Miếng trầu nên dâu nhà người Thưa rằng

    Theo phong tục Việt Nam, miếng trầu tuy rẻ tiền nhưng chứa đựng nhiều tình cảm ý nghĩa, giàu nghèo ai cũng có thể có, vùng nào cũng có. Miếng trầu đi đôi với lời chào, người lịch sự không ăn trầu cách mặt nghĩa là đã tiếp thì tiếp cho khắp:

Tiện đây ăn một miếng trầu
Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là

      "Đầu trò tiếp khách" là trầu, ngày xưa ai mà chẳng có, hoạ chăng riêng Tú Xương mới "Bác đến chơi nhà ta với ta"     Quí nhau mời trầu, ghét nhau theo phép lịch sự cũng mời nhau ăn trầu nhưng "cau sáu ra thành mười".     Đặc biệt "trầu là đầu câu chuyện" giao duyên giữa đôi trai gái:

"Lân la điếu thuốc miếng trầu, đường ăn ở dễ chiều lòng bạn lứa".

- Trầu vàng nhá lẫn trầu xanh
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.

Mời trầu không ăn thì trách móc nhau:

- Đi đâu cho đổ mồ hôi Chiếu trải không ngồi trầu để không ăn. - Thưa rằng bác mẹ tôi răn

Làm thân con gái chớ ăn trầu người.

    Khi đã quen hơi bén tiếng, trai gái cũng mượn miếng trầu để tỏ tình, nhất là các chàng trai nhờ miếng trầu mà tán tỉnh:

- Từ ngày ăn phải miếng trầu Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu. - Một thương, hai nhớ, ba sầu

Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi.

    "Có trầu, có vỏ, không vôi" thì môi không thể nào đỏ được, chẳng khác gì "có chăn, có chiếu không người năm chung".

- Cho anh một miếng trầu vàng Mai sau anh trả cho nàng đôi mâm. - Yêu nhau chẳng lấy được nhau

Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già.

    Miếng trầu không đắt đỏ gì "ba đồng một mớ trầu cay" nhưng "miếng trầu nên dâu nhà người".     Ngày nay để răng trắng nhiều người không biết ăn trầu nữa, nhất là ở thành phố, nhưng theo tục lệ nhà ai có con gái gả chồng, sau khi ăn hỏi xong cũng đem cau trầu cau biếu hàng xóm và bà con nội ngoại. Vì miếng trầu là tục lệ, là tình cảm nên ăn được hay không cũng chẳng ai chối từ

    Thời xưa, ăn trầu còn sợ bị bỏ "bùa mê", "bùa yêu" nên người ta có thói quen:

- Ăn trầu thì mở trầu ra
Một là thuốc độc hai là mặn vôi.

    Các cụ càng già  càng nghiện trầu, nhưng không còn răng nên "đi đâu chỉ những cối cùng chày" [Nguyễn Khuyến]. Cối chày giã trầu làm bằng đồng, chỉ bỏ vừa miếng cau, miếng trầu, miếng vỏ nhưng trạm trổ rất công phu, ngày nay không còn thấy có trên thị trường nên các cụ quá phải nhở con cháu nhá hộ.

    Vì trầu cau là "đầu trò tiếp khách" lại là biểu tượng cho sự tôn kính, phổ biến dùng trong các lễ tế thần, tế gia tiên, lễ tang, lễ cưới, lễ thọ, lễ mừng... Nên têm trầu cũng đòi hỏi phải có mỹ thuật, nhất là lễ cưới có trầu têm cánh phượng có cau vỏ trổ hoa, "cau già dao sắc" thì ngon. Bày trầu trên đĩa, hạt cau phải sóng hàng, trầu vào giữa, đĩa trầu bày 5 miếng hoặc 10 miếng, khi đưa mời khách phải bưng hai tay. Tế gia tiên thì trầu têm, còn tế lễ thiên thần thì phải 3 là trầu phết một tí vôi trên ngọn lá và 3 quả cau để nguyên .

Theo phong tục Việt Nam, miếng trầu tuy rẻ tìên nhưng chứa đựng nhiều tình cảm ý nghĩa, giàu nghèo ai cúng có thể có, vùng nào cũng có. Miếng trầu đi đôi với lời chào, người lịch sự không “ăn trầu cách mặt” nghĩa là đã tiếp thì tiếp cho khắp. – Tiện đây ăn một miếng trầu

Hỡi rằng quê quán ở đâu chăng là

“Đầu trò tiếp khách” là trầu, ngày xưa ai mà chẳng có, họa chăng riêng có Tú Xương mời “Đầu trò tiếp khách trầu không có. Bác đến chơi nhà, ta với ta”. Quý nhau mời trầu, ghét nhau theo phép lịch sự cũng mời nhau ăn trầu nhưng “Cau sáu bổ ra thành mười”. Đặc biệt “Miếng trâu là đầu câu chuyện’ giao duyên giữa đôi trai gái: – “Lần la điều thốc miếng trầu, Đường ăn ở dễ chiều lòng bọn lứa” – Trầu vàng nhá lẫn cau xanh Duyên anh sánh với tình anh tuyệt vời. Mời trầu không ân thì trách móc nhau: – Đi đâu cho đổ mồ hôi Chiếu trải không ngối, trầu để khống ăn. – Thưa rằng bác mẹ tối răn Làm thân con gái chớ ăn trầu người. Khi đã quen hới bén tìếng, trai gái cũng mượn miếng trâu để tở tình, nhất là các chàng trai nhờ miếng trầu mà tán tỉnh: – Từ ngày ăn phải mỉếng trầu Miệng ăn môi đỏ da sầu đăm chiêu. – Một thương, hai nhớ, ba sầu Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi. “Có trầu, có vở, không vôi “thì môi không thể nào đỏ được, chẳng khác gì “Có chăn, có chiếu, không người nằm chung”. – Cho anh một miếng trầu vàng Mai sau anh trả lại nàng đối mâm. – Yêu nhau chẳng lấy được nhau

Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già,

Miếng trầu không đắt đỏ gì “Ba đông một mớ trầu cay”… nhưng ”Miếng trầu nên dâu nhà người”. Ngày nay, để răng trắng, nhiều người không biết ăn trầu nữa, nhất là ở thành phố nhưng theo tục lệ nhà ai có con gái gả chồng, sau khi ăn hỏi xong cũng đem cau trầu biếu hàng xóm và bà con nội ngoại. Vì miếng trầu là tục lệ, là tình cảm nên dẫu ăn được hay không cũng chẳng ai chối từ: Thời xưa, ăn trầu còn sợ bị bó “Bùa mê”, “Bùa yêu” nên người ta có thói quen: Ăn trầu thì mở trầu ra là thuốc độc hai là mặn vôi. Các cụ các già, càng nghiện trầu, nhưng không còn răng nên “Đi đâu chỉ những cối cùng chày” [Nguyễn Khuyến]. Cối chày giá trâu làm bằng đồng, chỉ bỏ vừa miếng cau, miếng trầu, miếng vở nhưng chạm trổ rất công phu, ngày nay không còn thấy cổ trên thị trường nên các cụ quá già phải nhờ con cháu nhá hộ. Vì trâu cau là “Đầu trò tiếp khách” lại là biểu tượng cho sự tôn kính, phổ biến dùng trong các lễ tế thần, tế gia tìến, lễ tang, lễ cưới, lễ thọ, lễ mừng… Nêm têm trầu cũng đòi hỏi phải có mỹ thuật, nhất là lễ cưới cố trâu têm cánh phượng có cau róc trổ hoa, “Cau già dao sắc ngon. Bày trên đĩa, hạt cau phóng sổng hàng, chầu vào giữa, đĩa trầu bà.y 5 miếng hoặc 10 miếng, -khi đưa mời khách phải bưng hai tay. Tế gia tiên thì trầu tìêm, có tế lễ thiên thần thì phải lá trầu phết một tí vôi trên ngọn Lá và 3 quả cau để nguyên.Theo phong tục Việt Nam, miếng trầu tuy rẻ tìên nhưng chứa đựng nhiều tình cảm ý nghĩa, giàu nghèo ai cúng có thể có, vùng nào cũng có. Miếng trầu đi đôi với lời chào, người lịch sự không “ăn trầu cách mặt” nghĩa là đã tiếp thì tiếp cho khắp. – Tìện đây ăn một miếng trầu Hỡi rằng quê quán ở đâu chăng là “Đầu trò tiếp khách” là trầu, ngày xưa ai mà chẳng có, họa chăng riêng có Tú Xương mời “Đầu trò tiếp khách trầu không có. Bác đến chơi nhà, ta với ta”. Quý nhau mời trầu, ghét nhau theo phép lịch sự cũng mời nhau ăn truâuf nhưng “Cau sáu bổ ra thành mười”. Đặc biệt “Miếng trâu là đầu câu chuyện’ giao duyên giữa đôi trai gái: – “Lần la điều thốc miếng trầu, Đường ăn ở dễ chiều lòng bọn lứa” – Trầu vàng nhá lẫn cau xanh Duyên anh sánh với tình anh tuyệt vời. Mời trầu không ân thì trách móc nhau: – Đi đâu cho đổ mồ hôi Chiếu trải không ngối, trầu để khống ăn. – Thưa rằng bác mẹ tối răn Làm thân con gái chớ ăn trầu người. Khi đã quen hới bén tìếng, trai gái cũng mượn miếng trâu để tở tình, nhất là các chàng trai nhờ miếng trầu mà tán tỉnh: – Từ ngày ăn phải mỉếng trầu Miệng ăn môi đỏ da sầu đăm chiêu. – Một thương, hai nhớ, ba sầu Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi. “Có trầu, có vở, không vôi “thì môi không thể nào đỏ được, chẳng khác gì “Có chăn, có chiếu, không người nằm chung”. – Cho anh một miếng trầu vàng Mai sau anh trả lại nàng đối mâm. – Yêu nhau chẳng lấy được nhau Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già, Miếng trầu không đắt đỏ gì “Ba đông một mớ trầu cay”… nhưng ”Miếng trầu nên dâu nhà người”. Ngày nay, để răng trắng, nhiều người không biết ăn trầu nữa, nhất là ở thành phố nhưng theo tục lệ nhà ai có con gái gả chồng, sau khi ăn hỏi xong cũng đem cau trầu biếu hàng xóm và bà con nội ngoại. Vì miếng trầu là tục lệ, là tình cảm nên dẫu ăn được hay không cũng chẳng ai chối từ: Thời xưa, ăn trầu còn sợ bị bó “Bùa mê”, “Bùa yêu” nên người ta có thói quen: Ăn trầu thì mở trầu ra là thuốc độc hai là mặn vôi. Các cụ các già, càng nghiện trầu, nhưng không còn răng nên “Đi đâu chỉ những cối cùng chày” [Nguyễn Khuyến]. Cối chày giá trâu làm bằng đồng, chỉ bỏ vừa miếng cau, miếng trầu, miếng vở nhưng chạm trổ rất công phu, ngày nay không còn thấy cổ trên thị trường nên các cụ quá già phải nhờ con cháu nhá hộ.

Vì trâu cau là “Đầu trò tiếp khách” lại là biểu tượng cho sự tôn kính, phổ biến dùng trong các lễ tế thần, tế gia tìến, lễ tang, lễ cưới, lễ thọ, lễ mừng… Nêm têm trầu cũng đòi hỏi phải có mỹ thuật, nhất là lễ cưới cố trâu têm cánh phượng có cau róc trổ hoa, “Cau già dao sắc ngon. Bày trên đĩa, hạt cau phóng sổng hàng, chầu vào giữa, đĩa trầu bà.y 5 miếng hoặc 10 miếng, -khi đưa mời khách phải bưng hai tay. Tế gia tiên thì trầu tìêm, có tế lễ thiên thần thì phải lá trầu phết một tí vôi trên ngọn Lá và 3 quả cau để nguyên.

"Gặp nhau ăn một miếng trầu
Gọi là chút nghĩa về sau mà chào"

Không biết tự bao giờ, trầu cau đã trở thành một phần trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt. Lá trầu- buồng cau không chỉ là "tín vật", biểu tượng của hạnh phúc lứa đôi mà sâu xa hơn, đã trở thành vật phẩm thiêng liêng, lễ nghi truyền thống của dân tộc.

Nhân dịp Bảo tàng TP Cần Thơ đang trưng bày chuyên đề "Phong tục ăn trầu của người Việt", Báo Cần Thơ xin giới thiệu bài viết khái quát đôi nét về quan niệm trầu cau của người Nam bộ.

* "Miếng trầu là đầu câu chuyện"

Truyện "Sự tích Trầu cau" có từ thời đại Hùng Vương được lưu truyền đến tận hôm nay như một biểu tượng cho lòng trinh trắng, thanh bạch, vẹn đạo vợ chồng, trọn nghĩa đệ huynh. Để từ đó, hình ảnh trầu xanh, cau trắng, vôi nồng gắn kết với nhau, ăn sâu trong tâm thức người Việt. Căn cứ vào sự tích này, giới nghiên cứu cho rằng, tục ăn trầu đã có từ thời Hùng Vương. Một căn cứ khác để khẳng định điều đó là truyện cổ tích "Tấm Cám". Trong hành trình chạy thoát kiếp nạn của mình, cô Tấm đã được bà cụ dạy têm trầu hình cánh phượng mời vua ngự thiện. Chính miếng trầu được têm khéo léo, sắc sảo đã giúp cô Tấm tìm lại ngôi vị hoàng hậu của mình.

Ngày xưa, người trung niên và lớn tuổi ở Nam bộ phần lớn đều ăn trầu. Khách đến nhà, việc đầu tiên là phải mời trầu, trước cả nước uống, bánh trái như bây giờ. Miếng trầu cay nồng, quyện đỏ, luôn làm cho khách và chủ gần nhau, dễ thông cảm, sẻ chia hơn. Mời trầu còn là "cái cớ" để kết thân, làm quen:

"Tiện đây ăn một miếng trầu

Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là?"

Hay:

"Xưa kia ai biết ai đâu,
Chỉ vì điếu thuốc, miếng trầu nên quen"

Mời trầu cũng là cách để chàng trai tỏ tình với cô gái bằng những từ ngữ thật dễ thương, ý vị:

"Trầu ăn là nghĩa, thuốc xỉa là tình,
Ðội ơn cha mẹ sinh mình dễ thương"

Hay:

"Trầu lên nửa nọc trầu vàng
Khéo khen phụ mẫu sinh nàng dễ thương"

Thế nhưng, theo tục lệ xưa, người con gái đã xác định "thương thầm trong bụng" chàng trai nào mới chấp nhận ăn miếng trầu do họ mời, cầm bằng không thì thẳng thừng từ chối. Bởi lẽ:

"Thưa rằng bác mẹ em răn

Làm thân con gái chớ ăn trầu người"

Ăn trầu - phong tục văn hóa của người Việt.

Có lẽ với nhiều người, hình ảnh người bà ngồi kẽo kẹt trên chiếc võng mắc ở hàng ba, ngoáy trầu nhai bỏm bẻm là hình ảnh rất đỗi thân quen. "Bộ đồ nghề" của các cụ thường gồm cơi đựng trầu [hoặc khay trầu], bình vôi, chìa vôi, dao cau, ống ngoáy, hộp thuốc xỉa, dĩa đựng trầu cau và ống nhổ. Khi "đi xóm một chút"- từng dùng của người Nam bộ chỉ việc ra khỏi nhà để giải quyết công việc- các cụ thường cầm theo giỏ xách đựng lủ khủ vật dụng ăn trầu như vật bất ly thân.

Tuổi thơ tôi cũng từng ấn tượng với hình ảnh bà nội ngồi ăn trầu như thế. Nọc trầu sau nhà luôn xanh tốt vì nội thường vun vén, tưới nước hằng ngày. Nọc trầu là tài sản mà nội trân quý lúc cuối đời. Còn nhớ, nhiều lúc nội thường dạy mẹ tôi têm trầu thật tỉ mỉ. Nội cầm dao bén, cẩn thật gọt vỏ cau [nhưng chỉ khoảng 1/3, chừa lớp vỏ trắng] rồi tỉa chũm ra như một bông hoa 6 cánh đều đặn. Nội dạy, muốn têm trầu cánh phượng, người ta xếp lá trầu làm hai theo chiều dọc, dùng dao cắt từ mép lá đến sóng lá trầu theo chiều xéo, cách cuống khoảng 1 lóng tay, rồi phết vôi, bỏ cau ở giữa, cuộn tròn lại rồi dùng cuống lá ghim cho thật chặt. Hai rẻo lá được cắt từ ban đầu cong vểnh lên như cánh con chim phượng. Bà nội còn có "tuyệt chiêu" têm trầu hình cánh kiến rất lạ. Cũng như têm hình cánh phượng, thay vì rọc một đường thì bà nội rọc nhiều đường rồi cuộn lại, những rẻo lá ấy bung ra giống những cánh kiến xòe ra.

Bà nội tôi rất kỹ tính khi ăn trầu, mỗi miếng trầu đều têm rất đẹp, nhất là khi mời khách. Nội nói, hồi xưa, nhìn cách têm trầu, có thể đánh giá phần nào tính nết của những cô gái mới lớn. Miếng trầu têm vụng về là người không khéo tay, lượm thượm. Lá trầu nhỏ, miếng cau lớn là người không biết tính toán làm ăn. Quệt nhiều vôi vào miếng trầu là người thiển cận, không biết lo xa... Trong "Việt Nam phong tục" của Phan Kế Bính ghi nhận, ngày xưa, nhiều hội làng còn tổ chức cuộc thi têm trầu, bổ cau… để ghi nhận nếp khéo léo của người phụ nữ. Ca dao xưa nói về độ khéo léo của việc chẻ cau ăn trầu:

"Cau già, dao sắc lại non

Nạ dòng trang điểm lại giòn hơn xưa"

* Miếng trầu là nghĩa là nhân

Trong cuốn "Thuần phong mỹ tục Việt Nam", nhà nghiên cứu Sơn Nam ghi nhận, trong khay trầu ngày cưới phải chuẩn bị: "Trầu thì têm sẵn 4 miếng, 4 miếng cau kèm theo dính vào nhau, không cắt rời. Ngày nay, vẫn tuân thủ mấy miếng trầu, tuy chẳng còn ai ăn, nhưng là nét bảo lưu bất di bất dịch…". Cũng theo nhà văn Sơn Nam, buổi chiều của ngày rước dâu, đôi tân hôn chuẩn bị nhang đèn, 12 miếng trầu đã têm sẵn rồi nhờ bậc cao niên khấn nguyện để tạ ơn ông Tơ bà Nguyệt đã kết tình phu phụ. Một số lời khấn tạ như sau: "Duyên Tấn- Tần, loan phụng hòa minh; nhịp cầu Ô Thước, lá thắm đề thơ…".

Trong suốt một cuộc hỏi vợ cho con, từ lúc ăn hỏi, nạp tài, đám nói, đám cưới, phản bái… đều không thể không có khay trầu, nhưng hai mâm trầu trọng đại nhất là đám nói và đám cưới. Ở Nam bộ xưa, mâm trầu cau thường gồm có 8 xấp, mỗi xấp 8 lá, tổng cộng có 64 lá – tượng trưng cho 64 quẻ trong Kinh Dịch, chính giữa có 2 quày cau. Mâm trầu cau phải phủ khăn điều, đặt trong kiệu do 4 người khiêng, gọi là mâm trầu khiêng. Bây giờ, mâm trầu vẫn thường có 8 xấp, nhưng 2 quày cau được đơn giản bằng 8,10,12… đôi cau [buộc phải là số chẵn], được đậy lại bằng lồng giấy ngũ sắc, tạo hình búp sen, gọi là trầu trệt.

Ở vùng Cà Mau, Bạc Liêu, nghi thức giở mâm trầu ngày cưới rất hay. Khi chú rể bưng mâm trầu trang trọng đặt trên chiếc bàn giữa nhà, ông trưởng tộc đàng trai sẽ trình lễ và xin ý kiến đàng gái về việc giở mâm trầu. Theo đó, ông trưởng tộc sẽ nêu 3 cách giở: giở tối, giở sáng và 3 ngày giở. Giở tối có nghĩa là vào phòng kín hoặc trùm mềm để giở [quan niệm mâm trầu tượng trưng cho vạn vật]. Giở sáng là giở ngay trên bàn giữa, trước sự chứng kiến của quan viên hai họ. 3 ngày giở là cứ để mâm trầu trên bàn, 3 ngày sau "phản bái", chú rể mới giở. Tục lệ ấy đến giờ vẫn còn nhưng giở sáng vẫn là phương án tuyệt đại đa số đàng gái chọn bởi sự tiện lợi, không câu nệ. Sau khi giở mâm trầu, đôi tân hôn sẽ bóc trầu cau [buộc mỗi thứ đều phải số chẵn – quan niệm "có đôi có cặp"] để dâng cúng ông bà quá cố và ông bà sanh tiền. Dân xứ Bạc Liêu còn quan niệm, ai lấy trầu cau bỏ vào dĩa trước sẽ là người làm chủ gia đình vì vậy, cha mẹ hai bên đều "dặn nhỏ" con mình cố lấy trước để… chiếm "thế thượng phong". Thực hư chẳng ai chứng minh nhưng âu đó cũng là niềm tin vào một đại lễ đời người.

Trầu cau là một thứ đầu các sự lễ nghĩa. Phàm việc tế tự, tang ma, việc cưới xin, việc vui mừng, việc gì cũng lấy miếng trầu làm trọng…
[trích “Việt Nam phong tục” của học giả Phan Kế Bính]

Theo học giả Phan Kế Bính, không chỉ cưới hỏi, mà trầu cau còn có mặt trong các nghi lễ trọng đại như thôi nôi, đầy tháng em bé; cúng giỗ tổ tiên; vào cửa quan… Ông thuật lại rằng: "Trong việc tế tự thường khi dùng cả buồng cau để lễ, cưới xin nhà gái thường ăn của nhà trai vài ba ngàn quả, để chia phần cho bà con. Dân thôn ai có việc gì đến nhà người tôn trưởng, hoặc vào cửa quan, cũng đem buồng cau vào là quý". Thật vậy, ở vùng Cần Thơ, Sóc Trăng xuống miệt Bạc Liêu, đám thôi nôi đầy tháng, vẫn thường có dĩa trầu cau têm sẵn dùng "cúng mụ". Đám giỗ có vài miếng trầu têm sẵn như vật phẩm linh thiêng tưởng nhớ tổ tiên. Đặc biệt, ở các miếu, miễu, chùa Bà [tín ngưỡng thờ Mẫu] nhất thiết phải có cúng lễ vật trầu cau.

***

Giữa xã hội hiện đại, hình ảnh những bà lão đưa võng, móm mém nhai trầu đã không còn nhiều. Nhưng mâm trầu trong ngày cưới thì vẫn được lưu giữ như một lễ vật thiêng liêng, thành kính. Nhìn miếng trầu têm hình cánh phượng trong khay hộp nghiêm cẩn, người già như tìm được niềm vui trong cuộc chuyện trò; người trẻ vun bồi niềm tin về hạnh phúc lứa đôi. Cứ thế, trầu cau mãi là một phần trong cốt cách của người Việt, xưa và nay…

Video liên quan

Chủ Đề