Nhận xét về chính sách khai thác thuộc địa lần thứ 2 của thực dân Pháp

Sau khi căn bản hoàn thành công cuộc bình định bằng quân sự, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam một cách có quy mô. Do đó, qua nội dung bài viết dưới đây hãy cùng chúng tôi đi tìm hiểu về chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp?

Tổ chức bộ máy nhà nước

Thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, gồm có Việt Nam, Campuchia, Lào, đứng đầu là viên Toàn quyền người Pháp.

Việt Nam bị chia làm ba xứ với ba chế độ cai trị khác nhau: Bắc Kì là xứ nửa bảo hộ, Trung Kì theo chế độ bảo hộ và Nam Kì theo chế độ thuộc địa. Mỗi xứ gồm nhiều tỉnh, đứng đầu xứ và tỉnh là các viên quan người Pháp. Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu.

Đơn vị hành chính cơ sở ở Việt Nam vẫn là làng xã, do các chức dịch địa phương cai quản. Bộ máy chính quyền từ trung tương đến cơ sở đều do thực dân Pháp chi phối.

Chính sách cai trị về kinh tế

Thực dân Pháp đẩy mạnh việc cướp đoạt ruộng đất, ở Bắc Kì chỉ tính đến năm 1092 đã có đến 182000 ha ruộng đất bị Pháp chiếm, riêng giáo hội Thiên chúa đã chiếm 1/4 diện tích cày cấy ở Nam kì. Bọn chủ đất mới vẫn áp dụng phương pháp bóc lột nông dân theo kiểu phát canh thu tô như địa chủ Việt Nam.

Còn trong công nghiệp, trước hết bọn thực dân Pháp tập trung vào hoạt động khai thác than và kim loại. Chỉ tính riêng trong năm 1912 sản lượng khai thác than đã tăng gấp 2 lần sản lượng khai thác của năm 1903. Trong năm 1922 Pháp đã khai thác hàng vạn tấn quặng kẽm, hàng trăm tấn thiếc, đồng, hàng trăm kilogam vàng và bạc.

Sau công nghiệp khai thác, các ngành sản xuất xi măng, gạch ngói, điện nước, chế biến gỗ, xay xát gạo, giấy, diêm. Rượu, đường, vải sợi…cũng đem lại cho chúng một nguồn lợi nhuận vô cùng lớn.

Thực dân Pháp xây dựng hệt thống giao thông vận tải nhằm tặng cường việc bóc lột kinh tế và dễ dàng đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân.

Đường bộ vươn tới những nơi xa xôi hẻo lánh, đường thủy ven biển và kênh rạch ở Nam Kì được khai thác triệt để. Đến năm 1912 thì hệ thống đường sắt ở Việt Nam đã có tổng chiều dài lên đến 2059 km.

Để nắm giữ được sử độc quyền trong thị trường Việt Nam, hàng hóa của Pháp nhập vào Việt Nam chỉ bị đánh thuế rất nhẹ hoặc thuộc đối tượng miễn thuế. Trong khi đó hàng hóa được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu từ các nước khác thì phải chịu với mức thuế rất cao, có mặt hàng lên đến 120%, do đó mà hầu hết hàng hóa do Việt Nam sản xuất chủ yếu được xuất khấu qua Pháp.

Ngoài ra, Pháp còn tiến hành đánh các thứ thuế mới, chồng lên các thuế cũ đã có từ trước khi Pháp can thiệp vào Việt Nam. Trong đó nặng nhất phải kể đến thuế muối, thuế rượu, thuế thuốc phiện, đồng thời chúng còn bắt phu đắp đường, đào sông, xây cầu, dinh thự, đồn bốt…

Chính sách trong văn hóa, giáo dục

Tính đến năm 1919 thì Pháp vẫn duy trì chế độ giáo dục của thời kì phong kiến, song trong một số kì thi thì sẽ tổ chức thêm môn Tiếng Pháp. Về sau, do nhu cầu học tập của con em các quan chức thực dân và cũng như tạo một lớp cho người bản xứ nhằm phục vụ cho công việc cai trị sau này, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương đã bắt đầu mở thêm trường học mới cùng một số cơ sở văn hóa, y tế.

Từ đó, hệ thống giáo giục phổ thông được chia làm ba bậc đó là:

– Bậc Ấu học ở thôn xã, tập trung dạy chữ Hán và Quốc ngữ;

– Bậc Tiểu học ở phủ, huyện tập trung dạy chữ Hán, Quốc Ngữ và tiếng Pháp được xác định là môn tự nguyện;

– Bậc Trung học ở tỉnh, dạy chữ Hán, Quốc Ngữ và chữ Pháp là môn học bắt buộc.

Những chuyển biến của xã hội Việt Nam

Dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa của Thực dân Pháp, xã hội Việt Nam đã có nhiều chuyển biến như sau:

1/ Ở các vùng nông thôn

Giai cấp địa chủ phong kiến đã đầu hàng, chấp nhận làm tay sai cho thực dân Pháp với số lượng ngày càng tăng lên nhanh chóng. Một bộ phận đã cấu kết với đế quốc nhằm áp bức, bóc lột người dân. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phần các địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước.

Chính những điều này đã khiến cho đời sống nhân dân ngày càng lâm vào tình cảnh khổ cực. Họ bị tước đoạt hết ruộng đất, phải gánh chịu nhiều thứ thuế vô lý và vô số các khoản phụ thu của chức dịch trong các làng,

Nông dân bị phá sản, có người ở lại nông thôn làm tá điền cho địa chủ, một số khác bỏ đi làm phu cho các đồn điền Pháp, số khác ra thành thị kiếm ăn bằng những nghề phụ như cắt tóc, kéo xe… Một số còn lại thì làm công ở các nhà máy, hầm mỏ của tư bản Pháp và Việt Nam.

2/ Ở đô thị

Cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX, đô thị Việt Nam ra đời và phát triển ngày càng nhiều. Ngoài Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn – Chợ Lớn thì còn có Nam Định, Hòn Gai, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn…

Cùng với sự phát triển của đo thị thì một tầng lớp tư sản đầu tiên đã xuất hiện. Họ là các nhà thầu khoán, đại lí, chủ xí nghiệp, chủ xưởng thủ công, đông nhất là các chủ hãng buôn bán. Họ bị các nhà tư bản Pháp chèn ép, chính quyền thực dân kìm hãm. Song do bị lệ thuộc, yếu ớt về mặt kinh tế nên họ chỉ mong muốn có những thay đổi nhỏ để dễ bề làm ăn, sinh sống.

Ngoài ra, một tầng lớp đông đảo cũng xuất hiện trong giai đoạn này, đó là tiểu tư sản thành thị. Họ là các chủ xưởng thủ công nhỉ, cơ sở buôn bán nhỏ, những viên chức cấp thấp, như thông ngôn, nhà giáo, thư kí…cuộc sống của họ tuy có phầ dễ chịu hơn nông dân, công nhân và dân nghèo thành thị, song vẫn rất bấp bênh. Họ là những người có ý thức dân tộc, đặc biệt là các nhà giáo, thanh niên, học sinh nên rất tích cực tham gia vào các cuộc vận động cứu nước đầu thế kỉ XX.

Công, thương nghiệp phát triển nên cũng dẫn đến sự hình thành của đội ngũ công nhân. Họ chủ yếu có xuất thân từ nông dân, không có ruộng đất nên phải tìm đến các hầm mỏ, nhà máy, đồn điền… Công nhân và gia đình của họ bị thực dân phong kiến và tư sản bóc lột nên sớm đã có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống bọn chủ, đòi cải thiện điều kiện làm việc và sinh hoạt như tăng lương, giảm giờ làm…

Với nội dung bài viết phía trên, chúng tôi đã giải thích cho Quý khách về Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp? Nếu còn gì thắc mắc về vấn đề này thì Qúy khách hãy liên hệ đến tổng đài 19006557 để được hỗ trợ trực tiếp.

Em hãy nêu nhận xét về chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp ở Việt Nam. Chính sách đó đã tác động đến nền kinh tế Việt Nam như thế nào ?

Hướng dẫn làm bài:

Khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp ở Việt Nam gây ra những chuyển biến lớn về kinh tế, chính trị, xã hội

Tác động của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đối với kinh tế, xã hội Việt Nam :

Về kinh tế :

– Tích cực : Cuộc khai thác của Pháp làm xuất hiện nền công nghiệp thuộc địa mang yếu tố thực dân ; thành thị theo hướng hiện đại ra đời ; bước đầu làm xuất hiện nền kinh tế hàng hoá, tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế cũ bị phá vỡ.

– Tiêu cực : Một trong những mục tiêu của công cuộc khai thác thuộc địa là vơ vét sức người sức của nhân dân Đông Dương. Do vậy :

+ Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cùng kiệt;

Quảng cáo

+ Nông nghiệp dậm chân tại chỗ;

+ công nghiệp phát triển nhỏ giọt, thiếu hẳn công nghiệp nặng.

—> Nền kinh tế Việt Nam cơ bản vẫn là nền sản xuất nhỏ. lạc hậu và phụ thuộc.

Về xã hội : Bên cạnh các giai cấp cũ không ngừng bị phân hoá, xã hội Việt Nam đã xuất hiện thêm những giai cấp, tầng lớp mới :

– Giai cấp địa chủ phong kiến đã đầu hàng, làm chỗ dựa, tay sai cho thực dân Pháp. Tuy nhiên, có một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước.

– Giai cấp nông dân, số lượng đông đảo, bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, họ sẵn sàng hưởng ứng, tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Một bộ phận nhỏ mất ruộng đất vào làm việc trong các hầm mỏ, đồn điền.

– Tầng lớp tư sản đã xuất hiện, có nguồn gốc từ các nhà thầu khoán, chủ xí nghiệp, xưởng thủ công, chủ hãng buôn… bị kìm hãm, chèn ép. Vì thế lực kinh tế nhỏ bé, lệ thuộc nên họ không dám mạnh dạn đấu tranh, chỉ mong muốn có những thay đổi nhỏ để dễ bề làm ăn sinh sống.

– Tiểu tư sản thành thị, bao gồm chủ các xưởng thủ công nhỏ, cơ sở buôn bán nhỏ, viên chức cấp thấp và những người làm nghề tự do. Đó là những người có trình độ học vấn, nhạy bén với thời cuộc nên đã sớm giác ngộ và tích cực tham gia vào cuộc vận động cứu nước đầu thế kỉ XX.

– Công nhân phần lớn xuất thân từ nông dân, làm việc trong các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, lương thấp nên đời sống khổ cực, có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống giới chủ nhằm cải thiện đời sống.

Sau khi hoàn thành cuộc bình định, Pháp khai thác thuộc địa lần thứ nhất với quy mô lớn, để bóc lột nhân dân Việt Nam, đặt cơ sở thống trị lâu dài.

1. Tổ chức bộ máy nhà nước của thực dân Pháp

a. Mục tiêu của cuộc khai thác:

- Chia rẽ các dân tộc Đông Dương.

-Tăng cường áp bức, kìm kẹp làm giàu cho tư bản Pháp.

-Biến Đông Dương thành một tỉnh của Pháp.

-Tổ chức bộ máy nhà nước của thực dân Pháp.

-Năm 1887 Pháp lập Liên Bang Đông Dương.

b. Việt Nam bị chia làm ba xứ:

-Bắc Kỳ là xứ nửa bảo hộ đứng đầu là Thống sứ Pháp.

-Trung Kỳ với chế độ bảo hộ, đứng đầu là Khâm Sứ Pháp.

-Nam Kỳ theo chế độ thuộc địa, đứng đầu là Thống đốc Pháp.

-Mỗi xứ gồm nhiều tỉnh đứng đầu là viên quan người Pháp.

-Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, dưới là làng xã do quan chức địa phương cai quản.

c. Nhận xét về hệ thống chính quyền của Pháp

-Chặt chẽ, với tay xuống tận nông thôn.

-Kết hợp giữa nhà nước thực dân và phong kiến.

-Chia Việt Nam thành ba quốc gia riêng biệt là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ.

-Tất cả đều phục vụ cho lợi ích tư bản Pháp.

2. Chính sách kinh tế

- Tích cực: Cuộc khai thác của Pháp làm xuất hiện nền công nghiệp thuộc địa mang yếu tố thực dân; thành thị theo hướng hiện đại ra đời; bước đầu làm xuất hiện nền kinh tế hàng hoá, tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế cũ bị phá vỡ.

- Tiêu cực: Một trong những mục tiêu của công cuộc khai thác thuộc địa là vơ vét sức người, sức của nhân dân Đông Dương. Do vậy:

+ Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cùng kiệt

+ Nông nghiệp dậm chân tại chỗ

+ Công nghiệp phát triển nhỏ giọt, thiếu hẳn công nghiệp nặng.

+ Xây dựng hệ thống giao thông vận tải phục vụ cho công cuộc bóc lột

+ Thương nghiệp: độc chiếm thị trường VN, đánh các thuế mới, nặng nhất là thuế mối, rượu, thuốc phiện.

Nhận xét:

-Nền kinh tế Việt Nam lạc hậu, phụ thuộc.

-Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác triệt để.

-Nông nghiệp giậm chân tại chỗ.

-Công nghiệp phát triển nhỏ giọt, thiếu hẳn công nghiệp nặng.

3. Chính sách văn hóa, giáo dục

-Giai đoạn đầu, duy trì nền Hán học cũ.

-1905 cải cách giáo dục, mở trường đào tạo người Việt phục vụ cho cai trị của Pháp.

-Ấu học ở xã thôn học chữ Hán và chữ Quốc ngữ.

-Tiểu học ở phủ, huyện học chữ Hán,chữ Quốc ngữ và chữ Pháp.

-Trung học ở tỉnh học chữ Hán, chữ Quốc Ngữ, chữ Pháp bắt buộc.

-Nhận xét:

+ Hạn chế phát triển giáo dục.

+ Duy trì “văn hóa làng” theo hướng “bần cùng hóa” và “ngu dân hóa”

+ Duy trì thói hư tật xấu.

II. Những chuyển biến của xã hội Việt Nam

1. Sự hình thành các giai tầng mới trong xã hội

Bên cạnh các giai cấp cũ không ngừng bị phân hoá, xã hội Việt Nam đã xuất hiện thêm những giai cấp, tầng lớp mới:

- Giai cấp địa chủ phong kiến đã đầu hàng, làm chỗ dựa, tay sai cho thực dân Pháp. Tuy nhiên, có một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước.

- Giai cấp nông dân, số lượng đông đảo, bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, họ sẵn sàng hưởng ứng, tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Một bộ phận nhỏ mất ruộng đất vào làm việc trong các hầm mỏ, đồn điền.

- Tầng lớp tư sản đã xuất hiện, có nguồn gốc từ các nhà thầu khoán, chủ xí nghiệp, xưởng thủ công, chủ hãng buôn... bị kìm hãm, chèn ép. Vì thế lực kinh tế nhỏ bé, lệ thuộc nên họ không dám mạnh dạn đấu tranh, chỉ mong muốn có những thay đổi nhỏ để dễ bề làm ăn sinh sống.

- Tiểu tư sản thành thị, bao gồm chủ các xưởng thủ công nhỏ, cơ sở buôn bán nhỏ, viên chức cấp thấp và những người làm nghề tự do. Đó là những người có trình độ học vấn, nhạy bén với thời cuộc nên đã sớm giác ngộ và tích cực tham gia vào cuộc vận động cứu nước đầu thế kỉ XX.

- Công nhân phần lớn xuất thân từ nông dân, làm việc trong các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, lương thấp nên đời sống khổ cực, có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống giới chủ nhằm cải thiện đời sống.

2. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đô thị Việt Nam ra đời và phát triển, nên xuất hiện tầng lớp mới là tiểu tư sản thành thị, tư sản và công nhân

-Tầng lớp tư sản: chủ hãng buôn bán nhỏ; chưa hưởng ứng các cuộc vận động cách mạng

-Tầng lớp tiểu tư sản thành thị: chủ xưởng thủ công nhỏ, viên chức, sinh viên; có ý thức dân tộc, tích cực tham gia các cuộc vận động cứu nước đầu thế kỷ XX.

-Đội ngũ công nhân xuất thân từ nông dân bị bóc lột, có tinh thần đấu tranh.

3. Xu hướng mới trong cuộc vận động giải phóng dân tộc

-Tư tưởng dân chủ tư sản do ảnh hưởng của cuộc Duy Tân ở Nhật Bản truyền vào Việt Nam qua sách báo của Trung Quốc.

Sau khi căn bản hoàn thành công cuộc bình định bằng quân sự, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam một cách có quy mô. Do đó, qua nội dung bài viết dưới đây hãy cùng chúng tôi đi tìm hiểu về chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp?

Tổ chức bộ máy nhà nước

Thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, gồm có Việt Nam, Campuchia, Lào, đứng đầu là viên Toàn quyền người Pháp.

Việt Nam bị chia làm ba xứ với ba chế độ cai trị khác nhau: Bắc Kì là xứ nửa bảo hộ, Trung Kì theo chế độ bảo hộ và Nam Kì theo chế độ thuộc địa. Mỗi xứ gồm nhiều tỉnh, đứng đầu xứ và tỉnh là các viên quan người Pháp. Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu.

Đơn vị hành chính cơ sở ở Việt Nam vẫn là làng xã, do các chức dịch địa phương cai quản. Bộ máy chính quyền từ trung tương đến cơ sở đều do thực dân Pháp chi phối.

Chính sách cai trị về kinh tế

Thực dân Pháp đẩy mạnh việc cướp đoạt ruộng đất, ở Bắc Kì chỉ tính đến năm 1092 đã có đến 182000 ha ruộng đất bị Pháp chiếm, riêng giáo hội Thiên chúa đã chiếm 1/4 diện tích cày cấy ở Nam kì. Bọn chủ đất mới vẫn áp dụng phương pháp bóc lột nông dân theo kiểu phát canh thu tô như địa chủ Việt Nam.

Còn trong công nghiệp, trước hết bọn thực dân Pháp tập trung vào hoạt động khai thác than và kim loại. Chỉ tính riêng trong năm 1912 sản lượng khai thác than đã tăng gấp 2 lần sản lượng khai thác của năm 1903. Trong năm 1922 Pháp đã khai thác hàng vạn tấn quặng kẽm, hàng trăm tấn thiếc, đồng, hàng trăm kilogam vàng và bạc.

Sau công nghiệp khai thác, các ngành sản xuất xi măng, gạch ngói, điện nước, chế biến gỗ, xay xát gạo, giấy, diêm. Rượu, đường, vải sợi…cũng đem lại cho chúng một nguồn lợi nhuận vô cùng lớn.

Thực dân Pháp xây dựng hệt thống giao thông vận tải nhằm tặng cường việc bóc lột kinh tế và dễ dàng đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân.

Đường bộ vươn tới những nơi xa xôi hẻo lánh, đường thủy ven biển và kênh rạch ở Nam Kì được khai thác triệt để. Đến năm 1912 thì hệ thống đường sắt ở Việt Nam đã có tổng chiều dài lên đến 2059 km.

Để nắm giữ được sử độc quyền trong thị trường Việt Nam, hàng hóa của Pháp nhập vào Việt Nam chỉ bị đánh thuế rất nhẹ hoặc thuộc đối tượng miễn thuế. Trong khi đó hàng hóa được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu từ các nước khác thì phải chịu với mức thuế rất cao, có mặt hàng lên đến 120%, do đó mà hầu hết hàng hóa do Việt Nam sản xuất chủ yếu được xuất khấu qua Pháp.

Ngoài ra, Pháp còn tiến hành đánh các thứ thuế mới, chồng lên các thuế cũ đã có từ trước khi Pháp can thiệp vào Việt Nam. Trong đó nặng nhất phải kể đến thuế muối, thuế rượu, thuế thuốc phiện, đồng thời chúng còn bắt phu đắp đường, đào sông, xây cầu, dinh thự, đồn bốt…

Chính sách trong văn hóa, giáo dục

Tính đến năm 1919 thì Pháp vẫn duy trì chế độ giáo dục của thời kì phong kiến, song trong một số kì thi thì sẽ tổ chức thêm môn Tiếng Pháp. Về sau, do nhu cầu học tập của con em các quan chức thực dân và cũng như tạo một lớp cho người bản xứ nhằm phục vụ cho công việc cai trị sau này, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương đã bắt đầu mở thêm trường học mới cùng một số cơ sở văn hóa, y tế.

Từ đó, hệ thống giáo giục phổ thông được chia làm ba bậc đó là:

– Bậc Ấu học ở thôn xã, tập trung dạy chữ Hán và Quốc ngữ;

– Bậc Tiểu học ở phủ, huyện tập trung dạy chữ Hán, Quốc Ngữ và tiếng Pháp được xác định là môn tự nguyện;

– Bậc Trung học ở tỉnh, dạy chữ Hán, Quốc Ngữ và chữ Pháp là môn học bắt buộc.

Những chuyển biến của xã hội Việt Nam

Dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa của Thực dân Pháp, xã hội Việt Nam đã có nhiều chuyển biến như sau:

1/ Ở các vùng nông thôn

Giai cấp địa chủ phong kiến đã đầu hàng, chấp nhận làm tay sai cho thực dân Pháp với số lượng ngày càng tăng lên nhanh chóng. Một bộ phận đã cấu kết với đế quốc nhằm áp bức, bóc lột người dân. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phần các địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước.

Chính những điều này đã khiến cho đời sống nhân dân ngày càng lâm vào tình cảnh khổ cực. Họ bị tước đoạt hết ruộng đất, phải gánh chịu nhiều thứ thuế vô lý và vô số các khoản phụ thu của chức dịch trong các làng,

Nông dân bị phá sản, có người ở lại nông thôn làm tá điền cho địa chủ, một số khác bỏ đi làm phu cho các đồn điền Pháp, số khác ra thành thị kiếm ăn bằng những nghề phụ như cắt tóc, kéo xe… Một số còn lại thì làm công ở các nhà máy, hầm mỏ của tư bản Pháp và Việt Nam.

2/ Ở đô thị

Cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX, đô thị Việt Nam ra đời và phát triển ngày càng nhiều. Ngoài Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn – Chợ Lớn thì còn có Nam Định, Hòn Gai, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn…

Cùng với sự phát triển của đo thị thì một tầng lớp tư sản đầu tiên đã xuất hiện. Họ là các nhà thầu khoán, đại lí, chủ xí nghiệp, chủ xưởng thủ công, đông nhất là các chủ hãng buôn bán. Họ bị các nhà tư bản Pháp chèn ép, chính quyền thực dân kìm hãm. Song do bị lệ thuộc, yếu ớt về mặt kinh tế nên họ chỉ mong muốn có những thay đổi nhỏ để dễ bề làm ăn, sinh sống.

Ngoài ra, một tầng lớp đông đảo cũng xuất hiện trong giai đoạn này, đó là tiểu tư sản thành thị. Họ là các chủ xưởng thủ công nhỉ, cơ sở buôn bán nhỏ, những viên chức cấp thấp, như thông ngôn, nhà giáo, thư kí…cuộc sống của họ tuy có phầ dễ chịu hơn nông dân, công nhân và dân nghèo thành thị, song vẫn rất bấp bênh. Họ là những người có ý thức dân tộc, đặc biệt là các nhà giáo, thanh niên, học sinh nên rất tích cực tham gia vào các cuộc vận động cứu nước đầu thế kỉ XX.

Công, thương nghiệp phát triển nên cũng dẫn đến sự hình thành của đội ngũ công nhân. Họ chủ yếu có xuất thân từ nông dân, không có ruộng đất nên phải tìm đến các hầm mỏ, nhà máy, đồn điền… Công nhân và gia đình của họ bị thực dân phong kiến và tư sản bóc lột nên sớm đã có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống bọn chủ, đòi cải thiện điều kiện làm việc và sinh hoạt như tăng lương, giảm giờ làm…

Với nội dung bài viết phía trên, chúng tôi đã giải thích cho Quý khách về Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp? Nếu còn gì thắc mắc về vấn đề này thì Qúy khách hãy liên hệ đến tổng đài 19006557 để được hỗ trợ trực tiếp.

Video liên quan

Video liên quan

Chủ Đề