Mặt trái của kinh tế hàng hoá kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường được xem là một trong những thành quả quan trọng trong sự phát triển lâu dài của nền văn minh nhân loại, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, tăng năng suất lao động. Vậy cụ thể, kinh tế thị trường là gì?

  • Kinh tế thị trường là gì?
  • Kinh tế thị trường mang đặc điểm gì?
  • Ưu điểm của kinh tế thị trường là gì?
  • Nhược điểm của kinh tế thị trường là gì?
  • Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam

Kinh tế thị trường là gì?

Kinh tế thị trường là loại hình kinh tế - xã hội vận hành dựa trên mối quan hệ giữa người mua và người bán theo quy luật cung - cầu, để xác định giá cả, số lượng hàng hóa, dịch vụ sẵn sàng giao dịch trên thị trường.

Như vậy, có thể hiểu trong nền kinh tế các mối quan hệ kinh tế, sự trao đổi, mua bán các sản phẩm, sự phân chia lợi ích, tìm kiếm lợi nhuận,... đều do các quy luật của thị trường điều tiết và chi phối.

Trong thực tế, nếu không thu được lợi nhuận thì sản xuất, kinh doanh không có động lực để tiếp tục hoạt động thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh dẫn đến sự trì trệ của xã hội.

Kinh tế thị trường giải quyết được những vấn đề đó và được xem là thành quả quan trọng trong nền văn minh nhân loại. Kinh tế thị trường không phải là của riêng hay độc quyền trong một hình thái kinh tế - xã hội nào.

Mặt trái của kinh tế hàng hoá kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường mang đặc điểm gì?

Các đặc điểm cơ bản của kinh tế thị trường hiện nay như sau:

- Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường bằng luật pháp, tạo ra các điều kiện tốt nhất cho thị trường hoạt động, điều tiết toàn bộ nền kinh tế bằng các công cụ kinh tế hợp pháp và khắc phục những thất bại của thị trường.

- Các chủ thể thị trường phải độc lập về pháp lý và đa dạng về loại hình; có quyền tự chủ và tự do kinh doanh; tức là tự do quyết định sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào, tự do quyết định giá và trao đổi theo cung cầu thị trường.

- Thị trường tất cả các loại đều có cạnh tranh công bằng và trật tự; độc quyền kinh doanh được kiểm soát có hiệu quả; cạnh tranh không công bằng, không lành mạnh bị loại trừ

- Tự do kinh doanh, cạnh tranh thị trường công bằng và có trật tự là hai yếu tố cơ bản chi phối phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế, chi phối sự lựa chọn của các chủ thể thị trường.

- Giá cả tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố sản xuất (vốn, đất đai, lao động, tài nguyên thiên nhiên…) đều được quyết định dựa trên sự khan hiếm, cạnh tranh và quan hệ cung - cầu của thị trường

Ngoài ra, đặc điểm của yếu tố nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay như sau:

- Quản lý và duy trì ổn định kinh tế vĩ mô;

- Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ và bảo đảm hiệu lực thực thi, trong đó, các điểm nổi bật là xác lập rõ ràng, cụ thể các loại tài sản, quyền sở hữu tài sản, bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài sản; bảo đảm quyền tự do hợp đồng và thực thi các hợp đồng; bảo đảm cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát hiệu quả độc quyền kinh doanh dưới mọi hình thức…

- Khắc phục khiếm khuyết, thất bại của thị trường, đồng thời, không làm cho thị trường hoạt động một cách méo mó, sai lệch, không tạo ra những tín hiệu thị trường sai lệch đối với các chủ thể thị trường

- Làm đối tác và tạo cơ hội phát triển đối với khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội khác.

- Tạo điều kiện và đảm bảo công bằng về cơ hội phát triển đối với tất cả công dân; thực hiện phân phối lại thu nhập nhằm giảm bớt bất công, bất bình đẳng trong xã hội và hỗ trợ, nâng đỡ nhóm xã hội yếu thế, các vùng, địa phương kém phát triển

- Đảm bảo hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội, tổ chức cung ứng các loại dịch vụ công, dịch vụ xã hội thiết yếu và thực hiện các nhiệm vụ xã hội khác.

Ưu điểm của kinh tế thị trường là gì?

Trong nền kinh tế thị trường, nếu nhu cầu hàng hóa cao hơn so với nguồn cung, giá cả hàng hóa sẽ cao lên, lợi nhuận từ đó cũng tăng, là động lực để các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tăng nguồn cung.

Theo đó, doanh nghiệp, cơ sở có cơ chế sản xuất hiệu quả, sẽ có tỷ suất lợi nhuận cao, cho phép họ gia tăng quy mô, nguồn lực sẽ đổ dồn về những nơi có hiệu quả sản xuất tốt hơn.

Trái lại, các doanh nghiệp, cơ sở có cơ chế sản xuất không hiệu quả, sức cạnh tranh kém sẽ dần bị đào thải khỏi thị trường.

Nền kinh tế thị trường tạo động lực để các doanh nghiệp đổi mới, phát triển công nghệ, về quy trình sản xuất, quản lý, về các sản phẩm để có thể cạnh tranh và đáp ứng được nhu cầu của thị trường.

Nền kinh tế thị trường luôn có sự cạnh tranh vì vậy muốn tồn tại phải luôn có giải pháp cải tiến. Kinh tế thị trường cũng là nơi thanh lọc những người thực sự có năng lực, đào thải những ai yếu kém.

Bên cạnh đó, kinh tế thị trường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế giữa các nước. Việc được tiếp xúc, chuyển giao công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý từ các nước phát triển sẽ thúc đẩy các nước đang phát triển có những giải pháp tích cực cho kinh tế nước nhà.

Mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được là tiêu chí trong xác định điều kiện thương mại giữa hai bên.

Ngoài ra, nền kinh tế thị trường cũng mang đến nhiều việc làm hơn cho người lao động.

Nhược điểm của kinh tế thị trường là gì?

Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể là nguyên nhân gây bất bình đẳng trong xã hội.

Những người chiếm ưu thế trong kinh doanh sản xuất sẽ ngày càng có nhiều tài sản, quyền lực. Những người còn lại cũng sẽ rơi vào tình trạng tệ hơn.

Đó cũng là lý do dẫn đến sự phân chia giai cấp: thống trị và bị trị. Sự phân chia giai cấp cũng dẫn đến những bất ổn trong đời sống xã hội.

Bên cạnh đó, nếu sau thời gian dài không còn có sự cạnh tranh, những người có tiềm lực mạnh sẽ thâu tóm thị trường, nền kinh tế có thể chỉ do một số ít người thao túng, họ cũng chi phối thị trường theo ý mình.

Cứ như vậy, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước việc tăng giá, giảm chất lượng sản phẩm để tăng thêm lợi nhuận sẽ xảy ra, gây tổn thất lớn cho nền kinh tế nói chung, người tiêu dùng nói riêng.

Cuối cùng, sự chênh lệch về cung – cầu sẽ là hệ quả dẫn đến khủng hoảng thừa, thất nghiệp và lạm phát.

Các doanh nghiệp không bán được hàng để thu hồi vốn dần sẽ phá sản gây khủng hoảng kinh tế…

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xem là nền kinh tế hiện đại, hội nhập quốc tế và có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.

Nền kinh tế này có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;

Với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng trong nền kinh tế nói chung.

Bên cạnh đó, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.

Còn thị trường đóng vai trò huy động, phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển và là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất.

Các nguồn lực của Nhà nước được phân bổ theo chiến lược, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.

Trong nền kinh tế thị trường thì Nhà nước đóng vai trò định hướng, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch; thực hiện tiến bộ, công bằng trong từng chính sách phát triển và đặc biệt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân...

Một số điều cần cần đáp ứng để cơ chế thị trường không tồn tại những hạn chế như:

- Thị trường có sự cạnh tranh lành mạnh

- Có thông tin minh bạch

- Không bị ảnh hưởng bởi các thông tin ngoại lai

- Không đầu cơ

- Không vi phạm đạo đức kinh doanh

- Không có sự lách luật…

Trên đây là giải đáp về kinh tế thị trường là gì? Nếu còn băn khoăn, độc giả vui lòng liên hệ 

Mặt trái của kinh tế hàng hoá kinh tế thị trường
 19006199 để được hỗ trợ.

>> Lạm phát là gì? Có ảnh hưởng thế nào đến kinh tế, xã hội?

(QLNN) – Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử về kinh tế –  xã hội, góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, việc đất nước chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có vấn đề xây dựng phẩm chất đạo đức, nhân cách người cán bộ, đảng viên.

Trong những thập kỷ gần đây, do sự phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế, những nước đang phát triển có thể nhanh chóng hội nhập nền kinh tế quốc tế; tạo ra bước phát triển nhảy vọt về hệ thống thị trường, tăng trưởng kinh tế và có thể bước vào nền kinh tế thị trường (KTTT). Thực chất KTTT là nền kinh tế hàng hoá; ở đó các quy luật kinh tế của kinh tế hàng hoá hoạt động mạnh mẽ, thông qua hệ thống thị trường tương đối đồng bộ và ở trình độ cao; thị trường trở thành đặc trưng nổi bật, chi phối mãnh liệt các chủ thể hoạt động trong nền kinh tế. Tuy vậy, KTTT có những hạn chế, khuyết tật của nó. Ngoài những mặt trái như dễ phá vỡ sự cân đối nền sản xuất xã hội; tạo sự cạnh tranh khốc liệt, độc quyền, buôn bán gian lận, lừa đảo, phân hoá giàu nghèo, thất nghiệp, làm ô nhiễm môi trường… KTTT còn là nguyên nhân làm băng hoại đạo đức, lối sống, nhân cách con người trong xã hội.

Đất nước ta hiện nay đang tiến hành công cuộc đổi mới, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm. Thực chất của đổi mới kinh tế là chuyển từ mô hình kinh tế tập trung quan liêu hành chính bao cấp sang phát triển nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Nghị quyết Đại hội IX của Đảng nêu rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là nền KTTT định hướng XHCN. KTTT định hướng XHCN mà Đảng ta chủ trương xây dựng là một kiểu tổ chức nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH vận hành theo các quy luật kinh tế khách quan của nền KTTT, các quy luật của thời kỳ quá độ; đồng thời, có sự quản lý điều tiết của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong nền KTTT định hướng XHCN, cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường sự đồng thuận trong xã hội để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nền KTTT định hướng XHCN có tác động ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nhân cách người cán bộ, đảng viên với những biểu hiện như: tính quyết đoán, năng động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm; đồng thời, là điều kiện thuận lợi để mỗi người rèn luyện, hoàn thiện về phẩm chất đạo đức, lối sống XHCN. KTTT định hướng XHCN phát triển, các năng lực tiềm ẩn trong nhân dân được giải phóng, đời sống mọi tầng lớp nhân dân được cải thiện từng bước. Trên cơ sở đó, niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào sự nghiệp đổi mới được củng cố. Đó là điều kiện tốt để chúng ta xây dựng, củng cố phát triển nhân cách người cán bộ, đảng viên hiện nay.

Bên cạnh những mặt tác động tích cực, KTTT cũng gây ra hàng loạt những hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng không nhỏ đến nhân cách của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Sự phân hoá giàu nghèo làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn xã hội; dễ nảy sinh những tệ nạn tham nhũng, tội phạm, bạo lực; kích thích chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, lối sống chạy theo đồng tiền bất chấp đạo lý. Đối với những nước mới bước vào KTTT như nước ta, sự đụng độ giữa KTTT và các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trở thành vấn đề nan giải.

Tác động tiêu cực từ mặt trái của KTTT đến nay chưa có giải pháp khắc phục hữu hiệu, trong khi có những mặt trở nên nghiêm trọng, nhất là tình trạng quan liêu, tham nhũng, hối lộ, sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong một số cán bộ có chức, có quyền… Tình hình đó đã tạo sự tác động tiêu cực đến  tư tưởng chính trị, nhân cách của cán bộ, đảng viên.

Chính vì vậy, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tư (khoá XI) đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Đánh giá về những hạn chế, yếu kém của đội ngũ cán bộ, đảng viên, Trung ương nhận định: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…

Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển KTTT, các thế lực thù địch lợi dụng những khó khăn, yếu kém, sự tha hoá của một số cán bộ ta trong cơ chế mới, tìm mọi cách khoét sâu thêm mâu thuẫn, làm suy yếu Đảng, lôi kéo, mua chuộc cán bộ, chia rẽ nội bộ… chúng dùng tất cả các phương tiện truyền thông, trong đó đặc biệt là Internet xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ Đảng, các lãnh tụ, các đồng chí lãnh đạo… Mục tiêu là chia rẽ nội bộ ta, giảm lòng tin của dân đối với Đảng, lôi kéo để chuyển hoá tư tưởng chính trị, nhân cách đội ngũ cán bộ, đảng viên; thực hiện âm mưu đa nguyên chính trị, gây hoang mang trong cán bộ, đảng viên và nhân dân để thực hiện “tự diễn biến” từ bên trong. Đó là nguy cơ, thách thức lớn, liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ XHCN.

Nguyên nhân dẫn đến ảnh hưởng tác động mặt trái KTTT tới phát triển nhân cách người cán bộ, đảng viên, trước hết về nguyên nhân khách quan do việc thực hiện đổi mới kinh tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa lường hết được những tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế; chưa có sự chuẩn bị thật kỹ về lập trường, tư tưởng và cả cách thức tiếp cận mới cho cán bộ, đảng viên.

Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế, xây dựng và phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể, của Nhà nước, đó là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển. Trong khi đó, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, tăng cường hoạt động chống phá cách mạng nhằm làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng ta.

Về nguyên nhân chủ quan, do mộ bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ. Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng.

Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật thích ứng với quá trình vận hành của nền KTTT định hướng XHCN chưa kịp thời. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ, đảng viên còn nể nang, cục bộ; không kiên quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém. Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống còn hình thức; một số nơi có tình trạng cán bộ, đảng viên tốt không được bảo vệ, nêu gương; người vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống không bị lên án và xử lý nghiêm minh, kịp thời.

Như vậy, nước ta bước vào KTTT định hướng XHCN là tất yếu khách quan, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước. Song, KTTT cũng làm phát sinh nhiều vấn đề tác động cả mặt tích cực và mặt tiêu cực đến phát triển nhân cách cán bộ, đảng viên. Để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những hạn chế, khuyết tật của KTTT tới nhân cách người cán bộ, đảng viên hiện nay, cần có những giải pháp mang tính đồng bộ, cụ thể, phù hợp, trước hết cần thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng, chính trị trong cán bộ, đảng viên về KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.

Công tác tư tưởng, chính trị quyết định thành hay bại đến xây dựng, phát triển nhân cách người cán bộ, đảng viên trong cơ chế thị trường định hướng XHCN. Vì vậy, công tác tư tưởng cần được quan tâm hàng đầu trong giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên về KTTT ở nước ta hiện nay. Khi mọi cán bộ, đảng viên hiểu rõ những mặt tích cực, nhất là các mặt trái của KTTT sẽ tạo sự đồng thuận, có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển nhân cách của mỗi cán bộ, đảng viên.

Để thực hiện tốt công tác giáo dục tư tưởng, chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên về KTTT, đòi hỏi trước hết từng cấp ủy phải thấm nhuần sâu sắc chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước về phát triển KTTT ở nước ta; xác định các biện pháp phù hợp để tuyên truyền, vận động mỗi cán bộ, đảng viên phát huy mặt tích cực, đấu tranh với các mặt tiêu cực không để tác động ảnh hưởng đến phát triển nhân cách của mình. Đồng thời, cả hệ thống chính trị phải “vào cuộc” góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục tư tưởng, chính trị đến phát triển nhân cách người cán bộ, đảng viên.

Hai là, thường xuyên tự phê bình và phê bình trong cán bộ, đảng viên nhằm phát triển nhân cách của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Tự phê bình và phê bình đã được coi là quy luật phát triển của Đảng ta, nhất là trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới và trước thực trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống như hiện nay trong cơ chế thị trường. Vì vậy, người cán bộ, đảng viên muốn có nhân cách tốt, có uy tín trước quần chúng, cần phải nêu cao tự phê bình và phê bình thường xuyên “như rửa mặt hằng ngày”.

Trong thực hiện tự phê bình và phê bình, trước hết cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý chủ chốt phải làm gương cho cấp dưới noi theo. Phải dám nhìn thẳng vào sự thật, dũng cảm tự phê bình và phê bình, xem đó là cách tốt nhất để sửa mình, phát triển nhân cách, không để những tiêu cực của cơ chế thị trường len lỏi, gặm nhấm đạo đức, lối sống của người cán bộ, đảng viên.

Đồng thời, phải xử lý nghiêm và kịp thời những cán bộ, đảng viên suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng… Có như vậy mới giữ vững và phát huy truyền thống của một Đảng cách mạng chân chính, đã từng tôi luyện nên đội ngũ đảng viên có nhân cách toàn diện, có lý tưởng cách mạng cao đẹp, biết hành động sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân.

Ba là, mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống XHCN.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy, thực hiện tự tu dưỡng, tự rèn luyện một cách nghiêm túc, bền bỉ, thường xuyên là một giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng đối với mỗi cán bộ, đảng viên để phát triển nhân cách của mình trong cơ chế thị trường.

Sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng không phải là những nội dung trừu tượng mà nó diễn ra hàng ngày thông qua những việc cụ thể khi thực hiện chức trách, bổn phận của cán bộ, đảng viên. Đạo đức cách mạng phải là văn hoá ứng xử trong các mối quan hệ đó theo nguyên tắc đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết và trước hết. Việc giữ gìn nhân cách, phẩm chất đạo đức cách mạng phải là của chính mỗi cán bộ, đảng viên, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong bài Đạo đức cách mạng: Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hang ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.

Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị.

Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là học tập đức tính “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là chuẩn mực đạo đức truyền thống trong quan hệ “đối với mình”; đồng thời, đó cũng là chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng, là cơ sở để phát triển nhân cách cán bộ, đảng viên một cách bền vững.

Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay đối với cán bộ, đảng viên là phải loại bỏ thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích cho mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công, thu vén cho gia đình, cá nhân, cục bộ, địa phương chủ nghĩa. Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; không chạy thành tích, không bao che, giấu giếm khuyết điểm. Phải tích cực học tập phong cách Hồ Chí Minh, cụ thể là phong cách quần chúng, phong cách dân chủ và phong cách nêu gương.

Đặc biệt, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nêu gương đối với mình, đối với người và đối với công việc; kiên quyết chống thói tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo; phải luôn học tập cầu tiến bộ, giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết; thật thà, không dối trá, lừa lọc; phải có lòng khoan dung, độ lượng. Đó là con đường để mỗi cán bộ, đảng viên tự hoàn thiện mình để không ngừng phát triển nhân cách người cán bộ, đảng viên trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay./.

Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, H. NXB CTQG, 2001.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần khoá XI, H. NXB CTQG – Sự thật, 2011.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá XI, H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2012.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, H NXB Chính trị quốc gia, 2000, Tập 9.
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, H. NXB Chính trị quốc gia, 2000, Tập12.

ThS. Nguyễn Việt Hà
Học viện Chính trị – Bộ Quốc phòng