Những truyền thống hội thánh tin lành là gì năm 2024

Lịch sử hơn 100 năm truyền đạo Tin Lành vào Việt Nam được khởi đầu bởi các giáo sĩ thuộc Hội Truyền giáo Tin Lành C.M.A. Hiện tại, trong số hơn 1 triệu tín đồ Tin Lành tại Việt Nam có đến 80 % thuộc hai tổ chức là: Hội Thánh Tin Lành Việt Nam [Miền Nam] và Hội Thánh Tin Lành Việt Nam [Miền Bắc] vốn do Hội Truyền giáo Tin Lành C.M.A gây dựng nên. Hội Truyền giáo Tin Lành C.M.A đã để lại dấu ấn sâu đậm đối với quá trình truyền giáo của Tin Lành tại Việt Nam trong lịch sử cũng như trong hiện tại. Vì vậy, để có thể hiểu được những đặc điểm của Tin Lành tại Việt Nam cần phải tìm hiểu về quá trình ra đời, nội dung thần học, đặc trưng tổ chức, các giai đoạn phát triển cùng các hoạt động truyền giáo ở Bắc Mỹ và hải ngoại của tổ chức này. Bài viết này bước đầu đề cập đến các khía cạnh nêu trên.

Tác giả

để trả lời câu hỏi này, trước tiên chúng ta phải phân biệt những hệ phái trong thân thể Chúa Cứu Thế Giê-xu với những tà giáo và tôn giáo sai trật. Hội Thánh Trưởng Lão và Lu-The là những điển hình cho những hệ phái Cơ Đốc. Mặc-Môn và Chứng Nhân Giê-Hô-Va là những điển hình của tà giáo [họ khẳng định trở thành Cơ Đốc Nhân nhưng họ phủ nhận một hoặc nhiều hơn những tinh chất của niềm tin Cơ Đốc]. Hồi Giáo và Phật Giáo là những tôn giáo hoàn toàn khác biệt.

Sự gia tăng của những hệ phái trong vòng niềm tin Cơ Đốc Giáo truy nguyên từ sự cải cách Tin Lành, phong trào "cải cách" Nhà Thờ Công Giáo La Mã xuyên suốt thế kỷ thứ 16, trong đó có bốn bộ phận chính hoặc truyền thống của Tin Lành sẽ nổi lên: Lu-The, Cải Chánh, Ana-Báp-Tít và Anh Quốc Giáo. Từ bốn, các hệ phái đã được phát triển qua nhiều thế kỷ.

Hệ phái Lu-The được đặt theo tên của Mac-tin Lu-the và dựa vào những lời giảng dạy của ông. Hệ phái Giám Lý có được tên gọi này cũng bởi người tiên phong của họ, ông John Wesly, đã nổi tiếng với "phương pháp" để tăng trưởng thuộc linh. Hệ phái Trưởng Lão được đặt tên theo quan điểm của họ về sự lãnh đạo Giáo Hội - trong tiếng Hi Lạp người cao tuổi gọi là Trưởng Lão. Hệ phái Báp-Tít có tên này bởi vì họ đã luôn luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chịu phép báp-tem. Mỗi hệ phái có sự khác nhau một ít về mặt tín lý hoặc nhấn mạnh các đặc tính khác nhau, như phương pháp chịu phép báp-tem, bữa ăn tối của Chúa Giê-xu sẵn sàng cho tất cả mọi người hay chỉ cho những người có lời chứng được những người lãnh đạo hội thánh công nhận, sự tể trị của Chúa đối ngược sự tự do trong các vấn đề của sự cứu rỗi, tương lai của Do Thái và Hội Thánh, Hội Thánh được cất lên trước đại nạn đối ngược với Hội Thánh được cất lên sau đại nạn, sự tồn tại của "dấu lạ" là ân tứ trong thời đại hiện nay và v.v. Điểm chính của sự chia rẻ không bao giờ là Chúa, là Đấng Cứu Thế nhưng những khác biệt trung thực về ý kiến của những người kính mến Chúa, mặc dù không hoàn thiện nhưng họ có sự tìm kiếm để tôn vinh danh Chúa và giữ được độ tinh khiết của tín lý theo lương tâm và sự hiểu biết lời Chúa của họ.

Những hệ phái ngày nay thì rất nhiều và đa dạng, bản gốc "chính thống" của những hệ phái đề cập ở trên đã tạo ra nhiều hệ phái như Ngũ Tuần, Cơ Đốc Giáo, Liên Hiệp Truyền Giáo, Na-Za-Rét, Phúc Âm Tự Do, Hội Thánh Kinh Thánh Độc Lập, và nhiều hệ phái khác nữa. Một vài hệ phái nhấn mạnh những tín lý khác nhau không đáng kể đó với sự thường xuyên hơn nên họ tạo ra những phương thức thờ phượng khác nhau để phù hợp với sự khác biệt về sở thích và sự ưu tiên của các Cơ Đốc Nhân. Nhưng để không làm khác biệt: là những Cơ Đốc Nhân, chúng ta phải có đồng một tâm trí trong đức tin, nhưng ngoài ra có rất nhiều phương cách khác nhau mà những Cơ Đốc Nhân thờ phượng Chúa trong sự liên hiệp. Chính những phương cách khác nhau này là lý do tạo nên sự “đa hương vị" cho Cơ Đốc Giáo. Một Hội Thánh Trưởng Lão ở U-gan-da thì có phong cách thờ phượng khác với một Hội Thánh Trưởng Lão ở Cô-lô-ra-đô, nhưng đứng về phía tín lý thì hầu hết đều giống nhau. Sự đa dạng là điều tốt, nhưng mất đoàn kết thì không. Nếu hai hội thánh bất đồng về giáo lý thì kêu gọi để có cuộc đối thoại và tranh luận về Lời Chúa. Kiểu "sắt mài nhọn sắt" này [Châm ngôn 27:17] là ích lơi cho tất cả chúng ta. Tuy nhiên, nếu họ không đồng ý về phương cách hay nghi thức thì vẫn tốt để họ giữ lại sự riêng biệt. Với sự biệt riêng này, không làm mất đi trách nhiệm yêu thương lẫn nhau của các Cơ Đốc Nhân [1 Giăng 4:11-12] và sự hiệp một tối thượng trong Chúa Cứu Thế Giê-xu [Giăng 17:21-22].

Hội thánh Tin Lành Việt Nam [miền Nam] là một tổ chức giáo hội Tin Lành tại Việt Nam, là hệ phái lớn nhất trong số những hệ phái Tin Lành có tổ chức giáo hội tại nước này. Họ cũng thường được gọi là Hội thánh Tin Lành Việt Nam dù phạm vi hoạt động chỉ ở miền Nam, trụ sở Tổng Liên Hội đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Dù đồng nhất về giáo lý và cách thức tổ chức, nhưng hội thánh này hoạt động độc lập với Hội Thánh Tin Lành Việt Nam [miền Bắc] có trụ sở Tổng Hội đặt tại Hà Nội. Danh mục liệt kê tổ chức tôn giáo của Ban Tôn giáo Chính phủ cũng chỉ rõ đây là hai hội thánh Tin Lành độc lập nhau.

Nhà thờ Tin Lành Hòa Mỹ, số 246 Tôn Đức Thắng, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

Hội thánh Tin Lành Việt Nam miền Nam và miền Bắc đều là thành viên Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp [tiếng Anh: The Christian and Missionary Alliance, viết tắt C&MA]. Theo thống kê, C&MA toàn thế giới chỉ có khoảng 6,2 triệu thành viên [tín hữu], trong đó tại Việt Nam đã chiếm khoảng 1,5 triệu tín hữu.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Xuất phát từ Hội Thánh Tin Lành Đông Pháp năm 1927 và Hội Thánh Tin Lành Việt Nam năm 1945, tới năm 1954 sau hiệp định Genève, 1954, phần lớn các giáo sĩ và tín đồ Tin Lành di cư vào miền Nam nên tổ chức giáo hội ở phía nam được xem là sự tiếp nối của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam cũ.

Sau năm 1954, tại miền Bắc chỉ còn lại khoảng 10 mục sư, truyền đạo và khoảng 1000 tín đồ, tới năm 1958 khi sự thống nhất hai miền không diễn ra như dự định, các giáo sĩ, tín đồ ở miền Bắc đã lập ra giáo hội riêng với tên gọi là Hội Thánh Tin Lành Việt Nam [miền Bắc] do mục sư Dương Tự Ấp làm Hội trưởng, trụ sở đặt tại số 2 Ngõ Trạm, Hà Nội.

Tại miền Nam, với đại đa số giáo sĩ, tín đồ có mặt ở đây, hội Thánh Tin Lành Việt Nam tiếp tục hoạt động tại các tỉnh thành miền Nam, trong thời kỳ đầu do quan điểm ủng hộ Công giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm nên Tin Lành khó phát triển, tuy nhiên sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ và quân đội Mỹ vào miền Nam, đạo Tin Lành và Hội Thánh có nhiều điều kiện phát triển.

Với sự hỗ trợ đầu tư của Hội truyền giáo C&MA, Hội Thánh đã tập trung cho việc truyền giáo từ đồng bằng lên miền núi, từ thành thị đến nông thôn và đối với cả các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Cùng với hoạt động truyền đạo, Hội Thánh còn chú trọng đến các hoạt động từ thiện xã hội, năm 1957 thành lập Ủy ban cứu tế, năm 1959 xây dựng Bệnh viện Tin Lành Đà Lạt, năm 1960 xây dựng bệnh viện Tin Lành Pleiku và Chẩn Y viện Nha Trang,...

Về tổ chức, với sự tiếp nối Hội Thánh Tin Lành Việt Nam từ năm 1945 nên hội Thánh có ba cấp là Tổng liên hội, địa hạt và chi hội. Từ sau năm 1975, tổ chức thành 5 địa hạt.

Tại đại hội năm 2000, Đại hội đồng quyết định bỏ cấp địa hạt và chỉ còn 2 cấp hành chính là Tổng liên hội và Chi hội, tính đến nay Hội Thánh có 1.059 chi hội hoạt động tại 32 tỉnh, thành phố phía nam và Ban trị sự Tổng liên hội với 23 mục sư, truyền đạo với Hội trưởng đứng đầu.

Hội Thánh Tin Lành Việt Nam được chính phủ Việt Nam công nhận có tư cách pháp nhân vào ngày 3 tháng 4 năm 2001.

Giáo Lý Chủ yếu[sửa | sửa mã nguồn]

Giáo lý về Đức Chúa Trời:[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo trời đất, vạn vật và loài người và là Đấng bảo tồn muôn loài. [Sáng Thế Ký 1:1; Nê-hê-mi 9:6]
  • Đức Chúa Trời là Đấng Tự Hữu và Hằng Hữu, vốn có từ trước vô cùng và còn đến đời đời vô tận. Ngài là đầu tiên và cuối cùng, là Đấng đời đời.[Khải Huyền 1:8]
  • Đức Chúa Trời là Đấng Thần Linh cho nên không thể nhìn thấy Ngài bằng mắt thường mà chỉ có thể nhận biết sự hiện diện vinh quang của Ngài bằng mắt tâm linh. [Giăng 4:24]
  • Đức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài qua ít nhất 4 điều sau đây:
    • Qua thiên nhiên [[Sáng Thế Ký 1:1, Rô-ma 1:20]
    • Qua Chúa Giê-xu Christ [Giăng 14:7; Hê-bơ-rơ 1:2,3]
    • Qua Kinh Thánh [2Ti-mô-thê 3:16]
    • Qua các tín hữu [2 Cô-rinh-tô 3:3]
  • Đức Chúa Trời có Ba Ngôi: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, Đức Thánh Linh. Ba Ngôi bình đẳng và hiệp nhất hoàn toàn.[Ê-sai 6:3, Ma-thi-ơ 3:16-17, 28:19, 2 Cô-rinh-tô 13:13]
  • Bản tánh [bản chất] của Đức Chúa Trời:
    • Đấng Thần Linh: vô hình, không có thể chất, không bị vật chất hạn chế.[Giăng 4:24]
    • Đấng Tự Hữu và Hằng Hữu: Ngài tự nhiên hiện hữu và hiện hữu đến đời đời [Xuất Ê-díp-tô ký 3:14]
    • Đấng Bất Biến: Ngài không hề thay đổi [Ma-la-chi 3:16]
  • Thuộc Tánh của Đức Chúa Trời:
    • Toàn Năng: Ngài làm được mọi sự [Lu-ca 1:37]
    • Toàn Tri: Ngài biết tất cả mọi sự [1 Giăng 3:20]
    • Toàn tại: Ngài ở khắp mọi nơi cùng một lúc [Giê-rê-mi 23:24]
  • Mỹ Đức của Đức Chúa Trời:
    • Thánh khiết: [1 Phi-e-rơ 1:16]
    • Công bình: [Phục truyền Luật Lệ Ký 32:4]
    • Yêu Thương [1 Giăng 4:8]
    • Thành tín: [1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:24]
  • Con người có thể biết được về Đức Chúa Trời như vậy qua:
    • Lương tâm: Là bản năng thiên phú, không cần ai dạy, con người tự nhật biết Đức Chúa Trời [Ông Trời, Thượng Đế]. [Rô-ma 2:15]
    • Vũ trụ: Cả vũ trụ bao la, tuyệt điệu chứng minh phải do một Đấng Tạo Hóa vĩnh hằng, toàn tri, toàn năng, toàn tại dựng nên. Đấng đó là Đức Chúa Trời. [Thi Thiên 19:1]
    • Kinh Thánh: Qua Kinh Thánh Đức Chúa Trời đã tự bày tỏ chính Ngài và chân lý của Ngài cho nhân loại. [2 Ti-mô-thê 3:16]

Giáo lý về Đức Chúa Jesus[sửa | sửa mã nguồn]

Giáo lý về Đức Thánh Linh[sửa | sửa mã nguồn]

Giáo lý về Kinh Thánh.[sửa | sửa mã nguồn]

Giáo lý về sự sáng tạo và con người.[sửa | sửa mã nguồn]

Giáo lý về tội lỗi và sự cứu chuộc[sửa | sửa mã nguồn]

  • Chỉ tôn thờ Đức Chúa Trời Ba Ngôi hiệp một:
    • Đức Chúa Trời Toàn Năng là Cha.
    • Đức Chúa Giê-xu là Con Độc Sanh của Đức Chúa Trời và Cứu Chúa của nhân loại; Ngài được hoài thai bởi Thánh Linh và sanh bởi nữ đồng trinh Ma-ri. Đức Chúa Giê-xu đã chết vì tội lỗi nhân loại và đến ngày thứ 3 Ngài đã sống lại từ cõi chết, Ngài thăng thiên ngồi bên hữu Đức Chúa Trời toàn năng là Cha, từ đó Ngài sẽ trở lại để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
    • Đức Thánh Linh [Ngôi Thứ 3]: Có thân vị, thần tánh, tư cách, và công việc của Đức Chúa Trời. Biểu tượng của Hội thánh Tin Lành Việt Nam
  • Bốn chức vụ của Chúa Giê-xu được thể hiện trong biểu tượng của Hội thánh Tin Lành Việt Nam [gồm thập tự giá, ly tiệc thánh, , và mão triều thiên ở bốn phía của quyển Kinh Thánh] có thể được tóm tắt là "Chúa Giê-xu là Cứu Chúa, Đấng thánh hoá, Đấng chữa lành, và là Vua hầu đến":
    • Thập tự giá biểu trưng cho sự cứu rỗi bởi sự chết và sự sống lại của Chúa Giê-xu, Con Thiên Chúa.
    • Ly Tiệc Thánh [góc trái]: Mỗi tín hữu nhờ huyết Đức Chúa Jesus Christ được sạch tội, được thánh hóa, và được thông công.
    • Bình dầu [góc phải]: Mỗi tín hữu bởi niềm tin nơi Đức Chúa Jesus Christ và bởi quyền năng của Thánh Linh được chữa bệnh và thêm sức.
    • Mão triều thiên [góc dưới]: Phần thưởng Chúa ban cho mỗi tín hữu trung tín với Ngài trong ngày Đức Chúa Jesus tái lâm.
    • Kinh Thánh [chính giữa]: Lời Đức Chúa Trời là nền tảng giáo lý của Hội Thánh.

Những biểu trưng này thường được cho là bắt nguồn từ tư tưởng của John Wesley và Phong trào Thánh khiết.

Hội trưởng qua các thời[sửa | sửa mã nguồn]

  • Mục sư Hoàng Trọng Thừa [1927-1953]
  • Mục sư Dương Nhữ Tiếp [1928-1931]
  • Mục sư Trần Xuân Phan [1931-1932]
  • Mục sư Lê Đình Tươi [1933-1942]
  • Mục sư Lê Văn Thái [1942-1960]
  • Mục sư Đoàn Văn Miêng [1960-1976]
  • Mục sư Ông Văn Huyên [1976- 1999]
  • Mục sư Phạm Xuân Thiều [2001-2002]
  • Mục sư Dương Thạnh [2002-2005]
  • Mục sư Thái Phước Trường [2005-2013]
  • Mục sư Phan Vĩnh Cự [2013-2017]
  • Mục sư Thái Phước Trường [2018-Hiện nay]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Tin Lành tại Việt Nam

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  • Danh mục các tổ chức tôn giáo, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo
  • [//awf.world/country-description/vietnam/ Evangelical Churches of Vietnam [South]]
  • Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tôn Giáo 2007.
  • “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010.
  • ^ Kinh Thánh sách Sáng Thế Ký chương 1 câu 1: "Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất"
  • Kinh Thánh Nê-hê-mi chương 9 câu 6: "Ôi! chỉ một mình Chúa là Đức Giê-hô-va có một không hai; Chúa đã dựng nên các từng trời, và trời của các từng trời, cùng toàn cơ binh của nó, trái đất và các vật ở trên nó, biển và muôn vật ở dưới nó; Chúa bảo tồn những vật ấy, và cơ binh của các từng trời đều thờ lạy Chúa."
  • Kinh Thánh sách Khải Huyền chương 1 câu 8: "Chúa là Đức Chúa Trời, Đấng hiện có,đã có, và còn đến là Đấng Toàn năng, phán rằng: Ta là An-pha và Ô-mê-ga." [nghĩa là đầu tiên và cuối cùng]
  • Kinh Thánh sách Giăng chương 4 câu 24: "Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy." Kinh Thánh sách Rô-ma chương 1 câu 20: "bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được"

Đạo Tin lành đứng thứ mấy ở Việt Nam?

Danh sách.

Ai là người truyền đạo Tin lành vào Việt Nam?

Đến năm 1911, Mục sư R.A Jaffray cùng với hai cộng sự là Hosler và G.L Hugles đã đến được Đà Nẵng và nhờ ông Bornet [thuộc tổ chức Thánh Kinh Hội] giúp đỡ đã xây dựng được cơ sở truyền giáo đầu tiên tại Đà Nẵng và năm 1911 được xem là cột mốc để xác định việc truyền bá đạo Tin lành vào Việt Nam.

Tại sao đạo Tin lành không thờ Đức Mẹ?

Một số phái Tin lành cho rằng Kinh thánh nói Bà Maria sau khi sinh Chúa Giêsu còn sinh cho ông Giuse một số người con khác như đã trích dẫn trong Kinh thánh [Mt13: 55-56] [Gioan 2:12]. Do vậy, Tin lành không tôn sùng Maria như Công giáo.

Ai là người đứng đầu Hội Thánh Tin lành?

Hội đồng Tổng Liên hội được xem là nhánh lập pháp của giáo hội, trong khi quyền hành pháp được trao cho Ban Trị sự Tổng Liên hội, đứng đầu là Hội trưởng. Hội đồng bầu Mục sư Hoàng Trọng Thừa vào chức vụ Hội trưởng.

Chủ Đề