị công khai của cụ.

Chỉ đến mùa thu năm 1945, nhân dân ta làm cuộc Cách Mạng Tháng Tám, cụ Huỳnh Thúc Kháng mới nhìn thấy độc lập thật sự, cụ mới sung sướng thật sự. Trong ngày giỗ lần thứ 5 cụ Phan Bội Châu, cụ Huỳnh nói:

“Ất Dậu trước [1885] đến Ất Dậu này [1945] thật khác xa. Trước là kinh thành thất thủ, là mất nước, nay là cách mạng, là giải phóng. Cái hoài bão của hai cụ đến đây rõ là được thực hiện. Cụ Sào Nam thì dân tộc chủ nghĩa cụ, Tây Hồ thì dân chủ chủ nghĩa. Đời tôi đến đây thấy được cái kết quả mà bình sinh hai cụ mong ước, như thế là được rồi.”

Hào hứng trước vận hội mới của dân tộc, khát khao đóng góp phần tâm lực cuối cùng cho quê hương đất nước, lại được chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mời tham gia chính phủ liên hợp kháng chiến nên tuy tuổi đã “cổ lai hy”, cụ Huỳnh vẫn nhiệt tình nhận chức bộ trưởng Nộ vụ.

Ngoài ra còn là người sáng lập và hội trưởng Hội liên Hiệp quốc dân Việt Nam tức mặt trận Tổ Quốc ngày nay. Tháng 6 – 1946,  Hồ Chủ tịch đi Pháp cử cụ Huỳnh làm Quyền Chủ tịch nước, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Thời gian này cụ có những đóng góp quan trọng trong việc điều hành bộ máy nhà nước còn mới mẻ và xử lý đúng đắn mọi vấn đề, nội chính, ngoại giao.

Cuộc kháng chiến, toàn quốc bùng nổ cuối năm 1946, chính phủ Trung ương cử cụ đi kinh lý miền Trung. Với tư cách Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, hưởng ứng “lời kêu gọi toàn quốc bùng nổ kháng chiến” của Hồ Chủ Tịch, Cụ Huỳnh cũng phát đi bức thư “Kính cáo đồng bào phụ lão kháng chiến thư” kêu gọi toàn dân đoàn kết chặt chẽ thành một khối quyết sống chết với kẻ thù.

Trên đường công tác đến Quảng Ngãi cụ bị ốm nặng. Tuổi cao sức yếu, biết mình không qua khỏi, cụ bình tĩnh gửi điện vĩnh biệt Hồ Chủ Tịch, chào  anh em binh sĩ và anh em các đảng phái tôn giáo vào ngày 21- 4- 1947, thọ 71 tuổi. Lễ tang cụ Huỳnh được tổ chức trọng thể thành quốc tang đầu tiên của nhà nước ta. Phần mộ cụ hiện vẫn còn trên núi Thiên Ấn thuộc tỉnh Quãng Ngãi

Tuy không có chủ ý xây dựng thơ văn thành sự nghiệp, Huỳnh Thúc Kháng vẫn viết rất nhiều, để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ thuộc nhiều thể loại, tiêu biểu nhất là: 1. Thi tù tùng thoại 2. Vụ chống thuế ở Trung kỳ 3. Phan Tây Hồ tiên sinh lịch sử 4. Huỳnh Thúc Kháng tự truyện 5. Bức thư bí mật gửi Cường Để 6. Một ít dật sự trên đoạn đường lịch sử cách mệnh Việt Nam

Cùng nhiều bài xả thuyết, bình luận trên báo Tiếng Dân

Những tác phẩm này hiện nay đã được sưu tầm và phổ biến đầy đủ, là một nguồn dữ liệu,văn liệu quan trọng giúp ích rất nhiều cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về một thời kỳ đầy biến động lịch sử và văn học nước ta.

Ghi nhận những đóng góp của ông, chính quyền thành phố Đà Nẵng đã quyết định đặt tên một con đường mang tên Huỳnh Thúc Kháng dài 550m, rộng 6m, nối đường Lê Đình Dương với đường Chu Văn An thuộc quận Hải Châu.

Cổng TTĐT thành phố
 

Video liên quan

Chủ Đề