Nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội là gì

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA – TP. HCM

Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
    • Đạo đức là cái gốc của người cách mạng
    • Đạo đức cách mạng được HCM quan tâm hàng đầu.
    • Người nói: “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
    • Người cách mạng phải có đạo đức mới hoàn thành được nhiệm vụ
    • Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, người cách mạng phải có đạo đức mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng.
    • Đạo đức là gốc, là nền tảng vì nó liên quan đến Đảng cầm quyền.
    • Nếu cán bộ, Đảng viên không tu dưỡng đạo đức thì mặt trái của quyền lực có thể làm tha hóa con người.
    • HCM yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”
    • Đức” đi đôi với “Tài”, vừa “hồng” vừa “chuyên”
    • TTHCM là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo.
    • Trong TTHCM, phẩm chất và năng lực thống nhất làm một.
    • Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của CNXH, theo TT HCM :
    • CNXH hấp dẫn bởi giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của người làm CS.
    • Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải là một tấm gương đạo đức trong sáng để quần chúng tin tưởng, noi theo.
    • Tâm gương đạo đức trong sáng nhưng rất bì dị của HCM là nguồn cỗ vũ động viên đối với toàn thể dân tộc

Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng

    • Trung với nước, hiếu với dân
    • Trung” và “Hiếu” là những khái niệm cũ trong tư tưởng đạo đức truyền thống VN và phương Đông.
    • Trung hiếu là đạo đức quan trọng nhất bao trùm nhất của con người.
    • Trung với nước” là trung thành tuyệt đối với sự nghiệp dựng nước và sự nghiệp giữ nước, với con đường đi lên của đất nước.
    • Hiếu với dân” thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, gắn bó mật thiết với dân, phục vụ nhân dân hết lòng, phài gần dân, kính trọng và học dân, lắng nghe nhân dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
    • Cân, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
    • Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi con người, là đại cương đạo đức HCM.
    • Là khái niệm truyền thống cũ, được HCM lọc bỏ nội dung không phù hợp và đưa vào nội dung mới để đáp ứng của yêu cầu CM.
    • Cần: là siêng năng, chăm chỉ , với tinh thân tự lực cánh sinh.
    • Kiệm: là tiết kiệm của nước, của dân và của bản thân.
    • Liêm: là trong sạch, không tham lam địa vị, tiền bạc.
    • Chính: là thẳng thắn, đứng đắn đối với mình, với người, với việc:

+ Đối với mình: không tự cao, tự đại, chịu khó học tập, luôn kiểm điểm mình.

+ Đối với người: không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới, thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.

+ Đối với việc: việc công lên trên việc tư, không ngại khó, cố gắng làm việc tốt cho dân, cho nước.

    • HCM nhấn mạnh: “Thiếu một đức thì không thành người”
    • Chí công vô tư là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị, nêu cao chủ nghĩa tập thể, loại trừ chủ nghĩa cá nhân, chống chủ nghĩa cá nhân nhưng không quên lợi ích cá nhân.
    • Tình yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất mà người cách mạng cần có và chấp nhận gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập, tự do, cơm no áo ấm, hạnh phúc cho con người.
    • Tình yêu thương con người phải được xây dựng trên lập trường giai cấp công nhân, đòi hỏi nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng và giàu lòng vị tha.
    • Tinh thần quốc tế trong sáng thủy chung
    • Chủ nghĩa quốc tế là phẩm chất quan trọng của đạo đức cộng sản. Nó bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân, vượt ra khỏi quốc gia, dân tộc.
    • Đó là tinh thần quốc tế vô sản, đó là sự tôn trọng, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản, với tất cả các dân tộc, nhân dân các nước.
    • Đoàn kết quốc tế là nhằm thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại.

Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới

    • Nói đi đôi với làm, phải nêu gương đạo đức

+ HCM coi đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong xây dựng nền đạo đức mới.

+ Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương đạo đức.

+ HCM cho rẳng, trong việc xây dựng một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải chú trọng “đạo làm gương”.

+ Người nhấn mạnh: Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách đạo đức.

Xây đi đôi với chống

    • Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống.
    • Trước hết là xây dựng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, các đối tượng, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp khác nhau.
    • Đồng thời xd các điển hình về tấm gương đạo đức và tuyên truyền cho những tầm gương đó.
    • Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo đức trong đời sống hàng ngày, cần phải phát hiện sớm, tuyên truyền, vận động hình thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh, trong sạch về đạo đức.
    • Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
    • Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hạnh động, đạo đức cách mạng mới bộc lộ ra những giá trị của mình.
    • Đạo đức cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác tu dưỡng đạo đức, phải kiên trì, bền bỉ rèn luyện, tu dưỡng mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh, tu dưỡng suốt đời.

Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức HCM

Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức HCM

    • Việc tu dưỡng đạo đức của mỗi người là rất quan trọng, thế hệ trẻ việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn vì họ là người chủ tương lai của đất nước, là cái cầu nối giữa các thế hệ.
    • Việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống hằng ngày của mỗi cá nhân không chỉ có giá trị tôn vinh, nâng cao giá trị chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt qua thử thách.
    • HCM không phân biệt đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường, đạo đức cán bộ và đạo đức công dân, ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
    • HCM đã xác định những phẩm chất đạo đức cần thiết để cho sinh viên thanh niên tri thức có phương hướng phấn đấu, rèn luyện.
    • Yêu chủ nghĩa xã hội: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn với yêu chủ nghĩa xã hội.
    • Để có được những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn luyện cho mình những đức tính như: trung thành, tận tụy, thật thà và chính trực,kiên trì tu dưỡng đạo đức cách mạng.

Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức HCM

    • Thực trạng đạo đức, lối sống trong sinh viên hiện nay
    • Đạo đức HCM là đạo đức cách mạng nêu cao chủ nghĩa tập thể, tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân. Đó là nền đạo đức phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc với những yêu cầu mới. Nhờ đó thanh niên tri thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh; luôn cần cù và sáng tạo; luôn gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc.
    • Do ảnh hưởng nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, sự bùng phát của lối sống thực dụng, những biểu hiện xa vời với mục tiêu XHCN, sự chống phá của các thế lực thù địch, “diễn biến hòa bình”.
    • Hậu quả là đã có một bộ phận sinh viên phai nhạt lý tưởng, mất niềm tin, thiếu trách nhiệm gia đình, xã hội và bản thân mình.
    • Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM
    • Một là, học trung với nước, hiếu với dân; suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
    • Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, sống giản dị, khiêm tốn.
    • Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, luôn nhân ái vị tha, khoan dung, nhân hậu với con người.
    • Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích sống.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng. 

Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.

 

- Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau:

 Một là, trung với nước hiếu với dân. 

Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.

 

Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.

 

“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.

 Hai là, yêu thương con người. 

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".

 

Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người.

 

Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời".

 

Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người.

 Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. - Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta". 

Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.

 

Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá".

 

Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.

 

Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.

 

Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.

 

Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".

 Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. 

Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng sự lãnh đạo của Đảng và việc rèn luyện của mỗi người.

 

+ Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.

 

Cán bộ đảng viên phải đầu tầu gương mẫu “miệng nói tay làm”, phải nêu tấm gương đạo đức cách mạng trước quần chúng; cán bộ, đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Sống theo phương châm “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Cổ vũ “người tốt, việc tốt”, các điển hình tiêu biểu.

  

Xây dựng nền đạo đức cách mạng, giáo dục chuẩn mực đạo đức mới, khơi dậy ý thức tự giác, đạo đức lành mạnh ở mọi người, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức. Nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân - nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, thứ giặc “nội xâm” phá từ trong ra.

 

+ Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.

 

Người cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi người mà đạo đức là do con người tiếp thu được qua giáo dục và tạo thành nhờ bản thân tích cực tu dưỡng bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và trong cuộc đấu tranh cách mạng. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển, củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong".

 

Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, Đảng và nhân dân ta quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, vận dụng các nguyên tắc xây dựng đạo đức mà Người đã nêu ra.

 

Theo Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn liền với kinh tế. Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời hy sinh cho cách mạng để giành lấy độc lập và tự do là nhằm xoá bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển mọi mặt của xã hội; phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, đạo đức, con người. Tinh thần này đã được thể hiện trong câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa".

 

Học tập tư tưởng trong đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước tiếp tục cổ động phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, dấy lên phong trào “người tốt việc tốt”, nêu gương sáng đạo đức cách mạng để mọi người tôn vinh và noi theo.

 

Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, bên cạnh việc xây dựng những phẩm chất đạo đức. Trung với nước, hiếu với dân, thương người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tinh thần quốc tế trong sáng nêu trong di sản của Người, chúng ta còn phải đấu tranh quyết liệt chống các tệ nạn xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị trường đang làm phương hại đến nền đạo đức cách mạng.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã sớm nhận ra sự nguy hiểm của bệnh "cá nhân", đó là nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế độ.

 

Ngay từ năm 1952, Người đã nêu rõ những tệ nạn cần phải chống gồm ba loại hình là tham ô, lãng phí quan liêu. Người coi những tệ nạn đó là tội ác, là kẻ thù khá nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng” phá từ trong phá ra. Người đã chỉ rõ tội lỗi của những kẻ tham ô, lãng phí quan liêu cũng nặng như tội lỗi "Việt gian, mật thám". Người cho rằng: "Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót".

 

Cuộc sống đang đòi hỏi phải làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống đạo đức của xã hội. Hai mặt đó phải tiến hành song song. Phải khắc phục các nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực; càng phải khắc phục nguyên nhân đã để cho các tệ nạn tiêu cực phát triển. Trong cuộc đấu tranh này, phải lấy việc xây dựng Đảng làm nhiệm vụ then chốt, như đã được nêu ra trong nhiều nghị quyết của Đảng.

 

Chúng ta càng thấm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn “Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” .

 

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, soi sáng cho Đảng và nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền đạo đức Việt Nam ngang tầm với những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.

 

NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

1. Đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của người cách mạng

Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng, từ rất sớm và xuyên suốt cuộc đời cách mạng của mình. Cuốn sách  Đường cách mệnh  năm 1927 không phải là một chuyên luận về vấn đề đạo đức cách mạng, nhưng ở trang đầu cuốn sách. Người đã nêu lên hai mươi ba điều về tư cách một người cách mạng, giải quyết ba mối quan hệ: Với mình, với người, với việc. Những thập kỷ bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, Người đều có những bài viết ngắn gọn, súc tích về đạo đức cách mạng. Trong  Di chúc,  Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Người coi đạo đức như gốc của cây, như nguồn của sông, cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?” [2] . Vai trò nền tảng của đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh khẳng định: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có  đạo đức cách mạng  làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [3] . Đạo đức trở thành nhân tố quyết định sự thành bại của mọi công việc, phẩm chất mỗi con người: “Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuận đạo đức cách mạng, hay là không”, “Tuy năng lực và công việc mỗi người có khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng”. Người từng khẳng định: “Chúng ta đem tinh thần mà chiến thắng vật chất” [4] . Chỉ nhìn về vật chất, chỉ nhìn ở hiện tượng, chỉ lấy con mắt hẹp hòi mà xem, thì không giải thích được thắng lợi của ta đối với kẻ thù lớn mạnh. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta theo chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng ta không những nhìn vào hiện tại mà lại nhìn vào tương lai, chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc. Cho nên chúng ta quả quyết trả lời những người lừng chừng và bi quan kia rằng:

Nay tuy châu chấu đấu voi,

Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra” [5] .

Đạo đức còn “có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành một xã hội mới và xây dựng mỹ tục thuần phong”. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…, khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”…, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo không hủ hoá”.

2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản

Nghiên cứu di sản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ta thấy Người có những lời dạy với những phẩm chất đạo đức cụ thể cho từng đối tượng. Người nêu cái đúng, cái tốt, cái hay, đồng thời cũng chỉ ra cái sai, cái xấu, cái dở để giáo dục đạo đức cho các tầng lớp nhân dân. Qua đó, Hồ Chí Minh đã nêu bật những phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới. Đây cũng là những phẩm chất của nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt Nam.

2.1. Trung với nước, hiếu với dân

Đây là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất và chi phối các phẩm chất khác. Trung, hiếu là những khái niệm đạo đức trong xã hội phong kiến phương Đông. Trên cơ sở kế thừa, phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, khắc phục, vượt qua những hạn chế của truyền thống đó, Hồ Chí Minh khẳng định  trung với nước, hiếu với dân  là một trong những phẩm chất của đạo đức cách mạng Việt Nam.

Hồ Chí Minh không gạt bỏ từ ngữ “trung, hiếu” đã ăn sâu, bám rễ trong con người Việt Nam với một ý nghĩa trách nhiệm, bổn phận của người dân, người con. Với khái niệm cũ, Người đưa vào đây một  nội dung mới, cách mạng, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn, không phải trung với vua và chỉ có hiếu với cha mẹ, mà “trung với nước, hiếu với dân”.

Đây là cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Người gạt bỏ điều cốt lõi nhất trong đạo đức Nho giáo là lòng trung thành tuyệt đối với chế độ phong kiến và ông vua phong kiến. Cái mà Nho giáo tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí Minh không thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức với kẻ áp bức mình, “Trung với nước” thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội; thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên của đất nước. Nước ở đây là nước của dân và dân là chủ nhân của nước.

Từ chỗ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” chuyển thành “trung với nước, hiếu với dân” là một sự đảo lộn trong quan niệm đạo đức truyền thống. Hồ Chí Minh đã viết: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [6] . Nhân dân từ chỗ là kẻ nghèo hèn, phải được chăn dắt, sai khiến trở thành lực lượng làm nên lịch sử, sáng tạo ra lịch sử. Trước, quan là phụ mẫu của dân, thì nay - Đảng, cán bộ, đảng viên là “đầy tớ trung thành của nhân dân”. Theo Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân là phải suốt đời đấu tranh cho cách mạng, ra sức làm việc, giữ vững kỷ luật, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Hồ Chí Minh dạy rằng, hiếu với dân thì phải hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết quần chúng chặt chẽ xung quanh Đảng, tổ chức tuyên truyền và động viên quần chúng hăng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của Đảng; phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Đảng, Nhà nước hoạt động phải gần dân, thân dân, lấy trí tuệ ở dân, học hỏi dân, phải biết làm học trò dân mới làm được thầy học của dân. Chỉ có thực hiện được như thế thì người cách mạng mới được dân tin yêu, cách mạng mới đi đến thành công.

2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

Phẩm chất này gắn bó chặt chẽ với phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”. Việc thực hiện phẩm chất này, đặt ra đối với tất cả mọi người, đòi hỏi mỗi người phải lấy bản thân mình làm đối tượng điều chỉnh. Nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trong công tác, sinh hoạt. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức phương Đông, đạo đức truyền thống Việt Nam, được Hồ Chí Minh tiếp thu chọn lọc, đưa vào những yêu cầu và nội dung mới. Người khẳng định: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước, cho dân” [7] .

Tháng 6-1949, với bút danh Lê Quyết Thắng, Hồ Chí Minh viết tác phẩm  Cần, kiệm, liêm, chính.  Sau đó, Người thường xuyên đề cập tới các phạm trù đạo đức này.

Hồ Chí Minh không chỉ giải thích nghĩa của cần, kiệm, liêm, chính mà Người còn nêu lên mối quan hệ giữa bốn phẩm chất đó: “Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn” [8] . So sánh với bốn mùa của trời, bốn phương của đất, Người cho rằng: “Thiếu một mùa thì không thành trời. Thiếu một phương thì không thành đất, thiếu một đức, thì không thành người”.

Cần, kiệm, liêm, chính đối với cán bộ đảng viên lại càng cần thiết, bởi vì: “Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút” [9] . Theo Hồ Chí Minh, càng có chức, có quyền càng cần phải cần kiệm, liêm, chính. Người viết: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân” [10] .

Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh, tiến bộ của một dân tộc. Người viết: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”  [11] .

Cần, kiệm, liêm, chính, vì vậy là “nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái quốc”; là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Đồng chí Phạm Văn Đồng cho rằng “cần, kiệm, liêm, chính là đặc điểm của xã hội hưng thịnh. Những điều trái lại là đặc điểm của xã hội suy vong”.

Chí công, vô tư là không nghĩ đến mình trước, hưởng thụ đi sau, là “lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào”. Điều mà Phạm Trọng Yêm đời Tống đã nói: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” đã được Hồ Chí Minh đưa thành nội dung phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Hồ Chí Minh đòi hỏi, thực hành chí công vô tư là phải “kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”. Bởi vì, chủ nghĩa cá nhân là trái với chủ nghĩa tập thể, trái với đạo đức cách mạng.

Hồ Chí Minh chỉ ra “chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu mệnh lệnh, v.v...”. Tóm lại, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu đậy. Nó là một kẻ địch, bạn đồng minh của các kẻ địch khác.

Vì vậy, đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch. “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân” [12] .

Tuy nhiên, cần có nhận thức về sự thống nhất giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, cần phân biệt giữa chủ nghĩa cá nhân và lợi ích cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”, chỉ “lo mình béo mặc thiên hạ gầy”. Như thế là phải “tiêu diệt”, “quét sạch”, “trừ bỏ”. Theo Hồ Chí Minh, “đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. “Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu  [13] . Hồ Chí Minh khẳng định: “chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình” [14] .

Chủ nghĩa cá nhân còn là mối nguy hại cho một Đảng, cho cả dân tộc: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” [15] . Người giải thích cho cán bộ làm sách “Người tốt việc tốt”: “Các chú có biết rằng dân tộc ta vĩ đại, Đảng ta vĩ đại, ta được anh em bầu bạn khắp năm châu yêu mến và ca ngợi là vì cái gì không? Vì cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta do Đảng ta lãnh đạo là chí công vô tư, mình vì mọi người. Từ nay về sau, nhân dân ta và Đảng ta phải giữ gìn và phát huy mãi mãi đạo đức trong sáng ấy” [16] .

2.3. Yêu thương con người

Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là từ thực tiễn cách mạng, từ cuộc sống của các dân tộc bị áp bức và giai cấp cần lao, Hồ Chí Minh cho rằng, trên đời này có hàng muôn triệu người, hàng trăm nghìn công việc nhưng có thể chia thành hai hạng người: người Thiện và người Ác, và hai thứ việc: việc Chính và việc Tà. Có lúc Người khái quát hai hạng người đó là hạng người đi áp bức bóc lột và hạng người bị áp bức bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ rõ: làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác. Cần phải thực hành chữ Bác ái. Khi trả lời các nhà báo, Người nói: Tôi yêu nhất điều thiện và ghét nhất điều ác.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Con người không phải thần thánh, có tốt có xấu ở trong lòng. Dù văn minh hay dã man, tốt hay xấu, đều có tình. Chúng ta cần làm cho trong mỗi con người phần tốt nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi.

Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chung chung trừu tượng kiểu tôn giáo, mà trước hết dành cho những người mất nước, người cùng khổ.

Hồ Chí Minh yêu thương con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la, vừa gần gũi, bao trùm cả cộng đồng đến từng số phận con người. Người thức tỉnh, tái tạo lương tâm, vạch hướng đi, đánh thức những gì tốt đẹp nhất trong mỗi con người, tạo điều kiện cho con người đứng dậy, vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.

Hồ Chí Minh yêu thương những con người đang sống trên trái đất này. Đó là tình yêu thương gắn liền với hành động cụ thể để mang lại cơm ăn, nước uống, trả lại nhân phẩm cho con người.

Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh vượt ra ngoài phạm vi dân tộc, mang tính nhân loại, vừa bốn biển năm châu, vừa bốn phương vô sản. Đó chính là một nội dung cơ bản của tinh thần quốc tế trong sáng thủy chung.

Hồ Chí Minh là bậc đại nhân, thể hiện tinh thần phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Đó cũng chính là phẩm chất đạo đức cách mạng “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục” mà người cộng sản quyết tâm thực hiện để phục vụ quần chúng nhân dân.

3. Những nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo đức mới

Nói đến tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, phải chú ý tới con đường và phương pháp hình thành đạo đức mới. Đặc điểm và quy luật hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho thấy rõ một số nguyên tắc xây dựng đạo đức mới cơ bản sau đây:

3.1. Tu dưỡng đạo đức bền bỉ suốt đời thông qua thực tiễn cách mạng

Theo Hồ Chí Minh, “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện cành trong.

Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người [17] . Vì vậy, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải “gian nan rèn luyện mới thành công”. “Hiền dữ đâu phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. “Kiên trì và nhẫn nại... Không nao núng tinh thần”.

Tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người và dư luận của quần chúng. Người cách mạng phải ý thức được đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng con người và là đạo đức của những con người được giải phóng. Đã hoạt động cách mạng thì khó tránh khỏi sai lầm và khuyết điểm. Vấn đề là phải cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm. Tu dưỡng đạo đức mới phải gắn với thực tiễn, bền bỉ mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Như vậy mới phân biệt được việc tu dưỡng đạo đức của người cộng sản với cách tu dưỡng của các nhà nho. Người viết: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ” [18] . Vì vậy, gột rửa chủ nghĩa cá nhân “ví như rửa mặt thì phải rửa hàng ngày”.

3.2. Nêu gương đạo đức, lời nói đi đôi với việc làm

Đây không chỉ là một nguyên tắc rèn luyện đạo đức, mà còn là ranh giới phân biệt giữa đạo đức cách mạng và không phải đạo đức cách mạng.

Nói nhưng không làm là đặc trưng đạo đức của giai cấp bóc lột. Lời nói phải đi đôi với việc làm và thực hành đạo làm gương là đạo đức của người cách mạng nói chung, nằm trong vốn văn hoá phương Đông nói riêng. Hồ Chí Minh viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [19] . Người nhấn mạnh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.

Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước... Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã” [20] . Người dạy “đảng viên đi trước”, để cho “làng nước theo sau”.

Đạo làm gương phải được quán triệt trong tất cả mọi đối tượng, mọi lĩnh vực: từ Đảng, Nhà nước, các đoàn thể đến nhà trường, gia đình, xã hội...

Đạo làm gương, lời nói đi đôi với việc làm của Hồ Chí Minh thực sự có một sức thu hút mãnh liệt, khiến cho cả dân tộc, nhiều thế hệ, các giai tầng xã hội đều tin tưởng đi theo tiếng gọi của Người.

3.3. Xây dựng đạo đức mới, đấu tranh với những hiện tượng phi đạo đức

Trong Đảng và mỗi con người, vì những lý do khác nhau, không phải “người người đều tốt, việc việc đều hay”. Vả lại, để tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh phải lâu dài và gian khổ. Cần có người cách mạng là vì còn có kẻ chống lại cách mạng.

Có nhiều kẻ địch, nhưng Hồ Chí Minh nhấn mạnh ba loại: chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm. Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân.

Từ đó Người kết luận:  “Đạo đức cách mạng  là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu” [21] . Đối với từng người, Hồ Chí Minh yêu cầu “trước hết phải đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình”. Với việc, với người thì nhất thiết phải phê phán, đấu tranh, loại bỏ những hiện tượng phi đạo đức, tàn dư đạo đức cũ. Hàng trăm thứ bệnh do chủ nghĩa cá nhân đẻ ra thì phải tiêu diệt, vì đó là cản trở lớn trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng phải thấy rằng, chống là nhằm xây, đi liền với xây và lấy xây làm chính. Lấy gương người tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới.

Ngày nay, tình hình mọi mặt so với thời Hồ Chí Minh còn sống đã có nhiều thay đổi. Nhưng nhiều cái xấu, cái ác, cái sai, cái vô đạo đức mà Người đã nêu lên từ những năm 1925-1927, trong  Đường cách mệnh,  đặc biệt từ năm 1945 trở đi, đến nay dưới nhiều biểu hiện khác nhau, vẫn tiếp tục tồn tại. Do đó, quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng đạo đức mới đấu tranh với những hiện tượng phi đạo đức vẫn có ý nghĩa thời sự.

III. TẤM GƯƠNG VÀ TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI

1. Thực trạng đạo đức của cán bộ, đảng viên và xã hội ta hiện nay

Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói tới đạo đức là xét trên ba mối quan hệ chủ yếu: với mình, với người, với việc. Biểu hiện cụ thể của ba mối quan hệ đó là sự hy sinh phấn đấu để thực hiện lý tưởng, mục tiêu, chấp hành kỷ luật và đường lối chính sách của Đảng. Thực hành đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin tưởng quần chúng, hiểu quần chúng, thực hành đại đoàn kết toàn dân. Đó chính là lòng nhân của người cách mạng. Đạo đức cách mạng là phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân, thực hành cần kiệm liêm chính...

Xét trên những lĩnh vực then chốt nhất của đạo đức, xã hội ta đã có những chuyển biến quan trọng. Trong sự nghiệp đổi mới, cán bộ, đảng viên nhân dân ta đã sáng suốt, kế thừa và phát huy trí tuệ của dân tộc và thời đại, tiêu biểu là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng một cách phù hợp vào điều kiện của đất nước. Đây là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho đời sống tinh thần - đạo đức của xã hội phát triển đúng hướng.

Ý thức phấn dấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước.

Nhiều nét mới trong giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức từng bước được hình thành và ăn sâu vào tâm lý quốc dân.

Tính năng động và tính tích cực công dân được phát huy, sở trường và năng lực cá nhân được khuyến khích. Không khí dân chủ trong xã hội tăng lên.

Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến thức mới, trung thành, dũng cảm, khiêm tốn, có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đạo lý của dân tộc sống có tình có nghĩa, bầu ơi thương lấy bí cùng, lá lành đùm lá rách... được tiếp tục nhân rộng. Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, quý trọng các danh nhân văn hoá, đền ơn đáp nghĩa những người có công, giúp đỡ đồng bào hoạn nạn... trở thành phong trào quần chúng.

Bên cạnh những thành tựu, nổi lên những mặt yếu kém về nhận thức, tư tưởng, chính trị dẫn tới phai nhạt lý tưởng và sa sút về lối sống, phẩm chất đạo đức. Hai vấn đề này gắn bó với nhau.

Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII trong thời gian gần đây đã thẳng thắn chỉ ra sự suy thoái nghiêm trọng về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức có quyền, cán bộ trung, cao cấp. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước, tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đoạ chưa dược ngăn chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ địa phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến. Riêng tham nhũng thì “chứng minh bao nhiêu cũng không đủ, càng nói càng thấy đau xót”. Phải khẳng định rằng, bệnh đã nặng, cho nên phải chữa tận gốc, chữa một cách cơ bản.

Về nguyên nhân, bên cạnh những nguyên nhân khách quan như sự phá hoại của kẻ địch, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, những tiêu cực của cơ chế thị trường, nước ta còn nghèo… thì phải nhấn mạnh tới những nguyên nhân chủ quan.

Đảng ta chưa lường hết những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, thiếu những biện pháp hữu hiệu cả “xây” và “chống” trên lĩnh vực đạo đức.

Việc xử lý những phần tử thoái hoá biến chất trong Đảng và bộ máy Nhà nước chưa nghiêm. Tinh thần tự phê bình và phê bình sa sút ở nhiều cấp bộ Đảng.

Trong lãnh đạo và quản lý có những biểu hiện buông lỏng, né tránh, hữu khuynh. ..

2. Học tập, rèn luyện theo tấm gương và tư tương đạo đức Hồ Chí Minh

Trước hết cán bộ, đảng viên, nhân dân phải nhận thức, quán triệt đầy đủ và rèn luyện đạo đức theo những nguyên tắc đã được Hồ Chí Minh nêu lên.

Rèn luyện trong thực tiễn, nêu gương đạo đức, “người tốt việc tốt”, “xây” đi liền với “chống”, tự phê bình và phê bình tạo ra phong trào thi đua rèn luyện đạo đức mới là những biện pháp tốt để xây dựng đạo đức trong tình hình hiện nay.

Không thể chỉ giản đơn đòi hỏi xây dựng đạo đức xã hội chủ nghĩa. Nhưng rõ ràng chủ nghĩa xã hội muốn thành công cần có đạo đức. Khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc học tập và thực hành theo tấm gương và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Văn kiện Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: Mở rộng trong Đảng và trong nhân dân phong trào học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Mỗi cấp ủy, mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm điểm việc thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.

Quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, trước hết phải thấm nhuần tư tưởng của Người về vai trò và các phẩm chất đạo đức. Điều quan trọng nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong sinh hoạt và công tác, không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, nói đi đôi với làm, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết khắc phục sự suy thoái đạo đức cũng như những tiêu cực trong xã hội theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, là một quá trình tạo ra những chuẩn giá trị đạo đức mới phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ nghĩa Mác-Lênin “Con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội” tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, trong những tư tưởng triết học về con người. Hồ Chí Minh xem đạo đức là gốc của nhân cách, Người viết “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”, “Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không”.

Nói về chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu là lòng yêu nước hay ở cấp độ cao hơn là chủ nghĩa yêu nước của con người Việt Nam. Suốt đời hoạt động của Người, từ khi lấy tên mình là “Ái Quốc” [yêu nước] cho đến khi qua đời, trong lời nói và hành động, Người luôn thể hiện và giáo dục mọi người chuẩn mực này. Người viết: “Dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn...”. Người khẳng định: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta có cơm ăn, áo mặc và được học hành...”. Chính Người đã nêu ra chuẩn mực “Trung với nước, Hiếu với dân”, thể hiện nội dung cụ thể của lòng yêu nước trong thời đại ngày nay. Trung với nước cũng có nghĩa là trung thành với lợi ích của dân tộc, làm việc hết sức mình vì sự phồn vinh của đất nước. Trung với nước phải gắn liền với Hiếu với dân, cũng có nghĩa là phải lấy dân làm gốc. Cán bộ, đảng viên phải phục vụ nhân dân, làm “đầy tớ trung thành của nhân dân”. Đó cũng là phẩm chất đạo đức bao trùm, quan trọng nhất và chi phối, quy định các phẩm chất khác.

Hồ Chí Minh viết: “Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít mà những tính tốt ngày càng thêm”. Những đức tính tốt đó chính là những nét cơ bản trong đạo đức của mọi người là: “Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm”. Người giải thích các đức tính đó:

- “Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân.

- Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, lúc Đảng giao việc thì bất kỳ to nhỏ, đều làm hết sức cẩn thận, thấy việc thì phải làm, thấy việc thì phải nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng luôn đúng đắn.

- Trí là đầu óc sáng suốt, biết xem người, biết xét việc. Vì vậy biết làm có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cân nhắc người tốt, đề phòng người gian.

- Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm, thấy khuyết điểm phải có gan sửa chữa, cực khổ khó khăn phải có gan chịu đựng... Nếu cần phải có gan hy sinh cả tính mạng cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè nhút nhát.

- Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài, không ham người tâng bốc mình. Quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”.

Tất cả các đặc trưng đạo đức cơ bản này đã được Đảng khẳng định trong Nghị quyết T.Ư 5 [khoá VIII] với tư cách là những đức tính tốt của con người Việt Nam hiện đại.

Từ những quan niệm về đạo đức của con người Việt Nam nói trên, Hồ Chí Minh đã đi đến làm rõ những chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên. Người quan niệm cán bộ, đảng viên là người phục vụ nhân dân, người phục vụ trung thành của nhân dân chứ không phải “làm quan phát tài”. Vì vậy những chuẩn mực, giá trị đạo đức của đảng viên trước hết ở tám chữ: “Cần Kiệm Liêm Chính, Chí Công Vô Tư”. Hồ Chí Minh giải thích:

Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai.

Kiệm [...] là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí.

Liêm là trong sạch, không tham lam, tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, đều là bất liêm.

Chính là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn, điều gì không thẳng thắn, đúng đắn tức là tà”.

Hồ Chí Minh chỉ ra rằng có mối quan hệ chỉnh thể “Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính. Như một cây cần có gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn”. Hồ Chí Minh cho rằng “nếu thiếu một đức thì không thành người”.

Hồ Chí Minh còn nâng các tiêu chuẩn đạo đức cần kiệm liêm chính lên thành thước đo văn minh tiến bộ của một dân tộc. Người viết: “Một dân tộc biết cần kiệm, biết liêm là một dân tộc văn minh tiến bộ. Cần kiệm liêm, chính là “nền tảng của đời sống mới, của thi đua Ái Quốc”, là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, tổ quốc và nhân loại”.

CHÍ CÔNG VÔ TƯ là không nghĩ đến mình trước, hưởng thụ sau là “Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào”. Đó chính là nội dung của chủ nghĩa tập thể. Vì vậy, để xây dựng được chuẩn mực này cần “Kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”.

Nói đến chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, cứ khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: Tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu mệnh lệnh...”. Phê phán chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh nêu cao chủ nghĩa tập thể trong mọi quyết định, mọi hành động thành chuẩn mực đạo đức xã hội.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức là một kho tàng lý luận, chuẩn mực toàn diện, đầy đủ cho một xã hội Việt Nam hiện tại và tương lai. Sự cao quý còn ở chỗ bản thân Người đã tự rèn luyện trở thành con người mẫu mực tuyệt vời về đạo đức, đã trở thành một Danh nhân văn hoá lớn của thế giới.

Video liên quan

Chủ Đề