Nguyễn mạnh quang là ai

Thông tin tiểu sử/ profile và ảnh của ca sĩ Nguyễn Mạnh Quang được cập nhật liên tục tại tainhaccho.net.Nếu bạn thấy thông tin tiểu sử hoặc ảnh ca sĩ Nguyễn Mạnh Quang không chính xác hoặc thiếu, bạn có thể đóng góp bổ sung, gửi lời bình hoặc liên hệ với ban quản trị website.Để xem danh sách nhạc chờ theo ca sĩ Nguyễn Mạnh Quang và theo mạng diện thoại của bạn từ danh mục bên trái. Chú ý: danh sách chỉ bao gồm nhạc chờ của riêng ca sĩ Nguyễn Mạnh Quang, nếu bạn muốn tìm nhạc chờ của ca sĩ Nguyễn Mạnh Quang hát cùng với các ca sĩ khác, vui lòng sử dụng công cụ tìm kiếm phía trên và nhập vào tên ca sĩ ["Nguyễn Mạnh Quang"]

Bạn có thể tìm kiếm trang này bằng các từ khóa sau:

Tiểu sử Nguyễn Mạnh Quang, thông tin tiểu sử Nguyễn Mạnh Quang, profile Nguyễn Mạnh Quang, lý lịch Nguyễn Mạnh Quang, ảnh Nguyễn Mạnh Quang, lí lịch Nguyễn Mạnh QuangTiểu sử ca sĩ Nguyễn Mạnh Quang, thông tin tiểu sử ban nhạc Nguyễn Mạnh Quang, profile band Nguyễn Mạnh Quang, lý lịch ca sĩ Nguyễn Mạnh Quang, ảnh ban nhạc Nguyễn Mạnh Quang, lí lịch ca sĩ Nguyễn Mạnh QuangTieu su Nguyen Manh Quang, thong tin tieu su Nguyen Manh Quang, profile Nguyen Manh Quang, ly lich Nguyen Manh Quang, anh Nguyen Manh Quang, li lich Nguyen Manh QuangTieu su ca si Nguyen Manh Quang, thong tin tieu su ban nhac Nguyen Manh Quang, profile band Nguyen Manh Quang, ly lich ca si Nguyen Manh Quang, anh ban nhac Nguyen Manh Quang, li lich ca si Nguyen Manh Quang

Giáo Sư Nguyễn Mạnh Quang :

Nạn Nhân Của Nền Đạo Lý Thiên La - Đắc Lộ


Trần Chung Ngọc

LTS: Qua những lần trao đổi với tòa soạn sachhiem.net, tác giả Nguyễn Mạnh Quang vẫn thường nói "Sự thật và tình dân tộc bao giờ cũng tự nó sẽ đứng vững". Người viết sử, theo ông, cần trung thành với sự thật, tìm tòi thật nhiều nguồn tài liệu từ mọi phía để lấy cái cốt lõi của vấn đề, biết khiêm nhượng và can đảm để chấp nhận sự thật, và nói lên những sự thật mà các thế lực bên ngoài bưng bít vì quyền lợi của họ trong quá khứ hay tương lai. Một đời người không đủ dài để làm được những việc đó, thì làm sao có thể mất thì giờ vướng bận vào mối hận thù trong một giai đoạn chính trị hệ quả của nhiều năm đất nước bị chia cắt. Do đó đối với những bài viết đầy ý kiến cá nhân, chỉ nhằm hạ nhục cá nhân tác giả mà không đóng góp được một sự kiện lịch sử giá trị nào, tác giả Nguyễn Mạnh Quang thường không để ý. Khi đã xác định con đường như thế, thì các khổ nạn như bị nhục mạ, mai mỉa, cô lập, đe dọa hay gì gì nữa, do công việc đó mang lại chẳng những không làm nhục chí, trái lại chỉ giúp năng lượng cho tác giả mà thôi.

Nhân có bài của Giáo Sư Trần Chung Ngọc, tác giả Nguyễn Mạnh Quang cũng muốn nhắn vài lời với những ai đưa ra các lời thách đố, đòi đấu khẩu, hẹn tại một địa điểm nào đó, câu trả lời như sau:
"Đó là kiểu anh chị, kiểu giang hồ hẹn thách đấu kiếm. Với cung cách như thế thì mong gì các bạn có thể tạo được một diễn đàn lành mạnh, công bằng, có khán giả đại chúng, không phải chỉ là những phe cánh của các bạn, để có thể đối thoại với chúng tôi một cách có văn hóa! Vả lại, các phương tiện truyền thông dồi dào của các bạn từ xưa nay đã là những nơi lý tưởng để các bạn đối thoại với sự tham khảo tài liệu thoải mái và tự do [như những cuộc thi open book exams ở các đại học Mỹ] trước khi viết bài. Đã có sẵn nhiều cơ hội cho các cuộc thi viết mở sách như thế mà các bạn vẫn chưa có lòng tự tin thì làm sao có thể dự thi 'vấn đáp', 'đấu khẩu', nơi không có tài liệu trước mặt? Do đó, việc mời đối thoại của các bạn chẳng phải là chuyện tiếu lâm hay sao?" [SH]

Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang là người phát minh ra cụm từ “Đạo Lý Thiên La – Đắc Lộ” để  chỉ những ảnh hưởng tai hại của Thiên Chúa Giáo La Mã [Thiên-La], [một tổ chức buôn thần bán thánh và có một lịch sử tàn bạo đẫm máu nhất thế gian], mà giáo sĩ Alexandre de Rhodes [Đắc-Lộ] [một tên thừa sai gián điệp bịp bợm, xin đọc bài Di Hại Của Nền Đạo Lý Thiên La – Đắc Lộ trên www.sachhiem.net/TCN/TCNls/TCNls01.php] đã mang đến đầu độc đầu óc lớp người dân thấp kém nhất trong xã hội Việt Nam, với định nghĩa: "Sự tổng hợp của sách lược truyền đạo tàn bạo, cường quyền thắng công lý, của giáo hội Công giáo và sự cuồng tín, gian manh, xuyên tạc, cùng cách dùng ngôn từ hạ cấp của giáo sĩ Đắc Lộ [Alexandre de Rhodes]." Giáo sư Quang tưởng mình đưa ra một nhận định đúng với lịch sử để giúp người dân Việt Nam hiểu biết về đạo Công giáo, nhưng không ngờ là mình lại trở thành nạn nhân của những con chiên đã thấm nhuần nền đạo lý này. Một trường hợp điển hình mà tôi tình cờ biết được là như sau.

Không hiểu sao một bài viết của "Thuy Dang" phê bình bài NGÔ ĐÌNH DIỆM: CON NGƯỜI VÀ TỘI ÁC [//sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH63_1a.php] của Giáo sư Sử Nguyễn Mạnh Quang lại lọt vào một E-mail cũ của tôi. Sở dĩ tôi không dùng địa chỉ E-mail này nữa vì người ta đã ăn cắp địa chỉ đó, không biết lấy từ đâu, rồi cho vào danh sách gửi của những cá nhân, nhóm chính trị, nhóm chửi bậy v…v… mà tôi không hề biết và không hề tham gia, cho nên trong đó tuyệt đại đa số là junk, làm tôi mất công phải sử dụng “Vũ Khí Giết E-mail Hàng Loạt” [WMD = Weapon of Mass Deletion], nghĩa là click vào cái message đầu, rồi Shift+click vào cái cuối và delete cùng lúc một loạt các junk, có khi cả chục, có khi cả trăm...Đã mấy năm nay tôi dùng địa chỉ E-mail khác nên tránh được cái nạn nhận được rác rưởi hàng ngày. Tuy nhiên, lâu lâu tôi cũng ghé qua E-mail cũ một lần và thường thì chỉ lướt qua xem còn ai quen cũ trong đó.

Lần này vì nhác thấy tên ông bạn Nguyễn Mạnh Quang trong một message nên tò mò đọc xem cho biết. Thấy rằng, trong bài này, con chiên Thuy Dang đã dùng một số từ ngữ đặc thù của một con chiên Da-tô trong một bài phê bình trí thức về lịch sử. Chuyện chẳng lạ, vì các con chiên thường mang những thuộc tính của chính mình, nghĩa là của con người trở thành con chiên, như cuồng tính, đần đần, “rú” lên, “hàm hồ”, “vô học”, quá “đần”, viết “láo”, “bịa đặt”, “bợm”,... để thỏa mãn cái “ma tâm” của mình, để chụp lên đầu người khác với mục đích “ám sát tư cách cá nhân” [character assassination]. Nhưng vì sự hiểu biết quá kém về sử của Thuy Dang, so với kiến thức về sử của một giáo sư dạy sử như giáo sư Quang, cho nên những từ ngữ trên, tưởng rằng có thể hạ uy tín của đối phương, không ngờ lại quật ngược lại chính mình. Điều này chúng ta thấy rõ trong bài Thuy Dang phê bình giáo sư Nguyễn Mạnh Quang.

Chúng ta hãy đọc vài đoạn của Thuy Dang phê bình giáo sư Nguyễn Mạnh Quang mà tôi cho rằng giáo sư Quang có lẽ không hề đọc đến, và nếu có đọc thì chắc giáo sư Quang cũng không trả lời trước những lý luận quá kém của Thuy Dang. Nhưng đọc Thuy Dang tôi thấy ngứa mắt vì rõ ràng là Thuy Dang mang cái dốt của mình chụp lên đầu giáo sư Quang rồi dựa vào đó “phê bình” giáo sư Quang bằng một loạt những từ có tính cách mạ lỵ cá nhân. Đây hầu như là một mẫu mực của những con chiên trong sách lược “đối thọi” thay vì “đối thoại”, nghĩa là vu khống để gây thù hận, một sách lược còn lại của giáo hội ngày nay khi mà những thanh gươm và bó củi đã bị tước khỏi những bàn tay đẫm máu của giáo hội [Xin đọc “False Claims” của John Remsburg]. Vậy tôi lại phải viết bài phê bình này, hi vọng những con chiên Da-tô cẩn thận hơn khi viết về những điều mà mình không nắm vững. Chúng ta hãy đọc những đoạn sau đây của Thuy Dang để có thể đánh giá đúng tư cách con chiên của Thuy Dang cùng kiến thức của Thuy Đang, nếu có thể gọi là kiến thức:

►[Trích Thuy Dang] Mời anh Nguyễn mạnh Quang xem lại lời anh đã viết:

“3.- Ngày 30/11/1961, Diệm đã hí hửng và hồ hởi đồng loã với quân đội Mỹ trong việc sử dụng chất độc da cam rải xuống đồng ruộng và rừng cây trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam. ….. [Nguyễn mạnh Quang viết – bài kèm dưới]”

Đúng là “Học nhi bất tư tắc võng [học mà không suy nghĩ thì mờ tối]”. Anh Quang à, anh nghĩ độc giả là ai? Không lý chỉ là Trần Chung Ngọc, Trần Tiến Long, Trần Quang Diệu…những người không có lý trí, cuồng tính, hàm hồ, đần đần.. như anh [Quang] [Hết Trích]

☞ TCN: Cho Thuy Dang biết, đọc giả của Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang là những con người có đầu óc, lương thiện trí thức, có hiểu biết, có kiến thức về sử như nó đúng là như vậy, chứ không phải là những con chiên kém hiểu biết và kiến thức về sử không thể gọi là kiến thức như của Thuy Dang, không biết làm gì hơn là xuyên tạc lịch sử để chạy tội ác cho Ngô Đình Diệm, cùng lúc dùng những danh từ hạ cấp để mạ lỵ tư cách cá nhân của người mình muốn phê bình. Tôi sẽ chứng minh điều này trong những phần sau.

► [Trích Thuy Dang] Và mời anh Quang xem “thiên hạ” viết gì về “chất độc da cam”. Trích đoạn từ link: //vi.wikipedia.org/wiki/Chất_độc_da_cam:

“….Chất độc da cam [viết tắt: CĐDC, tiếng Anh: Agent Orange - Tác nhân da cam] là tên gọi của một loại chất thuốc diệt cỏ và làm rụng lá cây được quân đội Hoa Kỳ sử dụng tại Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chất này đã được dùng trong những năm từ 1961 đến 1971 và nhiều người cho rằng đã làm tổn thương sức khỏe của những người dân thường cũng như binh lính Việt Nam, lính Mỹ cũng như lính Úc, Hàn Quốc, Canada, New Zealand có mặt như quân đồng minh của Mỹ mà có tiếp xúc với chất này, cũng như con cháu họ.

Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, mục đích quân sự chính thức của CĐDC là làm rụng lá cây rừng để quân đội du kích Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam không còn nơi trốn tránh. CĐDC là một chất lỏng trong; tên của nó được lấy từ màu của những sọc được vẽ trên các thùng phuy dùng để vận chuyển nó……”

Vậy tôi có ba điểm cần cân nhắc [sic] với anh Quang :

Điểm 1- Mục đính rải CĐDC là làm rụng lá cây rừng  để Việt Công “không nơi ẩn nấp”.Sao anh Nguyễn Mạnh Quang “rú” lên là “rải xuống đồng ruộng”.[Hết Trích]

☞ TCN: Tôi có cảm tưởng là Thuy Dang không đủ khả năng để tìm hiểu những thông tin bằng ngoại ngữ về Agent Orange tràn ngập trên Internet và sách vở, nên Thuy Dang chỉ có thể lấy tài liệu của một website tiếng Việt ít có giá trị về phương diện trí thức và học thuật. Thuy Dang đưa ra tài liệu thiếu sót của vi.wikipedia.org, một website của người Việt mà những thông tin trong đó về Việt Nam thường là một chiều, không đầy đủ, bỏ đi những điều thấy không có lợi cho chính quyền miền Nam. Người Việt hải ngoại có đôi chút hiểu biết đã biết giá trị của những website của người Việt như vi.wikipedia.org hay BBC Việt v…v… ra sao rồi. Những luận điệu của Thuy Dang đưa ra để phản bác Giáo sư Quang chứng tỏ là mục đích của Thuy Dang không phải là đối thoại trí thức, mà chỉ dùng những từ ngữ mà hiếm khi thấy trong một bài đối thoại hay phê bình trí thức với hi vọng có thể hạ thấp giáo sư Quang vì giáo sư Quang đã đụng đến tội ác của Ngô Đình Diệm và tội ác của quan thầy Mỹ mà những người Da-tô nhờ đó đã một thời được làm vương làm tướng ở Nam Việt Nam. Vì những gì Thuy Dang viết đều chứng tỏ là chẳng biết gì về lịch sử cuộc chiến ở Việt Nam, và đều bắt nguồn từ những thông tin mà Thuy Dang đọc từ một website của người Việt mà ai cũng biết lập trường chính trị của những người chủ trương là như thế nào.

Tài liệu về Agent Orange trên Internet có rất nhiều, và có những thông tin mới nhất về sự tác hại AO. Tôi chọn //en.wikipedia.org/ để đối chiếu với website duy nhất của người Việt mà Thuy Dang dùng làm tài liệu. //en.wikipedia.org/wiki/Agent_Orange có đầy đủ chi tiết và rõ ràng hơn tài liệu trong website //vi.wikipedia.org/ gấp bội, tuy không hoàn toàn nhưng có thể coi là tạm đủ về những chi tiết quan trọng về “Chất Độc Da Cam” [Agent Orange], đọc giả có thể kiểm chứng điều này bằng cách vào hai website trên đọc và so sánh, sẽ thấy thông tin về “Chất Độc Da Cam” trong //vi.wikipedia.org/ của Thuy Dang nghèo nàn và sai sót như thế nào. Sau đây là một đoạn ngắn trong //en.wikipedia.org/wiki/Agent_Orange, một bài rất dài với nhiều chi tiết:

Trong cuộc chiến Việt Nam, trong khoảng từ 1962 và 1971, Quân đội Mỹ đã trải gần 75,700,000 Lít chất hóa học trừ sâu và khai quang ở Việt Nam, miền Đông nước Lào và một số nơi ở Cambod, trong chiến dịch Ranch Hand. Mục đích của kế hoạch là khai quang rừng rú và đất đồng quê, để cho quân du kích không có chỗ ẩn núp, một mục đích khác là làm cho người dân miền quê bắt buộc phải di dân vào nơi thành thị: phá hủy khả năng sinh tồn của nông dân ở miền quê, [nghĩa là hủy diệt nguồn lương thực của người dân mà phần lớn không phải là quân đội của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. TCN] và bắt buộc họ phải chạy về những thị trấn mà Mỹ chế ngự, do đó làm cho những du kích quân không còn sự ủng hộ và lương thực ở miền quê.

Mỹ bắt đầu nhắm vào các hoa mầu nông nghiệp vào tháng 10, 1961, dùng chất độc màu xanh da trời. Năm 1965, 42 % chất độc được trải lên những miền trồng trọt nông phẩm.

Binh sĩ được bảo rằng họ hủy diệt mùa màng [gồm ngũ cốc, hoa quả v…v…] vì đó là những thứ để nuôi quân du kích. Về sau các binh sĩ khám phá ra rằng hầu như mọi thực phẩm mà họ hủy diệt không phải là sản xuất cho quân du kích; trong thực tế, đó là để cho dân chúng địa phương. [nghĩa là gồm các ông già, bà cả, phụ nữ và trẻ con. TCN] Thí dụ, trong tỉnh Quảng Ngãi, 85% đất đai trồng trọt bị phá hủy nguyên trong năm 1970. Kết quả là nạn đói xẩy ra khắp nơi, làm cho hàng trăm ngàn người bị thiếu dinh dưỡng hay chết đói. [1] [Những thông tin này không hề có trong //vi.wikipedia.org/ mà Thuy Dang dùng làm tài liệu. TCN]

Như vậy, chúng ta thấy, không phải là giáo sư Nguyễn Mạnh Quang mà là chính Thuy Dang đã “rú lên từ cái đầu mờ tối, hàm hồ” [mượn từ của Thuy Dang] của mình những tiếng nói chứng tỏ mình chỉ viết bậy.

Giáo sư Quang viết không hề sai, không những thế còn làm nhẹ tội ác ngập thiên đường, ngập hỏa ngục, của Ngô Đình Diệm đối với nhân dân miền Nam khi viết là “Diệm đã hí hửng và hồ hởi đồng loã với quân đội Mỹ trong việc sử dụng chất độc da cam rải xuống đồng ruộng và rừng cây trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam.” hàm ý Mỹ là thủ phạm chính, Diệm chỉ là đồng lõa. Nhưng thật ra thì Diệm, với ác tâm của một Phán Quan Da-tô Tây Ban Nha [Spanish Inquisitor], mới chính là người đưa ra chủ trương trải chất độc khai quang lên đồng ruộng và những nơi trồng trọt mùa màng hoa màu ngũ cốc của người dân miền Nam, thi hành chính sách diệt chủng ở những nơi mà Diệm không kiểm soát được. Vậy đúng ra thì giáo sư Quang phải viết: “ Quân đội Mỹ đã đồng lõa với Diệm trong chủ trương sử dụng chất độc da cam để rải xuống đồng ruộng và rừng cây ….”

Nhưng tại sao tôi lại dám nói là chính Ngô Đình Diệm đã là người chủ trương trải thuốc độc lên đồng ruộng miền Nam, đúng như giáo sư Quang đã viết. Tài liệu sau đây sẽ chứng minh.

Trong cuốn “Chemical & Biological Warfare: America’s Hidden Arsenal”, Anchor Books, New York, 1969, tác giả Seymour M. Hersh viết trong Chương 6, “Chiến tranh Hóa học và Sinh học ở Việt Nam” [CBW Combat: Vietnam] như sau:

Vào cuối năm 1961, một viên chức cao cấp của Bộ Quốc Phòng Mỹ lần đầu tiên tới Nam Việt Nam. Chương trình khai quang, nhắm vào phá hủy rừng rậm dùng làm nơi trú ẩn của Việt Cộng, đã bắt đầu từ tháng 10, và viên chức này muốn đích thân đến thị sát kết quả. Sau đó ông ta thuyết trình cho Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Viên chức trên nhớ: Diệm “lấy ra một bản đồ lớn và bắt đầu chỉ cho tôi biết là Việt Cộng đã kiểm soát bao nhiêu phần đất ở miền Nam. Về sau tôi biết rằng đó là mẫu mực thuyết trình của Diệm cho tất cả các viên chức đến thăm Việt Nam”

Quan điểm của Diệm là dùng thuốc khai quang để cho kẻ thù không còn nơi trú ẩn thì hay và tốt, nhưng để có sự hữu hiệu thực sự thì thuốc khai quang phải được dùng để hủy diệt mùa màng hoa mầu ngũ cốc của Việt Cộng” Viên chức của Ngũ Giác Đài nói: “Đây không phải là điều chúng tôi muốn, nhưng chúng tôi đã bắt đầu dùng thuốc khai quang để phá hại mùa màng.” Mới đầu tôi đòi hỏi là một sĩ quan Việt Nam phải đi cùng tôi để chỉ ra những mục tiêu mà cho là nằm dưới quyền kiểm soát của Việt Cộng, nhưng rút cuộc cũng bị bán cái.

Vào đầu tháng 2, 1962, Liên Bang Sô-Viết lên án Mỹ đã dùng chiến tranh hóa học ở miền Nam Việt Nam. Tờ Izvestia tường trình là “Ngũ Giác Đài đã mở màn một năm mới bằng một hành động chưa từng xẩy ra: sử dụng vũ khí hóa học.” Tờ báo viết: Máy bay Mỹ trải thuốc khai quang trên rừng rú, và thêm: Không quân Mỹ bắt đầu ngay cả việc phá hủy mùa màng, hoa màu ngũ cốc trên những cánh đồng của nông dân bằng chất độc trong những vùng không kiểm soát được đang lan rộng. [Theo đề nghị của Ngô Đình Diệm đấy. TCN]

Vào cuối tháng 11, 1961, theo tờ báo Newsweek, những quân đội đặc biệt của Mỹ đã bắt đầu dạy các phi công Việt Nam cách trải lên những vùng Việt Cộng chất hóa học làm cho những cánh đồng lúa trở nên vàng úa, giết hại mọi hoa màu trồng trọt trong những cứ điểm của quân phiến loạn. Và vào đầu năm 1963, theo hãng thông tấn UPI và tờ Minneapolis Tribune, máy bay trực thăng và máy bay thường đã đều đều dùng chất khai quang và chất trừ sâu để hủy diệt mùa màng trong vùng Việt Cộng..

Vào tháng 9, 1966, 22 khoa học gia và bác sĩ, trong đó có 7 người được giải Nobel, viết một Thư Ngỏ cho Johnson thôi thúc ông ta ra lệnh chấm dứt việc dùng những hóa chất ở Việt Nam. Tài liệu đó được gửi tới nhiều đại học và khoa học gia khắp nước; vào tháng 2, 1967, hơn 5000 khoa học gia Mỹ, nay gồm có 17 giải Nobel và 129 thành viên thuộc cơ quan có uy tín là Hàn Lâm Viện Quốc Gia Về Khoa Học, đã ký. Tất cả được buộc thành một gói và gửi cho Tổng Thống Johnson ngày 14 tháng 2 sau một cuộc họp báo chí và thư chống đối đã được đăng trên trang nhất của các báo khắp nước…

Việc Mỹ dùng chất hóa học đã mang lại sự lên án khắp thế giới: một tờ báo ở Frankfurt [Đức] phổ biến một tranh biếm thị về bức Tượng Nữ Thần Tự Do mang một mặt nạ phòng hơi độc; Mainichi Shimbun, một trong những tờ báo chính của Nhật Bản, cũng vẽ một tranh biếm thị về Adolf Hitler bay lượn trên nước Việt Nam, tay phải mang một túi [thuốc độc khai quang] trên đề “Việt Nam”[để trải xuống Việt Nam]. Ở New York, tờ Times đăng một bài của chủ bút chỉ trích gay gắt rằng “ở Việt Nam, chất độc được cung cấp và với sự đồng ý của người da trắng chống người Á đông. Đây là điều mà không một người Á đông nào, Cộng sản hay không, sẽ quên. Không có một quốc gia nào đã sử dụng những vũ khí như vậy trong lịch sử chiến tranh gần đây. [2]

Chúng ta có thể đọc một tài liệu khác trong cuốn Defoliation, A Ballantine Book, New York, 1970 của Thomas Whiteside, trang 10:

Vì rõ ràng là sự tiến hành khai quang ở Việt Nam tiếp tục một cách không lay chuyển, một số khoa học gia ở Mỹ bắt đầu phản đối việc quân đội sử dụng chất trừ sâu, chắc rằng Việt Nam đã được dùng, trong thực tế, một miền đất thí nghiệm chiến tranh hóa học và sinh học. Đầu năm 1966, một nhóm 29 khoa học gia, đứng đầu là Tiến sĩ John Edsall, giáo sư sinh hóa ở đại học Harvard, kêu gọi Tổng thống Johnson hãy ngăn cấm dùng chất khai quang và chất trừ sâu để hủy diệt hoa màu, và gọi việc sử dụng những chất này ở Việt Nam là “man rợ vì chúng được sử dụng bừa bãi”. Vào cuối năm 1966, tiếp theo sự phản đối này là một thỉnh nguyện thư gửi cho Tổng thống Johnson bởi 22 khoa học gia, trong đó có 7 người được giải Nobel. Thỉnh nguyện thư vạch ra rằng sự dùng những chấp phá hại mùa màng và vũ khí hóa học chống cá nhân nhưng không chết người [chất trừ sâu] ở Việt Nam đã làm thành một “tiền lệ nguy hiểm” về chiến tranh hóa học và sinh học, thỉnh nguyện thư yêu cầu Tổng thống ra lệnh cấm. Trước cuối năm, Tiến sĩ Edsall và Tiến sĩ Matthew S. Meselson, giáo sư sinh học ở Harvard, thu thập được chữ ký của 5000 khoa học gia cùng ký trên thỉnh nguyện thư. [3]

Và ở trang 99 trong tài liệu trên, chúng ta có thể đọc được một Nghị Quyết của Hội Đồng Hiệp Hội Hoa Kỳ Xúc Tiến Khoa Học, ngày 30 tháng 12, 1969, như sau:

Xét rằng, những nghiên cứu gần đây do Viện Quốc Gia Ung Thư ủy quyền đã chứng tỏ là chất 2,4,5-T và 2,4-D đã gây nên những dị tật bẩm sinh trong thí nghiệm về súc vật, và

Xét rằng, những cuộc nghiên cứu ở trên kết luận là chất 2,4,5-T có thể nguy hại đến con người, và chất 2,4-D thì rất có thể nguy hại đến con người, và

Xét rằng, 2,4,5-T và 2,4-D đã được quân đội dùng khắp nơi để khai quang với dung lượng cao hơn dung lượng dùng trong dân thường, và

Xét rằng, có khả năng là dùng những chất trừ sâu ở Việt Nam gây nên dị tật bẩm sinh trong những đứa bé mà những bà mẹ bị nhiễm chất độc.

Vì vậy, Hội đồng AAAS quyết nghị thôi thúc Bộ Quốc Phòng Mỹ hãy chấm dứt ngay việc dùng cá chất 2,4,5-T và 2,4-D ở Việt Nam. [4]

Như vậy có phải rằng Thuy Dang chẳng biết gì về sách lược dùng thuốc khai quang ở Việt Nam của Mỹ, Diệm và sau Diệm, bắt nguồn từ đâu và đã thi hành sách lược này như thế nào, và phản ứng của giới khoa học Mỹ đối với việc dùng chất khai quang ở Việt Nam ra sao, nên đã dựa trên sự kém hiểu biết của mình để phê bình láo lếu giáo sư Nguyễn Mạnh Quang.

► [Trích Thuy Dang] Điểm 2- CĐDC  “được dùng trong những năm từ 1961 đến 1971. Mà ông Diệm chỉ cầm quyền [còn] có hai năm “30/11/1961 [bắt đầu tiến hành rải CĐDC] đến 1/11/1963[đảo chính]”, khi CĐDC được rải xuống rừng núi VN. Vậy, sau đó từ 1963 đến 1971: Tám [8] năm sau, thì trách nhiệm thuộc về ai …  Trong đó có cả anh Nguyễn mạnh Quang đấy…. Vậy, hồi đó anh Nguyễn mạnh Quang có kiến nghị gì không….[?]. Sao lúc nào anh Quang cũng “rú” lên là tự “Diệm”. Như thế, hẳn là bây giờ anh Quang “tắc cổ’, “khó thở”, “hàm hồ”, “vô học”…là không phải tại mình [Quang], mà cũng là tại “Diệm” hết đấy phải không ? Tội gì mà anh Quang không “hàm hồ” để đổ thừa “bậy”, Vì anh Quang sống dưới chế độ “Diệm” đến những chín [9] năm lận mà. [Hết Trích]

☞ TCN: Lý luận của Thuy Dang cho rằng ông Diệm chỉ trị vì cho đến tháng 11,1963, và trong thời đó chất độc da cam chỉ trải trên rừng núi [sic], trong khi chất độc da cam được trải trên đất nước Việt Nam cho tới năm 1971, cho nên ông Diệm không có trách nhiệm, là một lý luận ngớ ngẩn, chứng tỏ là Thuy Dang rất kém hiểu biết. Thuy Dang định chạy tội cho Ngô Đình Diệm nhưng lại thiếu thông minh nên mới đưa ra một lý luận như vậy. Trước hết, chất độc da cam được trải để giết hại mùa màng từ tháng 10, 1961, và là do ý kiến của Diệm. Ý kiến này được tiếp tục thực hiện sau khi Diệm chết. Vậy cái đầu mối tác hại lên đất đai và con người Việt Nam là từ Diệm. Này nhé ! Alexandre de Rhodes đã chết từ thế kỷ 17 nhưng di hại của nền đạo lý “Thiên La – Đắc Lộ” trên đất nước Việt Nam còn kéo dài cho tới ngày nay như thế nào người dân Việt Nam đã biết rõ. Cũng vậy, Ngô Đình Diệm đã chết từ năm 1963, nhưng từ cái ý kiến ác ôn vô nhân tính của Diệm như trên đã để lại cho dân tộc không biết bao nhiêu thảm họa cho người dân về các bệnh như ung thư, dị tật bẩm sinh v…v…., còn kéo dài cho tới ngày nay và không biết bao giờ mới có thể tuyệt căn. Vậy xét ra, cái tội ngập thiên đường của Ngô Đình Diệm đối với dân tộc Việt Nam đã cộng vào vô vàn tội phản quốc của Trần Bá Lộc, Trần Lục, Nguyễn Bá Tòng, Ngô Đình Thục v…v… và của những người Da-tô Việt gian làm tay sai cho Pháp để đưa nước nhà vào vòng đô hộ của Pháp, như lịch sử đã chứng minh, thêm một trang sử nói lên bản chất phi dân tộc của Da-tô giáo từ đầu đến nay trong lịch sử Việt Nam. Cái ác tính bẩm sinh của Diệm là vì trong người Diệm có một phần cái gen của Gót [God] trong Cựu Ước, chỉ một phần thôi, vì những việc ác của Diệm không thấm vào đâu so với những việc ác của Gót trong Cựu Ước.

[Trích Thuy Dang]: Điểm 3- Ảnh hưởng của CĐDC trực tiếp đến “như binh lính Việt Nam, lính Mỹ cũng như lính Úc, Hàn Quốc, Canada, New Zealand có mặt như quân đồng minh của Mỹ…, có nghĩa là ngay thời kỳ đó, cũng không ai đã hiểu “tác hại” thật của CĐDC lên con người như thế nào. Nên sự tác hại của CĐDC người ta mới nghiên cứu sau thời gian đó, và mời anh Quang xem quyết định của tòa án năm 2005 [ cách 44 năm sau [2005-1961= 44]], cũng trích từ link:

//vi.wikipedia.org/wiki/Chất_độc_da_cam:

“Vào ngày 10 tháng 3 năm 2005, quan tòa Jack Weinstein [thuộc Tòa án liên bang tại quận Brooklyn] đã bác đơn kiện, quyết định rằng những đòi hỏi của đơn kiện không có cơ sở pháp luật. Quan tòa kết luận rằng CĐDC đã không được xem là một chất độc dưới luật quốc tế vào lúc Hoa Kỳ dùng nó; rằng Hoa Kỳ không bị cấm dùng nó để diệt cỏ; …”

Vậy “luật” quốc tế không hề cấm. Thì việc cố TT Diệm đồng ý cho quân đội Hoa Kỳ rải thuốc khai quang [CĐDC] xuống vùng rừng núi VN, không cho VC ẩn nấp [dễ phát hiện], là hợp lý trong kế sách “Chiến pháp tiêu thổ ”.  [Hết Trích]

☞ TCN: Thật là lạ lùng, trong khi nhiều người Mỹ quan tâm đến và thương xót người Việt Nam bị ảnh hưởng tác hại của chất độc da cam và đang tìm cách cố giúp người Việt Nam để lấy lại công bằng [xin đọc: //sachhiem.net/XAHOI/T/TinPhapLuat.php] thì các con chiên Việt Nam như Thuy Dang, cũng như tổ chức khoa học dỏm VAST của Mai Thanh Truyết lại cứ cố công ngụy biện để chạy tội cho Mỹ. Mà họ đâu có cần phải làm đầy tớ không công như vậy, vì Mỹ là một cường quốc có nền kinh tế và khả năng quân sự vào bậc nhất thế giới, nên lịch sử đã cho thấy, Mỹ muốn làm gì thì làm, chẳng có nước nào hay cơ quan nào làm gì được Mỹ, Mỹ đâu có cần đến những luận điệu ngu dốt của mấy con chiên Việt Nam để biện hộ cho Mỹ. Giới thức giả Mỹ đã viết lên nhiều bài lên án những hành động đế quốc, vi phạm nhân quyền, của Mỹ trên khắp thế giới, và đặc biệt là về những tội ác và chính sách diệt chủng của Mỹ ở Việt Nam, nhưng Mỹ đâu có hề hấn gì. Ai dám đụng vào bom nguyên tử, bom áp nhiệt [lại nhớ Dương Nguyệt Ánh], hỏa tiễn Tomahawk v..v… của Mỹ, nên Mỹ tha hồ đi bắt nạt các nước nhỏ không phương chống trả. Trong thời điểm đó, hơn ¼ thế giới theo Cộng Sản, Cuba ở ngay sát nách Mỹ là Cộng Sản, toàn thể Đông Âu theo Cộng Sản, và hai Cộng Sản gộc là Nga và Tàu, tại sao Mỹ không chống ở những nơi đó mà lại đi chống ở một nước nghèo, nhỏ, xa xôi như Việt Nam, vừa mới giành được độc lập sau một cuộc chiến đấu gian khổ dài 9 năm, nhân dân mệt mỏi, tài nguyên kiệt quệ, và nhất là không có khả năng gây bất cứ sự nguy hại nào cho Mỹ? Và bom đạn, thuốc độc đã trút lên đất nước Việt Nam từ trên trời, như Giáo sư James P. Harrison viết trong cuốn The Endless War: Vietnam’s Struggle For Independence, Columbia University Press, New York, 1989, p. 192:

“Như là “chết thì tốt hơn là đỏ”, trong thập niên sau 1964 Mỹ đã dùng khoảng 15,724,000 tấn chất nổ [một nửa là bom, một nửa là đạn] ở Việt Nam, tất cả tương đương với khoảng 700 trái bom nguyên tử ở Hiroshima. Những con số trên gồm có 400,000 tấn Napalm, và khoảng 19,114,000 gallons [72,633,200 Lít] chất độc sát trùng [11,220,000 gallons là chất độc da cam, và khoảng 170 kg trong đó là chất chết người dioxin] và để lại trên đất nước Việt Nam 25 triệu hố bom trên mảnh đất diện tích cở bang California. Hầu hết bom [3,621,000 tấn] và hầu như là mọi đạn dược và chất khai quang đã trút lên Nam Việt Nam, trên phân nửa rừng rú bị tổn hại nặng nề. Ở thời điểm đó thì sự khủng bố là từ trên trời xuống thay vì từ Cộng sản. Nhà xã hội học Mỹ, Philip Slater, đã nhận định: “Lý luận rằng Mỹ chỉ muốn ngăn chận sự khủng bố của Cộng sản cũng chẳng khác gì nói rằng khi một con voi giẫm lên một con chuột, và khi con chuột cắn lại bàn chân của con voi thì con chuột là một kẻ xâm lăng” [5]

Trong bài //sachhiem.net/XAHOI/T/TinPhapLuat.php về dư luận thế giới phản đối Mỹ từ chối trách nhiệm, không thụ lý vụ kiện chất độc da cam của Việt Nam, Lời Tòa Soạn của Sách Hiếm đã viết lên nỗi lòng của người Việt yêu nước, yêu dân tộc như sau:

LTS: Xin ai đó trên thế giới này giải thích cho chúng tôi hiểu ý nghĩa hay nguyên nhân cao đẹp nào, dù nhỏ bé đến đâu, của 8 triệu tấn bom [bom Napalm và bom chùm] và 77 triệu lít chất độc khai quang màu Cam thả xuống trên giải đất màu mỡ của nước Việt Nam chúng tôi, và trên đầu của tất cả những nạn nhân còn sống và nạn nhân đã chết của dân tộc chúng tôi. - Không có - Vậy thì cái lý do tối thiểu nhất phải là một sự trả thù. Vậy đã có ai trong xứ Việt Nam chúng tôi đã đến xứ Mỹ gây hại để đất nước chúng tôi phải lãnh sự trả thù ghê gớm như thế ? - Cũng không nốt - Những tiếng "không" to đùng đó là nguyên nhân của những tấm lòng trắc ẩn trước những thân hình dị dạng, những gương mặt không thành hình, những cánh tay không mọc nổi, những cuộc sống tủi nhục mà không có vật chất nào có thể bù đắp được. Những tiếng "Không" đó là động lực cho những lá thư tranh đấu của những người tử tế đòi sự lên tiếng của lương tâm mà bạn đọc sẽ thấy ở dưới bài. Xin quí bạn hỗ trợ tích cực cho công việc đầy tình người này. [SH]

 Nhưng đám con nhiên vô nhân tính, đầu óc mụ mị, không biết đến dân tộc là gì, chỉ biết cắm đầu chống Cộng cho Chúa, không biết rằng Chúa chẳng biết dân Việt Nam là dân nào, và còn coi những người không phải Do Thái là chó, và còn khẳng định rằng “Ta sinh ra chỉ để cứu người Do Thái mà thôi”, cho nên ngày nay vẫn còn hồ hởi xuyên tạc lịch sử để bênh vực chính sách diệt chủng của Mỹ ở Việt Nam sau chiêu bài chống Cộng. Nhưng càng viết càng lòi cái kém hiểu biết của mình ra. Thật vậy, tài liệu trong cuốn “Chemical & Biological Warfare: America’s Hidden Arsenal” đã trích dẫn ở trên và vài tài liệu sau đây chứng tỏ rằng ngay từ thời đó, khi Mỹ bắt đầu dùng thuốc khai quang, thì người ta đã biết đến khả năng tác hại của chất độc da cam.

Đô Đốc Elmo R. Zumwalt, có người con bị chết về những chất độc trải trên đất nước miền Nam, cũng đã phải thú nhận như sau:

Khi chúng tôi, những nhà khoa học quân sự, bắt đầu phát động chương trình thuốc trừ sâu vào thập niên 1960 [Mỹ bắt đầu dùng chất độc màu da cam ở Việt Nam từ năm 1961] thì chúng tôi đã biết đến khả năng tác hại của chất dioxin ở trong chất trừ sâu. Chúng tôi cũng biết là công thức chế tạo chất trừ sâu của quân lực có nồng độ dioxin cao hơn là công thức dùng trong dân sự vì nó rẻ hơn và có thể sản xuất mau hơn. Tuy nhiên, vì chất đó được dùng để chống “kẻ thù”, cho nên không ai trong chúng tôi quan tâm.. Chúng tôi không nghĩ đến chuyện chính người của chúng tôi rồi cũng bị nhiễm độc bởi chất trừ sâu. [6]

Và Myra MacPherson viết trong cuốn Long Time Passing: Vietnam & The Haunted Generation, A Signet Book, 1984, p. 694:

Năm 1983, một ông tòa liên bang thuộc địa hạt Long Island đã giải mật những tài liệu có hại cho hãng hóa học Dow.

Dow – hãng cung cấp lớn nhất Napalm và Chất Độc Da Cam cho chính phủ trong thời chiến – biết từ giữa thập niên 1960 [1964] bằng chứng là nhiễm chất dioxin có thể làm cho con người đau nặng và ngay cả chết. Tuy nhiên, hãng Dow giữ lại sự quan tâm đó, không cho chính phủ biết và tiếp tục bán thuốc trừ sâu trong đó có chất dioxin cho quân đội, theo tài liệu của Dow. [7]

Thuy Dang đưa ra vụ ông tòa Jack Weinstein từ chối trách nhiệm của Mỹ, không thụ lý vụ kiện chất độc da cam của Việt Nam, để biện hộ cho quan thầy Mỹ và Diệm. Nhưng đây là một luận điệu ngu ngơ mà trước đây Mai Thanh Truyết đã dùng, vì Mỹ từ chối trách nhiệm không có nghĩa là Mỹ không có trách nhiệm. Như trên đã nói, Mỹ là một cường quốc, muốn làm gì thì làm và thường là Mỹ sử dụng “cường quyền thắng công lý”. Điều này đã rõ như ban ngày. Nhưng tại sao Mỹ lại không thụ lý vụ kiện chất độc da cam của Việt Nam. Vài tài liệu sau đây cho thấy rõ vấn đề.

//news.bbc.co.uk/2/hi/americas/4336941.stm :

Bộ Tư Pháp Mỹ đã thôi thúc ông tòa của tòa án Liên Bang [ở Brooklyn] không thụ lý vụ kiện [về chất độc da cam]. Trong một bản tóm tắt hồ sơ đệ trình trong tháng 1, có nói là mở cửa cho những vụ kiện do kẻ thù trước sẽ là một sự đe dọa nguy hiểm cho quyền của Tổng thống tiến hành chiến tranh. [8]

//www.nytimes.com/2005/02/28/nyregion/28orange.html :

Bộ Tư Pháp thôi thúc một ông tòa của tòa án liên bang ở Brooklyn không xét vụ kiện nhằm mục đích xét lại một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất về cuộc chiến Việt Nam, việc sử dụng chất độc da cam để khai quang.

Vụ kiện, đệ trình năm ngoái nhân danh nhiều triệu người Việt Nam, cho là những công ty Mỹ sản xuất hóa chất, khi cung cấp chất độc da cam chứa dioxin rất độc cho quân đội, đã phạm tội ác chiến tranh.

Vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại có thể lên đến hàng tỷ đô-la từ các hãng sản xuất hóa chất và trách nhiệm làm sạch môi trường ở Việt Nam. [9]

Đây là một vụ kiện các công ty làm chất độc nhưng các luật sư của bộ Tư Pháp lại bẻ quẹo sang khía cạnh pháp lý là dân chúng và binh sĩ của kẻ thù không thể kiện quân lực Mỹ đã làm tổn hại đến họ trong thời chiến.

["The implications of plaintiffs' claims are astounding," the government's filing said, "as they would [if accepted] open the courthouse doors of the American legal system for former enemy nationals and soldiers claiming to have been harmed by the United States Armed Forces" during war.]

Một luật sư của các nguyên cáo, Constantine P. Kokkoris, nói trong một cuộc phỏng vấn là lý lẽ của bộ Tư Pháp không đúng vì chính phủ Mỹ không phải là bị cáo trong vụ kiện này.

[One of the plaintiffs' lawyers, Constantine P. Kokkoris, said in an interview that the Justice Department's argument was misplaced because the government had not been sued in the case.]

Nhưng cường quyền đã thắng công lý và ông tòa Jack Weinstein đã dựa vào đây để không xét đến vụ kiện. Đó là thực chất nội vụ mà Thuy Dang đưa ra để biện hộ cho Mỹ-Diệm. Nhưng thật ra thì vụ kiện đâu đã xong vì càng ngày càng có nhiều tiếng nói lên án, phanh phui ra sự thật về những tác hại của chất độc màu da cam trên đất nước Việt Nam và trên các cựu chiến binh Mỹ. Tháng 5, 2009, trang nhà Sách Hiếm đã đăng một bài về “Vụ Án Chất Độc Da Cam và Công Luận Quốc Tế” [//sachhiem.net/XAHOI/T/TinPhapLuat.php] với rất nhiều tài liệu về những phản ứng rất tiêu cực của thế giới trước quyết định phi công lý của các Tòa Án Mỹ. Một trong những luận điệu ngớ ngẩn của Tòa Án Mỹ là “Chất độc màu da cam được dùng như là một chất để làm rụng lá, không phải là chất độc với ý định nhắm vào con người” [Agent Orange had been used as a defoliant, not as a poison designed for or targeting human populations ...] Tôi không thể tưởng tượng được là một ông Tòa nào lại có thể phán một câu rất ngu xuẩn như trên. Nó tương tự như câu: “B52 của chúng tôi thả xuống để phá hủy nền kinh tế của kẻ thù chứ không phải là với ý định nhắm vào thường dân và bệnh nhân như ở Nhà Thương Bạch Mai”

Sự thiếu hiểu biết về vấn đề tác hại của chất độc da cam lên tới cực độ khi Thuy Dang dùng tài liệu của //vi.wikipedia.org/, quanh đi quẩn lại vẫn chỉ có một nguồn tài liệu dỏm này, để đưa ra một điều phản khoa học và trái với thực tế:

"Không có tác hại sinh thái nào được ghi nhận ở động thực vật mặc dù một lượng lớn chất diệt cỏ và dioxin đã được sử dụng"

Nếu vậy thì tại sao ngay từ năm 1984, các công ty hóa chất Mỹ đã phải bồi thường cho các cựu chiến binh Mỹ phục vụ ở Việt Nam $180 triệu về những vấn đề sức khỏe ảnh hưởng của chất độc da cam.

[In 1984, after years of court battles, seven American chemical companies paid $180 million to settle a class action suit by American Vietnam veterans who claimed that it caused cancer, birth defects and other health problems.]

Và theo tờ Chicago Tribune, ngày 8 tháng 12, 2009, bài trên trang nhất của Jason Grotto với đầu đề: “Chất Độc Màu Da Cam: Dị Tật Bẩm Sinh Gây Đau Khổ Cho Việt Nam; Mỹ Chậm Giúp Đỡ” [Agent Orange: Birth Defects Plague Vietnam; U.S. Slow To Help] thì:

Nhiều thập niên sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, vấn đề gây tranh cãi nhất về việc sử dụng chất độc khai quang của quân đội Mỹ là sự tác hại trên sức khỏe của không biết bao nhiêu người Việt mà kể, [the impact on the health of untold numbers of Vietnamese].

Năm ngoái, chính phủ Mỹ đã bỏ ra $13.7 tỷ đô-la để đền bù cho hơn một triệu cựu quân nhân dự cuộc chiến ở Việt Nam, nhiều người trong số này đã bị nhiễm độc bởi chất độc trừ sâu bọ. Thêm nhiều triệu đô-la nữa đã được dùng để đền bù cho những gia đình cựu quân nhân có con sinh ra bị dị dạng bẩm sinh. Nhưng các viên chức Mỹ nổi khùng, không thừa nhận mối liên hệ giữa chất độc khai quang và những bệnh tật ở Việt Nam [But U.S. officials bristle at acknowledging connections between the defoliants and illnesses in Vietnam]

Các khoa học gia đã liên kết chất dioxin với trên 12 thứ bệnh khác nhau, gồm có ung thư [cancer], bệnh run rẩy tay chân [Parkingson’s disease], và dị dạng bẩm sinh [crippling congenital disorders.]

Bác sĩ Linda Birnbaum, Giám Đốc Viện Khoa Học Quốc Gia Về Liên Hệ Giữa Môi Trường và Sức Khỏe , và là một chuyên gia hàng đầu về chất dioxin, nói: “Tôi chưa từng thấy một hệ thống hormone nào mà chất dioxin không muốn phá vỡ.” Nó có ảnh hưởng lan rộng trong hầu hết các chủng loại có xương sống trong hầu hết mọi giai đoạn cơ thể phát triển. [It has widespread effects in nearly every vertebrate species at nearly every stage of development.]

Vấn đề nay đã trở nên rõ ràng, là, con người – đặc biệt là phụ nữ - bị nhiễm ngay chỉ một chút chất dioxin, mà các khoa học gia đo bằng phần tỷ lệ trên một ngàn tỷ [vào khoảng 10-20 ppt], cũng có khả năng cao là sinh ra những đứa con dị tật bẩm sinh. [2]

Nhân viên của tờ Tribune đã thấy nhiều đứa trẻ ở nhà thương Từ Dũ và ở các nơi khác ở Việt Nam bị dị tật bẩm sinh và các bệnh tật khác mà khoa học đã nối kết với sự tiếp nhiễm chất dioxin.[3] Trong nhiều trường hợp, dữ kiện về những nhiệm vụ trải thuốc khai quang trong thời chiến đã khẳng định là các bậc cha mẹ của những đứa trẻ đã bị nhiễm chất độc trừ sâu bọ.

Một công trình nghiên cứu nghiêm túc của một khoa học gia người Việt ở Úc, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, về tác hại của chất độc da cam, là cuốn “Chất Độc Màu Da Cam”, Giao Điểm xuất bản năm 2005. Cuốn sách đưa ra những kết quả nghiên cứu về mức độ tác hại to lớn của chất độc màu da cam trên đất đai, mùa màng, môi trường và con người ở Việt Nam với những dữ kiện khoa học khó ai có thể phủ bác, nhất là càng ngày càng có nhiều nghiên cứu về chất độc màu da cam trong thế giới Tây phương mà những kết quả nghiên cứu không những đồng thuận với công cuộc nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Tuấn mà còn tiến xa hơn nữa trong việc khẳng định ảnh hưởng của chất độc màu da cam trên con người và môi sinh. Nội dung cuốn sách, ngoài việc đưa ra những tác hại của chất độc màu da cam và lên án chính sách diệt chủng của Mỹ, chúng ta còn thấy trong đó tiềm tàng lòng yêu dân tộc của tác giả.

Tác hại của chất độc màu da cam trên đất nước Việt Nam đã là chuyện rõ như ban ngày. Trong khi có nhiều tổ chức và cá nhân Âu Mỹ lên tiếng lên án hành động dùng chất độc màu da cam của Mỹ ở Việt Nam, một hình thức của chiến tranh hóa học mà Liên Hiệp Quốc đã cấm, và đóng góp để giúp đỡ những nạn nhân của chất độc màu da cam ở Việt Nam thì có một số nhỏ người Việt nằm trong nền đạo lý Thiên La – Đắc Lộ như mù, chẳng nhìn thấy gì, và còn vô sỉ, lên tiếng phủ nhận sự tác hại của chất độc màu da cam. Họ không đếm xỉa gì tới những nỗi đau khổ của hàng trăm ngàn nạn nhân của chất độc màu da cam trên đất nước, mà còn cố đưa ra những luận điệu phi khoa học, có tính cách trốn trách nhiệm, để làm gì nếu không muốn nói không làm gì khác là chứng tỏ não bộ vô nhân tính của mình.

Chẳng trách là có người trên Đàn Chim Việt đã phê bình:

“Chỉ có súc vật mới quay lưng với nổi đau thương, mất mát của các nạn nhân chất độc màu da cam… Nhiều ý kiến của những người mà tôi đoán chỉ đứng ngang dưới thắt lưng của ông TS Tuấn một gang tay , nặng về suy diễn/võ đoán/chụp mũ, đọc lên nghe thật là ngây ngô/ngu ngơ hay ù ù cạc cạc ....”

Những người quay lưng với nổi đau thương, mất mát của các nạn nhân chất độc màu da cam như Thuy Dangcó vẻ như rất hồ hởi với quyết định của Mỹ phủ nhận trách nhiệm trong vấn nạn chất độc màu da cam, cho nên họ thường đưa ra những phán quyết cường quyền thắng công lý, trốn trách nhiệm của Mỹ, làm như đó là những khuôn vàng thước ngọc để cho họ tin theo.

► [Trích Thuy Dang]: Anh quá “đần”, anh không hề biết một “chút” gì về “hiểm họa Công Sản”, không hề biết gì về “cuộc chiến ý thức hệ” giữa hai phe “TỰ DO” và “CỘNG SẢN”. Mà buộc các cấp lãnh đạo phải hành động bức thiết ra sao. để chống lại “hiểm họa CS” ấy!

Anh chẳng biết được CĐDC tác hại đến con người như thế nào, cách nào, mà liều hàm hồ viết: “....Việc làm dã man này  không biết đã sát hại bao nhiêu trăm ngàn hay hàng triệu nạn nhân, ..... [Nguyễn mạnh Quang viết – bài kèm dưới]” . Nếu đúng thế, thì “bọn” Việt Cộng “chui rúc ẩn nấp trong rừng”chịu ảnh thưởng trức tiếp CĐDC ắt “chết” hết, lấy đâu còn xảy ra vụ “Mậu Thân”; lấy đâu VC còn vững mạnh để “cưỡng chiếm” được miền nam thuộc VNCH vào 30/4/1975.

[Hết Trích]

[TCN] Qua những sự hiểu biết quá kém của Thuy Dang về một vấn đề rất đơn giản là “Chất độc da cam”, tôi thực sự không tin rằng Thuy Dang có đủ khả năng để thảo luận về chủ đề rộng lớn như: thế nào là Ý Thức Hệ Tự Do, thế nào là Ý Thức Hệ Cộng sản, và cũng không thể nói rõ thế nào là “Hiểm họa Cộng sản” so với “Hiểm họa Tự Do”. Cho nên tôi đi vào phần sau của đoạn trích dẫn trên.Thuy Dang viết mà không hiểu mình viết cái gì. Chúng ta đã biết “chất CĐDC tác hại đến con người như thế nào, cách nào” qua các tài iệu đã trích dẫn ở trên, chỉ có Thuy Dang không biết nên cũng cho rằng Giáo sư Quang cũng không biết. Các học giả Tây phương đã chứng minh rằng, thuốc khai quang chỉ làm hại dân lành, chứ quân du kích ít bị ảnh hưởng. Quân du kích thường ẩn núp dưới hầm và phân tán mỏng, nếu thực phẩm trong những vùng bị trải thuốc khai quang thiếu thốn, thì quân du kích là những người có thực phẩm trước nhất. Có lẽ Thuy Dang không hiểu được điều này. Nhưng thuốc khai quang giết hại bao nhiêu người? Không ai biết rõ mà chỉ có những ước tính. Sau đây là một số tài liệu cho biết con số ước tính về số người chết vì chất độc da cam.

1. Chúng ta hãy đọc một tài liệu trong “The United States, its abandonment of law and worse” của Christopher King:

Không thỏa mãn với việc dùng các loại bom chùm và bom napalm trên những thường dân, nhiều chục triệu lít chất độc màu da cam đã được phun trên đất nước Việt Nam trong cuộc chiến của Mỹ chống dân Việt Nam. Thảm họa trên môi trường và nhân loại đã giết khoảng 400000 người và gây nên khoảng 500000 vụ dị tật bẩm sinh. Ảnh hưởng trực tiếp và bền bỉ của chất dioxin vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Chất dioxin cũng còn làm hư hại đến DNA của con người cho nên ảnh hưởng của nó sẽ còn kéo dài trong dân chúng Việt Nam mãi mãi. Từ trước đến nay, chưa từng có một nước nào khác gây nên những điều như vậy cho một nước khác. [10]

2. Vào thượng tuần tháng 4, 2004, nhân dịp phải sang Paris có việc gia đình, tôi mua được tờ báo “Les Collections de L’Histoire” [tạm dịch là Những Bộ Sử], số 23, Avril-Juin 2004, viết đặc biệt về Việt Nam với chủ đề Đông Dương - Việt Nam: Chính Sách Thuộc Địa, Chiến Tranh và Cộng Sản [Indochine – Vietnam: Colonisation, Guerres et Communism], với những bài viết có giá trị về lịch sử Việt Nam, từ chính sách thực dân và sự xâm chiếm Việt Nam của Pháp làm thuộc địa, đến cuộc chiến nhơ bẩn [La Sale Guerre] của Mỹ ở Việt nam, cho đến xã hội Việt Nam ngày nay với hơn 80 triệu dân. Trong số những bài viết này có nhiều bài mà tôi muốn dịch, nhưng tôi e rằng khó có thì giờ:

Bài Thảm Bại Điện Biên Phủ [Le Désastre de Dien Bien Phu] của Jean Lacouture, một tác giả có uy tín, rất quen thuộc đối với người Việt Nam qua những tác phẩm viết về Việt Nam; hai bài của Pierre Brocheux, Giáo sư Diễn Giảng Danh Dự tại đại học Denis-Diderot- Paris-VII. [Maitre de Conférences Honoraire à L’Université Denis-Diderot-Paris-VII]: bài Một Thế Kỷ Thuộc Địa [Un Siècle de Colonisation] và bài L’Homme Qui Devint Ho Chi Minh [tạm dịch là Người Trở Thành Hồ Chí Minh]; bài Người Mỹ ở Việt Nam: Bộ Máy Nghiền Thịt [Les Américains au Vietnam: l’Engrenage] của Jacques Dallos, Thạc Sĩ Sử Học, Tiến Sĩ Sử Học; bài Chiều Sâu của “Cuộc Chiến Nhơ Bẩn [Au Coeur de la “Sale Guerre”] của André Kaspi, Giáo Sư Đại Học Paris-Panthéon-Sorbonne; bài Những Tàn Phá Của Chất Độc Da Cam [Les Ravages de L’Agent Orange] của Pierre Journoud, Giáo Sư Nghiên Cứu tại Trung Tâm Nghiên Cứu Sử Bộ Quốc Phòng [Chargé de Recherches au Centre d’Études d’Histoire de la Défense [CEHD]; và bài 80 Triệu Người Việt Nam [80 Millions de Vietnamiens], cuộc phỏng vấn Philippe Papin, Giám Đốc Nghiên Cứu tại Trường Thực Hành Học Vấn Cao Cấp [Directeur d’Études à l’École pratique des Hautes Études].

Đọc những bài nghiên cứu sử ở trên, chúng ta thấy rằng giới khoa bảng Pháp quả thật là xứng đáng với học vị của mình. Họ phê bình cuộc chiến nhơ bẩn của Mỹ ở Đông Dương nhưng họ cũng không nhân nhượng với chính sách thuộc địa không kém nhơ bẩn của Pháp ở Đông Dương. Thái độ lương thiện trí thức này khiến người đọc phải khâm phục.

Sau đây là bài Những Tàn Phá Của Chất Độc Da Cam [Les Ravages de L’Agent Orange] của Pierre Journoud, Giáo Sư Nghiên Cứu tại Trung Tâm Nghiên Cứu Sử Bộ Quốc Phòng [Chargé de Recherches au Centre d’Études d’Histoire de la Défense [CEHD], gọi là để góp thêm một chút tài liệu về di hại của chất độc da cam ở Việt Nam của một học giả Pháp.

*  *  *

NHỮNG TÀN PHÁ CỦA CHẤT ĐỘC DA CAM


Tác giả: Pierre Journoud

[Les Collections de L’Histoire, pp. 80-81]

Ngay lúc Hoa Kỳ tìm kiếm những vũ khí giết người hàng loạt ở Iraq, một ấn phẩm đã được xuất bản, kết toán những độc hại của chất độc da cam, chất khai quang đã được dùng một cách đại qui mô, trong khoảng 1962-1971, bởi quân lực Mỹ ở Việt Nam. Khoảng từ 2 đến 5 triệu thường dân có thể đã bị nhiễm độc.

[Au moment où les États-Unis recherchaient des armes de destruction massive en Iraq était publié un nouveau bilan des dégâts causés par l’agent Orange, ce défoliant massivement largué, entre 1962 et 1971, par l’armée américaine au Vietnam. Entre 2 et 5 millions de civils pourraient avoir été contaminés]

 

Năm 2000, nhiều nhà nghiên cứu Mỹ và Việt đã chính thức phối hợp những nỗ lực của họ để kết toán một cách chính xác những hệ quả tác hại của chất độc da cam đã trải trên miền Nam Việt Nam từ 1962 đến 1971. Từ đó, vì không có sự thôi thúc quyết định ở cấp các quốc gia [faute d’une impulsion décisive au niveau des états], những hi vọng chính đáng của những hứa hẹn đầu tiên mới chỉ được cất cánh lên một phần.

Nhưng sau một năm, vào tháng 4, 2003, nhiều khoa học gia ở Đại Học Columbia [Mỹ] đã tiết lộ những kết quả điều tra nghiên cứu của họ, bắt đầu từ những quyển ghi lịch trình các phi vụ của các phi công cộng với những kết quả nghiên cứu mới về sự truyền nhiễm chất độc da cam ở Việt Nam.

Điều ngạc nhiên chính là: cho tới ngày nay, những con số thống kê về số lượng chất độc khai quang đã trải trên Việt Nam, về dung lượng chất độc dioxin trong những thuốc khai quang, và số người bị nhiễm độc đều là những con số ước tính thấp.

Đối với Hoa kỳ, có một nguy cơ nghiêm trọng là phải thú nhận đã thi hành ở Việt Nam, theo nhận định của Đô Đốc Mỹ Elmo R. Zumwalt, chỉ huy các chiến dịch hải quân, “một cuộc chiến tranh thí nghiệm hóa học lớn nhất chưa từng có” [la plus grande guerre chimique expérimentale de tous les temps]. Và có bổn phận phải đền bù về phương diện đạo đức cũng như tài chánh. [Et de devoir en payer le prix moral et financier]. [Lẽ dĩ nhiên Mỹ không dám thú nhận. TCN]

Ngày 30 tháng 11, 1961. Chính thức là không còn chiến tranh Việt Nam. Từ những thỏa hiệp Genève vào năm 1954, nước Việt Nam bị chia đôi bởi vĩ tuyến 17. Ngoài Bắc là Cọng Sản Việt Nam. Trong Nam, một chính quyền độc tài toàn trị được nâng đỡ bởi Hoa Kỳ, nhưng phải đối diện với một cuộc nội chiến âm ỉ, chưa bùng nổ, từ ngày tổng thống Ngô Đình Diệm bác bỏ cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.

Trong bối cảnh như vậy, tổng thống John F. Kennedy đã chấp thuận chiến dịch “Ranch Hand”. Chương trình khai quang có một mục tiêu rõ ràng: khai quang những khu đất rậm rạp bao quanh các căn cứ đóng quân [của đồng minh] và những trục giao thông chính của kẻ thù ở Nam Việt Nam để cho Mỹ dễ bề hành động quân sự.

Năm sau, 1962, tổng thống Kennedy leo thang chiến tranh hóa học tuy rằng chịến tranh hóa học bị cấm bởi quy ước Genève năm 1925: ông ta cho phép hủy diệt hoa mầu ngũ cốc cung cấp thực phẩm cho những lực lượng địch.

Trong khoảng từ 1962 đến 1965, chỉ có vài chất sát trùng được dùng bởi quân đội Mỹ và quân đội Nam Việt Nam. Tên chất sát trùng được gọi theo màu sơn ngoài thùng chứa: hồng, xanh v..v..

Nhưng từ năm 1962, chiến tranh Việt Nam mở rộng. Lyndon B. Johnson, tiếp nối Kennedy làm tổng thống trong tòa Bạch Ốc năm 1963, gánh trách nhiệm một chiến dịch oanh tạc liên miên Bắc Việt và gửi đến Nam Việt Nam những thủy quân lục chiến đầu tiên. Ưu tiên dành cho việc xử dụng chất sát trùng độc hại nhất: chất độc da cam [l’agent orange]. Đó là một hỗn hợp của hai thành tố hóa học: chất 2,4-D [acide dichloro-phénoxyacétique] và chất 2,4,5-T [acide thrichloro-phénoxyacétique ]. Chất hỗn hợp này chứa một phó phẩm [sous-produit] rất độc: chất 2,3,7,8-TCDD, gọi là “dioxine” mà các khoa học gia nghi ngờ là sẽ vô cùng bền bỉ ở trong đất.

Trước mức độ trải chất độc trên miền Nam Việt Nam, một phong trào chống đối đã thành hình. Sự chống đối mạnh nhất là ở Mỹ - tháng 2, 1967, một bản kiến nghị chống đối ký bởi trên 5000 khoa học gia Hoa Kỳ, và rồi lan rộng thành một cuộc vận động thế giới chống chiến tranh Việt Nam.

Nhưng chính là do một cuộc nghiên cứu năm 1965 bởi Viện Ung Thư Quốc Gia mà những kết quả chỉ được tiết lộ vào mùa thu năm 1969, đã mang đến một đòn ân huệ [coup de grace] cho chiến dịch “Ranch Hand”. Cuộc nghiên cứu này chứng tỏ rằng một thành phần của chất độc da cam, chất 2,4,5-T, tác dụng trên những con chuột làm vật nghiên cứu trong các phòng thí nghiệm, đã sinh ra những con quái chuột, chết yểu, và bị ung thư. Một cuộc nghiên cứu mới chứng tỏ rằng chính chất TCDD [dioxine] là nguồn gốc độc hại của chất độc da cam.

Đầu năm 1970, một ủy ban nghiên cứu những chất sát trùng được thành lập ở Hoa Kỳ. Kết luận của ủy ban là sự sử dụng những chất sát trùng này đã có sức tàn phá nhiều hơn là người ta thường tiên đoán: ½ rừng rú của miền Nam Việt Nam sẽ bị phá hại. Nghiêm trọng hơn nữa, chất dioxine tồn tại trong hoa mầu đất đai, cây cỏ có thể có nhiều hệ quả rất nghiêm trọng trên sức khỏe của dân chúng, qua đường thực phẩm: một số khá cao những cấu tạo bất bình thường của các trẻ sơ sinh và trẻ con chết yểu đã xảy ra ở trong những vùng bị nhiễm chất độc da cam.

Tháng 4, 1970, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ quyết định ngưng dùng chất độc da cam, nhưng vẫn tuyên bố là không có gì chứng minh là có sự liên hệ giữa chất độc da cam và những quái thai trong các vùng được trải. Quyết định ngưng dùng chỉ được thi hành vào năm 1971.

Để chứng tỏ thành tâm của Hoa Kỳ, tổng thống Gerald Ford ký nghị định - luật số 11850 vào tháng 4, 1975, theo đó thì Hoa Kỳ từ bỏ ý định là nước đầu tiên sẽ dùng những chất sát trùng cho mục đích quân sự. [par lequel le pays renonce à utiliser le premier des herbicides à des fins militaires [Nhưng đã dùng tràn ngập ở Việt Nam rồi. TCN]] Hoa Kỳ đã phá hủy những kho chất độc cuối cùng còn lại vào năm 1977.

Vào khoảng 77 triệu lít chất sát trùng đã được trải trên Nam Việt Nam từ 1961 đến 1971 – cao nhất là trong khoảng 1967-1969 – trên nhiều vùng rộng lớn; 65% là chất độc da cam, tối thiểu vào khoảng 365 ki-lô chất dioxine.

Ngày nay, chúng ta biết rằng chất dioxine, chất hóa học độc nhất mà loài người tạo ra [l’agent chimique le plus toxique que l’espèce humaine ait fabriqué], có thể làm con người nhiễm độc qua đường hô hấp, tiếp xúc và nhất là thực phẩm [tôm, cá, thịt, sữa]. Về mức độ nghiêm trọng của ảnh hưởng chất độc da cam trên sức khỏe con người, cuộc tranh luận chưa dứt khoát giữa các chuyên gia, như chúng ta thấy trong hội nghị ở Stockholm về những ảnh hưởng của chiến tranh ở Cam-bod, Lào và Việt Nam [Tháng 7, 2002], nhưng người ta e rằng nó có những ảnh hưởng độc hại nhất.

Kết toán về ảnh hưởng độc hại của chiến dịch “Ranch Hand” khó mà có thể thiết lập một cách chính xác. Về phương diện môi sinh, chiến dịch này đã làm cho đất đai hết đi mầu mỡ, và không còn các loại sinh vật cũng như các loại cây cỏ trong các vùng mà ngày xưa chúng đã từng có rất nhiều. Nông nghiệp trong các vùng này bị nhiễu loạn trầm trọng.

Kết toán về sinh mạng con người cũng còn trong vòng bàn cãi. Nhưng công cuộc nghiên cứu của đại học Columbia [Mỹ] đã đưa ra những con số ở mức cao: hơn 3000 làng trực tiếp bị ảnh hưởng của chất độc da cam qua khoảng 10000 phi vụ trải thuốc độc khai quang, và như vậy, cộng với ảnh hưởng của gió, thì trong khoảng từ 2.1 đến 4.8 triệu người dân bị nhiễm độc trên một dân số được ước tính là 17 triệu ở miền Nam. Và để cho được đầy đủ, chúng ta phải thêm vào đó số nạn nhân ở Lào và Cam-bod mà cho đến ngày nay cũng chưa biết rõ, nhưng chắc chắn là ít hơn ở Việt Nam.

Trong số những người bị nhiễm độc của chất độc da cam, nhiều đứa trẻ bị dị tật bẩm sinh, thiếu một bộ phận trong thân thể, bị hội chứng Down, ung thư phát triển sớm, điếc, câm v..v..

Chỉ tới tháng 2, 2000, chính phủ Việt Nam mới quyết định trợ cấp, một cách tượng trưng, cho những nạn nhân chất độc da cam. Sự hầu như im lặng về vấn đề này của chính quyền có sự giải thích của họ: xét về mọi mặt, lợi ích mà Việt Nam có thể rút tỉa từ sự thân thiện với một cường quốc bậc nhất trên thế giới thì nhiều hơn là một sự bất hòa...Về phía chính phủ Washington, họ cho rằng họ không thể làm gì khi mà không có các bằng chứng y khoa bất khả phủ bác.

Người Việt Nam có một đồng minh ngay trên đất Mỹ: những cựu chiến binh Hoa Kỳ trong cuộc chiến ở Việt Nam. Thật vậy, ở Hoa Kỳ, hơn 100000 [một trăm ngàn] cựu chiến binh bị ung thư vì nhiễm chất độc da cam, 3000 con cái họ bị dị tật bẩm sinh trầm trọng. Những cựu chiến binh này đã lên án những hãng của Mỹ sản xuất thuốc khai quang [Dow chemical, Mosanto] và các hãng này đã phải xuất ra, năm 1984, 180 triệu đô-la để đền bù cho khoảng 20000 nạn nhân.

Không đủ để đưa những người Mỹ đến chiến thắng [À défaut d’avoir conduit les Américains à la victoire], cuộc chiến tranh hóa học ở Việt Nam ít ra cũng làm cho lương tâm thế giới thức tỉnh trước những ảnh hưởng của những loại vũ khí này. Từ sự thành lập một ủy ban đặc biệt của Liên Hiệp Quốc năm 1972 phụ trách vấn đề giải trừ vũ khí hóa học cho đến khi thành hình một tổ chức có nhiệm vụ ngăn cấm vũ khí hóa học, năm 1979, những sự tiến bộ đã rõ rệt.

Chỉ còn lại vấn đề là, cho phép dùng những vũ khí hóa học một cách bừa bãi ở Việt Nam, cơ quan Hành Pháp Mỹ không thể không biết là họ đã tạo ra một tiền lệ nguy hiểm. [En s’autorisant au Vietnam un usage massif d’armes chimiques extremement novices, l’exécutif américain ne pouvait pas ignorer qu’il créait un dangereux précédent.]

 Tôi nghĩ từng đó cũng đủ để cho đọc giả thấy rõ con người, kiến thức và mánh mưu của Thuy Dang trong bài Thuy Dang phê bình bài NGÔ ĐÌNH DIỆM: CON NGƯỜI VÀ TỘI ÁC của Giáo sư Sử Nguyễn Mạnh Quang. Điều rõ ràng là Thuy Dang đã dựa vào những thiếu sót trong sự hiểu biết của mình, đại khái là “cuồng tín, hàm hồ, đần đần, phi lý trí” [từ của Thuy Dang], để phê bình mà không phải là phê bình giáo sư Nguyễn Mạnh Quang. Cho nên tôi có thể ngưng ở đây, không cần thiết phải phê bình thêm nữa, vì bất cứ trong lãnh vực nào, nhất là về chính đạo Da-tô, kiến thức của Thuy Dang cũng không thể gọi là kiến thức. Những câu hỏi của Thuy Dang cho giáo sư Quang về Da-tô Giáo chứng tỏ là Thuy Dang chẳng biết gì về lịch sử Da-tô Giáo và tất nhiên Thuy Dang cũng chưa bao giờ mở đến cuốn Thánh Kinh, có lẽ chỉ cầm nó trong khi cầu nguyện, cho nên không biết trong đó viết những gì về Giê-su.

Tôi muốn thêm vào bài viết này vài tài liệu trong phần Phụ Lục để đọc giả có thể thấy rõ thêm một vài sự thật về người Mỹ vào Việt Nam như thế nào và đã làm gì ở Việt Nam. Và chúng ta, những người yêu nước yêu dân tộc, đừng có đổ thừa cho là yêu Cộng sản, sẽ nghĩ lại và phán xét lịch sử sao cho hợp tình hợp lý. Đối tượng của tôi là đa số những người có đầu óc, hiểu biết, can đảm chấp nhận sự thật, chứ không phải là thiểu số những kẻ cuồng tín, muốn tiếp nối cuộc thánh chiến chống Cộng, chống Cộng cho Chúa, hay chủ trương giết Cộng đến người cuối cùng.▪

PHỤ LỤC

Ngày nay, những sự thật về cuộc chiến tranh Việt Nam đã rõ, từ những tác phẩm nghiên cứu hậu chiến của các chuyên gia có uy tín trong lãnh vực học thuật cho đến những hồ sơ đã được giải mật của chính quyền Mỹ v…v…. Trước những tài liệu nghiên cứu nghiêm chỉnh của các trí thức Tây phương mà không có lý do gì để chúng ta cho rằng họ chống Mỹ hay thân Cộng, chúng ta phải có can đảm nhìn lại lịch sử như nó là như vậy dù có làm cho chúng ta đau lòng đến mấy, chúng ta không có quyền vì cảm tính phe phái, tôn giáo, hay vì thù hận mà xuyên tạc lịch sử. Hơn nữa, sự thù hận một chiều vì thiếu ý thức chính trị và lịch sử này đã đưa đến sự chia rẽ, phân hóa trầm trọng trong cộng đồng hải ngoại, và nhiều khi phản tác dụng.

Hiện nay chúng ta có rất nhiều tài liệu về cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua, gồm cuộc chiến chống Pháp và cuộc chiến chống Mỹ, nhiều đến độ có lẽ không bao giờ chúng ta có thể biết hết và đọc hết. Người Việt Quốc Gia thường cho Nam Việt Nam là đồng minh trước hết là của Pháp, rồi sau là của Mỹ, trong cuộc thánh chiến chống Cộng. Nhưng sự thật khá đau lòng, trong cả hai cuộc chiến, Nam Việt Nam chỉ là tay sai, con cờ của Pháp và Mỹ. Pháp chưa bao giờ coi “thành phần quốc gia” là “đồng minh” của họ. Mỹ còn tệ hơn nữa vì là ông chủ chi tiền, cho nên quyết định mọi việc, và khi thấy không cần nữa thì bỏ. Hiệp Định Geneva năm 1954 được ký kết giữa Việt Minh và Pháp. Hiệp Định Paris năm 1973 trên thực tế được ký kết giữa Bắc Việt và Mỹ, giúp cho Mỹ “rút lui trong danh dự” và xóa sổ Nam Việt Nam, theo đúng “kế hoạch mầu nhiệm” của Thiên Chúa [wondreous plan of God] đã được an bài để hợp với lòng dân người Việt..

Như trên đã nói: Trong thời điểm đó, hơn ¼ thế giới theo Cộng Sản, Cuba ở ngay sát nách Mỹ là Cộng Sản, toàn thể Đông Âu theo Cộng Sản, và hai Cộng Sản gộc là Nga và Tàu, tại sao Mỹ không chống ở những nơi đó mà lại đi chống ở một nước nghèo, nhỏ, xa xôi như Việt Nam, vừa mới giành được độc lập sau một cuộc chiến đấu gian khổ dài 9 năm, nhân dân mệt mỏi, tài nguyên kiệt quệ, và nhất là không có khả năng gây bất cứ sự nguy hại nào cho Mỹ? Ngày nay chúng ta đã có câu trả lời.

Trong cuốn Việt Nam: Sự Khủng Khoảng của Lương Tri [Vietnam: Crisis of Conscience, Association Press, N.Y., 1967] viết bởi ba giới chức tôn giáo: Mục sư Tin Lành Robert McAfee Brown, Giáo sư Tôn Giáo Học, đại học Stanford; Linh mục Michael Novak, Giáo sư về Nhân Bản Học, đại học Stanford; và Tu sĩ Do Thái Abraham J. Heschel, giáo sư về đạo đức và huyền nhiệm Do Thái tại trường Thần Học Do Thái ở Mỹ, Mục Sư Tin Lành Robert McAfee Brown viết, trang 79:

Thật là khôi hài, ngay khi mà chúng ta nói rằng chúng ta phải “chặn đứng Cộng Sản” ở Việt Nam, thì ở những nơi khác chúng ta lại sống chung với Cộng Sản, soạn thảo những hiệp ước với Nga Sô, mở rộng giao thương với Đông Âu, ủng hộ Tito ở Nam Tư. Ở những nơi khác, chúng ta rõ ràng quyết định là sống chung hòa bình với Cộng Sản, và khuyến khích những xã hội Cộng Sản độc lập mà càng ngày càng tự do, không cần đến sự liên kết với nhau. [11]

Ngày nay chúng ta biết rằng Mỹ can thiệp vào Việt Nam không phải là giúp Việt Nam tranh đấu cho những giá trị tự do và dân chủ theo đúng nghĩa của tự do và dân chủ. Bản chất của hai chế độ Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu nói rõ hơn gì hết sự thật này. Mỹ can thiệp vào Việt Nam vì quan niệm chính trị và thống trị của Mỹ sau Đệ Nhị Thế Chiến, ngoài những mục đích kinh tế của giới tài phiệt.

Xưa kia, chúng ta thường tin rằng, người Mỹ đến Việt Nam để giúp miền Nam chống lại Cộng sản, tạo cơ hội cho miền Nam trở thành một quốc gia tự do dân chủ. Những tài liệu lịch sử mà chúng ta có ngày nay chứng tỏ rằng, mục đích chính của Mỹ can thiệp vào Việt Nam không phải là để tạo nên một miền Nam dân chủ tự do mà là dựa vào cường quyền thắng công lý để thực hiện một mưu đồ đế quốc. Nghiên cứu kỹ vấn đề, chúng ta thấy cuộc can thiệp của Mỹ vào Nam Việt Nam có nguồn gốc từ chính nền văn hóa của Mỹ. Sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam là sự hội tụ của 3 yếu tố: chính trị, thần học Ki-tô Giáo, và kinh tế. Những yếu tố này đan quyện với nhau tạo thành chính sách và hành động của Mỹ, không riêng gì ở Việt Nam mà còn ở trên khắp thế giới. Người Mỹ không có thực tâm, không có ý tốt giúp Việt Nam, cũng như ngày nay không có thực tâm, ý tốt giúp Iraq, Afghanistan, Ai Cập, Syria, Libya v…v…. Người nào tin rằng Mỹ thực tâm giúp Nam Việt Nam để bảo vệ những giá trị tự do dân chủ cho người dân Nam Việt Nam là đang nằm mơ. Hãy xét đến thực chất của các chính quyền Ngô Đình Diệm và “Diệm không Diệm” của Nguyễn Văn Thiệu. Hãy xét đến những chiến dịch quân sự dã man nhất của Mỹ ở Việt Nam đối với người dân trong cuộc chiến. Hãy xét đến những nhận định kiêu căng trịch thượng và ngu dốt về người dân Việt Nam của Tổng thống Johnson, của những người lính Mỹ. Trên thực tế, Mỹ không có bất cứ lý do nào để can thiệp vào Việt Nam.

Giáo sư Mortimer T. Cohen viết trong cuốn From Prologue To Epilogue In Vietnam, Publisher Retriever Bookshop, N.Y., 1979, trang 208:

Trong 21 năm bị lôi cuốn vào Đông Dương, Chính Phủ Mỹ đã đưa ra những “lý do” về những hành động của mình. Những lý do này vô giá trị. Lý do duy nhất mà Mỹ vào Đông Dương là để ngăn chận vùng này khỏi rơi vào tay Cộng Sản bằng một cuộc bầu cử, một cuộc cách mạng nội bộ... Và đó cũng đủ là lý do.

Thêm nhiều lý do. Và thêm nhiều lý do nữa. Chúng mọc lên như măng tháng 5. Trước khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, những lý do có thể chứa đầy một cuốn sách. Không lý do nào hợp lý. [12]

Như vậy, nếu Mỹ không có lý do chính đáng nào để can thiệp vào Việt Nam thì bản chất sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam là gì?

Chiến tranh Việt Nam chấm dứt năm 1975 nhưng 27 năm sau Daniel Ellsberg còn viết trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers, Viking, 2002, p.255, về cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam:

“Theo tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lăng của Mỹ”.

[In terms of the UN Charter and our own avowed ideals, it was a war of foreign agression, American aggression.]

 

Và trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ [The Vietnam War and American Culture, Columbia University Press, New York, 1991], hai Giáo sư ở đại học Iowa, John Carlos Rowe và Rick Berg, viết, trang 28-29:

Khi Pháp rút lui, Mỹ lập tức dấn thân vào việc phá hoại Hiệp Định Genève năm 1954, dựng lên ở miền Nam một chế độ khủng bố, cho đến năm 1961, giết có lẽ khoảng 70000 “Việt Cộng”, gây nên phong trào kháng chiến mà từ 1959 được sự ủng hộ của nửa miền Bắc tạm thời chia đôi bởi Hiệp Định Genève mà Mỹ phá ngầm… Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân loại trên khắp Đông Dương. [13]

Noam Chomsky viết trong cuốn The Chomsky Reader, Edited by James Peck, năm 1984, dưới đầu đề Cuộc Xâm Lược Nam Việt Nam [The Invasion of South Vietnam]:

Cuộc xâm lược của Mỹ vào Nam Việt Nam là tiếp theo sự ủng hộ của chúng ta trong toan tính của Pháp tái chinh phục thuộc địa cũ, sự phá “quá trình hòa bình” năm 1954 [Hiệp định Geneva] của chúng ta, và một cuộc chiến tranh khủng bố chống dân chúng Nam Việt Nam.

Có một sự dàn xếp chính trị vào năm 1954, Hiệp định Geneva… Chúng ta tiến ngay vào việc phá ngầm Hiệp định, đặt ở Nam Việt Nam một chế độ hung bạo, khủng bố, lẽ dĩ nhiên là bác bỏ [với sự ủng hộ của chúng ta] cuộc tổng tuyển cử đã được dự phóng. Rồi chế độ đó trở thành một cuộc tấn công khủng bố chống dân chúng ở Nam Việt Nam, đặc biệt đối với lực lượng kháng chiến chống Pháp mà chúng ta gọi là Việt Cộng. Chế độ đó đã giết có thể vào khoảng 80000 người khi mà John F. Kennedy lên làm Tổng Thống năm 1961.

Trong những năm 1961 và 1962 Kennedy khởi sự một cuộc chiến chống Nam Việt Nam. Có nghĩa là, trong 1961 và 1962 , không lực Mỹ bắt đầu bỏ bom và trải thuốc khai quang rộng rãi ở Nam Việt Nam, nhắm trước hết vào những vùng nông thôn mà 80% dân chúng sống trong đó. Đây là một phần của chương trình lùa nhiều triệu người dân vào trong những trại tập trung mà chúng ta gọi là “ấp chiến lược” nơi đó họ bị bao vây bởi các lính canh gác và giây thép gai, được “bảo vệ”, như chúng ta nói vậy, trước quân du kích mà chúng ta thừa nhận rằng người dân tự nguyện ủng hộ. Đây là điều mà chúng ta gọi là “xâm lược” hay “tấn công bằng vũ khí” khi một nước nào đó làm như vậy. Chúng ta gọi đó là “bảo vệ” khi chúng ta làm như vậy. [14]

Trở lại vấn đề “Chất độc da cam”, và cũng để kết luận, sau đây là vài tài liệu điển hình:

1. Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong Lời Mở Đầu của George Wald trong cuốn Defoliation, A Ballantine Book, New York, 1970, tác giả = Thomas Whiteside.

Nam Việt Nam là một nước nghèo. Hầu hết dân chúng là nông dân, làm lụng chân tay trên đất đai chỉ để đủ sống. Chiến tranh đã phá vỡ cuộc sống này một cách đáng sợ. Đây không chỉ là một cuộc chiến hủy diệt rất bất bình thường, được tiến hành trong phần lớn đồng quê không được bảo vệ. Nhiều thanh niên bị lôi ra khỏi đồng ruộng để đi chiến đấu trong quân đội trong nhiều năm. Làng mạc bị phá hủy – bị dội bom, nhà cửa bị thiêu rụi, cơ sở bị triệt hạ [bulldozed]. Trong những vùng oanh kích tự do, mọi vật di động, người cũng như súc vật, đề bị bắn hạ. Trên phần lớn những đồng ruộng có chi chít những hố bom B-52.

Như vậy cũng chưa đủ, chúng ta đã tham gia vào một chương trình phá hủy mùa màng một cách có hệ thống, được nói trẹo ra là chỉ nhắm vào Việt Cộng. Nam Việt Nam, trước là nước xuất cảng nhiều gạo, nay phải nhập cảng gạo của Mỹ. Tiến sĩ Jean Mayer, giáo sư sinh lý học và khoa học dinh dưỡng ở đại học Harvard, vạch rõ ra rằng, tuy các phương tiện chiến đấu khác trong cuộc chiến không tránh được việc gây ra những nạn nhân là thường dân, nhưng sự phá hủy mùa màng thì hầu hết nhắm vào dân thường, nhưng thường dân không có sự giúp đỡ nào. Vấn đề thật là đơn giản. Nếu thực phẩm trở nên hiếm hoi thì binh sĩ là những người đầu tiên chiếm cứ các thực phẩm còn sót lại, Chỉ những người không có vũ khí trong tay, những người yếu ớt không thể tự lực cánh sainh là không có thực phẩm – những người già yếu, người đau ốm, phụ nữ mang thai, và nhất là các trẻ em.

Tôi không có kết luận nào khác là ở Nam Việt Nam chúng ta đang hủy diệt một quốc gia và dân tộc ở đó – quốc gia mà chúng ta nói là chúng ta đang chiến đấu để bảo vệ. Chúng ta làm như vậy với sự đồng lõa, thường là do đề nghị của chính phủ của họ - một chế độ độc tài quân phiệt tham nhũng, hối lộ, mà chúng ta bảo trợ và chính quyền của chúng ta cam kết duy trì. Nhân mạng, súc vật, cây cối, hoa màu – tất cả đều bị tàn phá; trong những cánh đồng mà người nông dân làm lụng chân tay qua nhiều thế hệ, từ bờ này đến bờ kia, nay có đầy những hố bom B-52.

Tại sao chúng ta lại làm như vậy? Toàn bộ đều được che dấu dưới sự đạo đức giả, những lời khoa trương bất tận, và những lời nói hoa mỹ.. Vì quốc gia chúng ta là nước chủ chốt đề nghị cấm chiến tranh hóa học và vi trùng cho Nghị định Geneva năm 1925 – mà chúng ta vẫn chưa phê chuẩn – do đó chúng ta đã tham dự nhiều trong việc thiết lập những nguyên tắc của tòa xử ở Nuremberg mà chúng ta đã chính thức chấp nhận và nay là một phần của Luật Quốc tế. Những tội ác chiến tranh gồm có “giết người, ngược đãi hay trục xuất – thường dân của hay ở trong vùng chiếm đóng – cố ý hủy diệt thành thị, hay làng mạc, hay phá hại mà không biện minh được là vì sự cần thiết quân sự. Trong những tội ác chống nhân loại là những hành động chống thường dân.

Những phương thức chúng ta dùng ngày nay ở Việt Nam gồm có chiến dịch chống thường dân thì gần như là diệt chủng chứ không phải là phương thức tiến hành chiến tranh như người Mỹ thường hiểu trước đây mà các quốc gia văn minh đã chấp nhận và ghi trong Luật Quốc Tế. Sự sử dụng bừa bãi và rộng lớn hơi cay, chất trừ sâu và chất khai quang là phần lớn trong những phương thức đó. [15]

2. Trong cuốn “Ecocide in Indochina: The Ecology of War”, Barry Weisberg, Canfield Press, San Francisco, 1970: Part 2; Overview. Chúng ta có thể đọc một đoạn trong bài của triết gia Jean Paul Sartre về “Tội Diệt Chủng” [Article #2: On Genocide] :

Nay chúng ta có thể nhận ra trong những linh hồn tăm tối và bị lạc dẫn đó sự thật về chiến tranh Việt Nam: nó có những tất cả những đặc điểm của Hitler. Hitler giết người Do Thái chỉ vì họ là người Do Thái. Quân đội Mỹ tra tấn và giết đàn ông, đàn bà và trẻ con ở Việt Nam chỉ vì họ là người Việt Nam. Chúng thường nói với nhau, “Chỉ có người Việt Nam chết mới là người Việt Nam tốt”, hoặc cùng ý như vậy, “Một người Việt Nam chết là một Việt Cộng.”

Chính phủ Mỹ có tội đã ưa, và còn đang ưa, một chính sách chiến tranh và xâm lược với mục đích diệt chủng thay vì một chính sách hòa bình, chính sách duy nhất có thể thực sự thay thế cho chính sách hiếu chiến..

Những cái nút buộc về “Một Thế Giới” mà Mỹ muốn áp đặt quyền bá chủ của mình, càng ngày càng xiết chặt. Vì lý do này, như người Mỹ biết rõ, chính sách diệt chủng hiện thời được quan niệm như là để đáp lại cuộc chiến tranh nhân dân và gây ra ở Việt Nam không chỉ chống nhân dân Việt Nam, mà là chống cả nhân loại.

Khi một nông dân ngã xuống trong ruộng lúa, bị quạt bởi súng máy, mọi người chúng ta cũng đều bị bắn trúng. Người Việt Nam chiến đấu cho mọi người chúng ta, và quân đội Mỹ chống lại tất cả chúng ta. Đây không phải là nói một cách bóng bẩy hay trừu tượng. Và không chỉ vì diệt chủng là một tội ác mà Luật Quốc Tế lên án khắp nơi, mà vì từng bước một, cả nhân loại sẽ bị hăm dọa diệt chủng chồng lên sự hăm dọa về vũ khí nguyên tử, nghĩa là một cuộc chiến tranh tuyệt đối, toàn diện.

Tội ác này, diễn ra trước mắt thế giới hàng ngày, làm cho những người không tố cáo nó trở thành đồng lõa với những kẻ phạm tội, cho nên ngày nay chúng ta đang thoái hóa cho tương lai nô lệ của chúng ta..

Theo nghĩa này, tội diệt chủng của đế quốc có thể trở thành trọn vẹn. Cái nhóm mà Mỹ muốn hăm dọa và khủng bố qua những hành động ở Việt Nam là cả nhân loại. [16]

Quý đọc giả có thể đọc thêm bài CHỦ NGHĨA KHỦNG BỐ VÀ DIỆT CHỦNG DÂN TỘC VIỆT NAM CỦA MỸ 1945 – 1974, [//www.sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts25.php] được dịch từ bài “American Terrorism and Genocide of the Vietnamese People, 1945-1974” trên
//www.intellnet.org/resources/american_terrorism/Vietnamesevictims.html

Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt 36 năm rồi. Khi chúng ta không biết những sự thật xung quanh cuộc chiến, chúng ta có một quan niệm khác. Nhưng nay, trước những tài liệu khả tín về cuộc chiến như trên, và đây chỉ là một số nhỏ, rất nhỏ, chúng ta không thể tự cho phép để tiếp tục tin vào những điều không thể tin được. Lẽ dĩ nhiên, những bài viết về lịch sử của tôi như nó đúng là như vậy, thường dựa trên rất nhiều tài liệu khả tín, trong đó không có một tài liệu nào của Cộng sản hay của Phật Giáo, có thể không làm hài lòng những người muốn tiếp tục cuộc thánh chiến chống Cộng. Cho nên họ vẫn chụp lên đầu tôi mấy cái mũ thân Cộng hay bênh Cộng. Thật là không thể hiểu nổi những đầu óc như vậy. Họ muốn tôi cũng phải xuyên tạc lịch sử, diễn giải mọi vụ việc ở Việt Nam theo chiều hướng tiêu cực để chống Cộng như họ, thí dụ như những đề nghị xây dựng đất nước của người dân phải được diễn giải như là thái độ của người dân chống chế độ, mọi tệ đoan xã hội đều phải đổ lên đầu chính quyền, những hành động vô cương vô pháp của Công giáo phải được diễn giải là tranh đấu cho tự do, dân chủ, trong khi bản chất của Công giáo là phi tự do, phi dân chủ. Làm gì có tự do dân chủ giữa người chăn chiên và con chiên?

Người Mỹ đã làm những gì ở Việt Nam để giúp Nam Việt Nam?

Nhiều lắm ! Đại cương là tàn phá đất nước Việt Nam, về sinh mạng cũng như về vật chất, nói là để cứu Nam Việt Nam. Trong khi có nhiều tác giả ngoại quốc, nhất là Mỹ, viết về sự kiện này, thì điều lạ là chúng ta không hề thấy những người hăng say chống Cộng, cho Chúa cũng như cho “lý tưởng quốc gia”, nếu chúng ta có thể gọi “chống Cộng” là “lý tưởng quốc gia”, đả động đến khía cạnh này của cuộc chiến, vậy thực ra là họ chống Cộng hay chống quốc gia Việt Nam?

Tôi đã trở thành một công dân Mỹ gốc Việt 31 năm nay rồi. Nhân danh là một công dân Mỹ, những gì tôi viết về Mỹ, chẳng phải là để chống Mỹ, mà chỉ là những sự thật về Mỹ, từ những tài liệu của chính người Mỹ. Cũng vậy, những gì tôi viết về Công giáo chẳng phải là tôi chống Công giáo, mà chỉ là những sự thật về Công giáo, từ những tài liệu nghiên cứu về Công giáo của các học giả Âu Mỹ, ở trong cũng như ở ngoài Công giáo.. Những người không ở trong lãnh vực nghiên cứu học thuật trí thức thì khó mà có thể hiểu được những điều này.

Kiến thức thu thập được từ những tài liệu có giá trị về cuộc chiến, về tôn giáo, tôi cho đây chính là sự đền bù lớn lao đối với tôi, về phương diện tri thức, để bù đắp lại sự mất mát do quyết định của tôi, tự bắt buộc phải rời quê hương mấy ngày trước ngày 30 tháng Tư, 1975.▪

Chú Thích:

1. During the Vietnam War, between 1962 and 1971, the United States military sprayed nearly 20,000,000 US gallons [75,700,000 L] of chemical herbicides and defoliants in Vietnam, eastern Laos and parts of Cambodia, as part of Operation Ranch Hand. The program's goal was to defoliate forested and rural land, depriving guerrillas of cover; another goal was to induce forced draft urbanization, destroying the ability of peasants to support themselves in the countryside, and forcing them to flee to the U.S. dominated cities, thus depriving the guerrillas of their rural support base and food supply.

The US began to target food crops in October 1961, primarily using Agent Blue. In 1965, 42 percent of all herbicide spraying was dedicated to food crops.]

Soldiers were told they were destroying crops because they were going to be used to feed guerrillas. They later discovered nearly all of the food they had been destroying was not being produced for guerrillas; it was, in reality, only being grown to support the local civilian population. For example, in Quang Ngai province, 85% of the crop lands were scheduled to be destroyed in 1970 alone. Widespread famine occurred as a result, leaving hundreds of thousands of people malnourished or starving.

2. Late in 1961, a high-level Defense Department official was making his first trip to South Vietnam. The defoliation program, aimed at destroying jungle used by the Viet Cong for cover, had begun in October and the official planned to take a first-hand look. He later gave a briefing to President Ngo Dinh Diem. Diem “pulled out a tremendous map and began to give me a briefing on how much land the Viet Cong controlled in the South”, the official recalled. “I found out later it probably was a standard briefing he gave to all visiting officials. Diem’s point was that the use of defoliants to deny the enemy jungle cover was well and good, but to really effective the chemicals had to be used against the Viet Cong’s crops. “This wasn’t what we wanted,” the Pentagon official said, “but we started using the stuff for crop killing. At first I insisted a Vietnamese officer go along to identify the target a Viet Cong-controlled, but this eventually was prostituted.

Early in February, 1962, the Soviet Union accused the United States of waging chemical warfare in South Vietnam. Izvestia reported that “the Pentagon has marked the beginning of the new year by an unprecedented action: the use of chemical weapons”. It said US airplaines were defoliating jungles and added: “The Air Force even started to destroy by poisonous gas the crops on the peasants’ fields in the regions where dissatisfaction is spreading.”

By the end of November 1961, according to Newsweek magazine, American special war troops had begun teaching Vietnamese fliers haw to “spray “Communist-held areas with a chemical that turns the rice fields, yellow, killing any crop being grown in rebel strongholds.” And by early 1963, according to United Press International and the Minnealpolis Tribune, the Vietnamese Air Force helicopters and planes were regularly using defoliants and herbicides to destroy crops in Viet Cong territory...

In September 1966, twenty-two scientists and doctors, including seven Nobel Prize winners, wrote a public letter to Johnson urging him to order an end to the use of chemical agents in Vietnam. The document was then sent to universities and scientist around the nation; by February, 1967, more than 5,000 U.S. scientists, now including 17 Nobel prize winners and 129 members of the the prestigious National Academy of Sciences, had signed. The remarkable collection was bound and sent to President Johnson on February 14 after a news conference that put the protest on the front pages of newspapers across the nation…

The American use of gas brought condemnation from around the world: a Frankfurt newspaper published a cartoon showing the Statue of Liberty wearing a gas mask; Mainichi Shimbun, one of Japan’s leading newspaper, carried a cartoon of Adolf Hitler’s hovering over Vietnam with a bag labeled “Vietnam” in his right hand. In New York, trhe Times published a sharply critiacl editorial noting that “in Vietnam, gas was supplied and sanctioned by white men against Asians. This is something that no Asian, Communist or not, will forget. No other country has employed such weapon in recent warfare.]

3. As the apparently inexorable advance of defoliation in South Vietnam continued, a number of scientists in the US began to protest the military use of the herbicides, contending that Vietnam was being used, in effect, as a proving ground for chemical and biological warfare. Early in 1966, a group of 29 scientists, under the leadership of Dr. John Edsall, a professor of biochemistry at Harvard, appealed to President Johnson to prohibit the use of defoliants and crop-destroying herbicides, and called the use of these substances in Vietnam “barbarous because they are indiscriminate” In the late 1966, this protest was followed by a letter of petition to President Johnson from 22 scientists, including 7 Nobel laureates. The petition pointed out that the large-scale use of anticrop and ‘non-lethal’ antipersonal chemical weapon in Vietnam” constituted “a dangerous precedent” on chemical and biological warfare, and it asked the President to order it stopped. Before the end of that year, Dr. Edsall and Dr. Matthew S. Meselson, a Harvard professor of biology, obtained the signatures of 5000 scientists to co-sponsor the petition.

4. Resolution Passed by the Council of the American Association for the Advancement of Science: December 30, 1969, Boston Massachusetts:

- Whereas, recent studies commissioned by the National Cancer Institute have shown that 2,4,5-T and 2,4-D cause birth malformations in experimental manimals, and

- Whereas, the above studies conclude that 2,4,5-T ia probably dangerous to man, and that 2,4-D is potentially dangerous to man, and

- Whereas, 2,4,5-T and 2,4-D are widely used for military defoliation in Vietnam in amount [20 to 30 lbs/acre] that are much greater than those used in civilian operations, and

- Whereas, there is a possibility that the use of herbicides in Vietnam is causing birth malformations among of infants of exposed mothers;

Therefore, be it resolved the Council of AAAS urge that the US Department of Defense immediately cease all use of 2,4-D and 2,4,5-T in Vietnam.

5. As if it were better to be “dead than red”, in the decade after 1964 the U.S. used in all some 15,724,000 tons of explosives [about half bombs, and half other munitions] in Vietnam, in all the seeming equivalent of over 700 Hiroshima-style atomic bombs. These dry figures encompass the use of some 400,000 tons of napalm, and some 19,114,000 gallons of herbicide [11,220,000 gallons of which was the notorious Agent Orange, and an estimated 170 kg of which were deadly dioxin], and left over 25 million craters in an area about the size of California. Most of the bombs [some 3,621,000 tons] and virtually all of the munitions and defoliants were unloaded on South Vietnam, over half of whose forests were heavily damaged…

At that point, terror was obviously far more apt to come from the sky than from the Communists. The American sociologist Philip Slater put it this way: to argue that the U.S. was trying to stop “Communist terror” is “a little like saying that when an elephant steps on a mouse, the mouse is an aggressor when it bites the elephant’s foot.”

6. When we [military scientists] initiated the herbicide program in the 1960s, we were aware of the potential for damage due to dioxin contamination in the herbicide. We were even aware that the 'military' formulation had a higher dioxin concentration than the 'civilian' version due to the lower cost and speed of manufacture. However, because the material was to be used on the 'enemy,' none of us were overly concerned. We never considered a scenario in which our own personnel would become contaminated with the herbicide.

7. In 1983, a Long Island federal district judge released damaging Dow Chemical Company documents.

Dow – the largest supplier of napalm and Ogent Orange to the government during the war – knew as early as the middle 1960s [1964] of evidence that exposure to dioxin might cause people to become seriously ill and even die. However, the company withheld its concern from the government and continued to sell herbicides contaminated by dioxin to the army, according to the documents.

8. The US justice department had urged the federal judge to dismiss the lawsuit.

In a brief filed in January, it said opening the courts to cases brought by former enemies would be a dangerous threat to presidential powers to wage war.

9. U.S. Urges Judge to Dismiss Suit on Chemical Use in Vietnam War

By WILLIAM GLABERSON
Published: February 28, 2005

The Justice Department is urging a federal judge in Brooklyn to dismiss a lawsuit aimed at forcing a re-examination of one of the most contentious issues of the Vietnam War, the use of the defoliant Agent Orange.

The civil suit, filed last year on behalf of millions of Vietnamese, claimed that American chemical companies committed war crimes by supplying the military with Agent Orange, which contained dioxin, a highly toxic substance.

The suit seeks what could be billions of dollars of damages from the companies and the environmental cleanup of Vietnam.

10. Not content with using explosives and napalm on civilians, millions of gallons of agent orange were sprayed on Vietnam’s land during America’s war on the Vietnamese. This environmental and humanitarian disaster killed about 400,000 persons and caused about 500,000 birth defects. Dioxin is persistent and its direct effects continue to the present time. Dioxin also damages human DNA so that its effects will persist in the Vietnamese population indefinitely.

No other country has ever before done such things to another.

11. It is ironic that at precisely the moment we are saying that we must “halt communism” in Vietnam, we are coming to terms with it elsewhere, working out new treaty agreements with Russia, extending trade in Eastern Europe, giving support to Tito in Yougoslavia. Elsewhere, we have clearly decide to coexist with communism, and to encourage independent Communist societies that will be increasingly free of the need for alliance with one another.

12. During the course of its 21 years of involvement in Indochina, the United States Government offfered “reasons” for its actions. These reasons were worthless. The only reason for the American being in Indochina was to prevent the area from going Communist by an election, by an internal revolution... And this was reason enough...

More reasons. And more reasons. They sprouted like asparagus in May. Before the Indochina War came to an end, a book could have filled with reasons. None of them were valid.

13. When France withdrew, the US dedicated itself at once to subverting the 1954 Geneva settlement, installing in the south a terrorist regime that killed perhaps 70000 “Viet Cong” by 1961, evoking resistance which, from 1959, was supported from the northern half of the country temporarily divided by the Geneva settlement that the US had undermined… In short, the US invaded South Vietnam, where it proceeded to compound the crime of aggression with numerous and quite appalling crimes against humanity throughout Indochina.

14. The direct U.S. invasion of South Vietnam followed our support for the French attempt to reconquer their former colony, our disruption of the 1954 “peace process”, and a terrorist war against the South Vietnamese population.. [p. 224]

There was a political settlement, the Geneva Accords, in 1954… We immediately proceeded to undermine them, installing in South Vietnam a violent, terrorist regime, which of course rejected [with our support] the elections which were projected. Then the regime turned to a terrorist attack against the population, particularly against the anti-French resistance, which we called the Vietcong, in South Vietnam. The regime had probably killed about 80,000 people [that means we had killed, through our arms and mercenaries] by the time John F. Keenedy took over in 1961… [p. 323]

In 1961 and 1962 Kennedy simply launched a war against South Vietnam. That is, in 1961 and 1962 the U.S. Air Force began extensive bombing and defoliation in South Vietnam, aimed primarily against the rural areas where 80% of the population lived. This was part of a program designed to drive several million people in concentration camps, which we called “strategic hamlets” where they would be surrounded by armed guards and barbed wire, “protected”, as we put it, from the guerrillas whom, we conceded, they were willingly supporting. That what we call “aggression’ or “armed attack” when some other country does it. We call it “defense” when we do it.

15. South Vietnam is a poor country. Most of its people are peasants, managing a subsistence economy through hard work on the land. The war has disrupted this frightfully. Not only has it been a quite unusually destructive war, carried out largely on an undefended countryside. Large numbers of young men for years have been taken from the farms to fight in the armies. Villages have been destroyed – bombed, burned out, bulldozed. In the free-fire zones everything that moves is fired on – people and farm animals. Enormous stretches of open rice paddies are pitted with an almost indecrible density of B-52 bomb craters.

As though all that were not enough, we have engaged in a systematic program of crop destruction, said euphemistically to be directed only agains the Viet Cong. South Vietnam, which used to export large amount of rice, now imports rice from the US. Dr. Jean Mayer, Professor of Physiology and Nutrition at the Harvard school of Public Health, has pointed out that though other means of warfare inevitably include civilians among the victims, crop destruction is almost exclusively directed against civilians, and indeed the most helpless civilians. The point is the simply enough. When food is short, soldiers get whatever food there is. It is the unarmed, helpless and feeble that go without – the old, the ill, pregnant women, and most of all, children.

I see no way to escape the conclusion that in South Vietnam we are systematically destroying a country and its people – the very country that we say we are fighting to preserve. We do that with the connivance of, often at the behest of, their own government – a venal, corrupt military dictatorship that we have sponsored and the the presevation of which our present Administration is committed. People, animals, trees, crops – all are being devastated; in great stretches of open fiels, that peasant families had tended by hand over many generations, the B-52 craters lie often edge to edge.

Why do we do it? The whole operation is smothered in hypocrisy, endless rhetoric, and fine language.

Just as our country was the prime mover in proposing the Geneva Protocol of 1925 banning gas and bacteriology warfare – which we still have not ratified – so our country had most to do with establishing the Nuremberg Priciples, which we have formally accepted, and which are now part of International Law. Among the war crimes are included “murder, ill-treatment or deportation – of civilian population of or in occupied territory – wanton destruction of cities, towns, or villages, or devastation not justified by military necessity>”Among the crimes against humanity are “inhumane acts done against any civilian population.

Our present procedures in Vietnam include operation against the civilian population that come closer to genocide than to waging of war as Americans have understood in the past, as generally accepted by civilized nations and embodied in International Law. The wide and indiscriminate use of tear gases, herbicides and defoliants looms large among those procedures.

16. Now we can recognize in those dark and misled souls the truth of the Vietnam war: it meets all of Hitler’s specifications. Hitler killed the Jews because they are Jews. The armed forces of the US torture and kill men, women and children in Vietnam merely because they are Vietnamese. [They often say themselves, “The only good Vietnamese is a dead Vietnamese”, or what amount to the same thing, “A dead Vietnamese is a Viet Cong”..

The American government is guilty of having preferred, and of still preferring, a policy of war and agression aimed at total negocide to a policy of peace, the only policy which can really replace the former…

The ties of the “One World”, on which the US wants to impose its hegemony, have grown tighter and tighter. For this reason, as the American very well knows, the current genocide is conceived as an answer to people’s war and perpetrated in Vietnam not against the Vietnamese alone, but against humanity.

When a peasant falls in the rice paddy, mowed down by machine gun, every one of us hit. The Vietnamese fight for all men and the American forces against all. Neither figuratively nor abstractly. And not only because genocide would be a crime universally condemned by International Law, but because little by little the whole human race is being subjected to genocidal blackmail piled on top of atomic blackmail, that is, to absolute, total war. This crime, carried out every day before the eyes of the world, renders who do not denounce it accomplices of those who commit it, so that we are being degraded today for our future enslavement..

In this sense, imperrialist genocide can only become more complete. The group which the US wants to intimidate and terrorize by way of the Vietnamese nation is the human group in its entirely. ▪

Trần Chung Ngọc

Grayslake, Illinois

Cuối Năm 2011

[sachhiem.net]

Video liên quan

Chủ Đề