Phép biện chứng xem xét các sự vật, hiện tượng trong thế giới như thế nào

Mục lục

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biếnSửa đổi

Theo chủ nghĩa Mác -Lênin thì các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng đối với sự vật, hiện tượng khác. Đồng thời cũng qua đó phê phán cách xem xét của các nhà siêu hình học.

Đối với những nhà siêu hình học thì những sự vật và phản ánh của chúng vào trong tư duy, tức là những khái niệm đều là những đối tượng nghiên cứu riêng biệt, cố định, cứng đờ vĩnh viễn, phải xem xét từng cái một, cái này sau cái kia, cái này độc lập với cái kia
— Ăng-ghen[3]
Quan điểm siêu hình chỉ thấy những sự vật cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa những sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không thấy sự hình hành và tiêu vong của sự vật, chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật và không thấy trạng thái động của sự vật, chỉ thấy cây mà không thấy rừng
— Ăng-ghen[4]

Cơ sở khoa họcSửa đổi

Nguyên lý này được dựa trên một khẳng định trước đó của triết học Mác-Lênin là khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Engels đã nhấn mạnh điều này

Tính thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh không phải bằng ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của Triết học và khoa học tự nhiên
— Ăng-ghen[5]

Theo Hồ Chí Minh thì: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin.[6]

Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.

Liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới

Tính chấtSửa đổi

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

  • Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
  • Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào, ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác.
  • Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành nhiều loại: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, v.v.. Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng.

Để khái quát nên tính chất biến hóa của sự vật, hiện tượng, Ăng-ghen đã viết rằng:

Tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung nhau được, họ nói có là có, không là không. Đối với họ, một sự vật hoặc tồn tại hoặc không tồn tại, một hiện tượng không thể vừa là chính nó lại là vừa cái khác, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ nhau…. Ngược lại tư duy biện chứng là một tư duy mềm dẻo linh hoạt, không còn biết đến những đường ranh giới tuyệt đối nghiêm ngặt, đến những cái "hoặc là"…. "hoặc là"… "vô điều kiện" nữa [kiểu như: "hoặc là có, hoặc là không", hoặc tồn tại, hoặc không tồn tại"]. Tư duy biện chứng thừa nhận trong những trường hợp cần thiết bên cạnh cái "hoặc là"… hoặc là" còn có cả cái "vừa là…. Vừa là" nữa. Chẳng hạn, theo quan điểm biện chứng, một vật hữu hình trong mỗi lúc vừa là nó, vừa không phải là nó, một cái tên đang bay trong mỗi lúc vừa ở vị trí A lại vừa không ở vị trí A, cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau vừa không thể lìa nhau được[7][8]

Theo Lênin: Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật đó[9] và ông cũng cho rằng: Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đên tất cả các mặt của mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó.[10]

Biểu hiệnSửa đổi

Nguyên lý này biểu hiện rõ thông qua sáu cặp phạm trù gồm:

  • Cái chung và cái riêng
  • Bản chất và hiện tượng
  • Nội dung và hình thức
  • Nguyên nhân và kết quả
  • Khả năng và hiện thực
  • Tất nhiên và ngẫu nhiên

Bài 3. MỐI QUAN HỆ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC SỰ VẬT HIỆN TƯỢNG TRONG THẾ GIỚI

Bài 3
MỐI QUAN HỆ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC SỰ VẬT HIỆN
TƯỢNG TRONG THẾ GIỚI
Các sự vật hiện tượng trên thế giới khách quan luôn có mối liên hệ tác động qua
lại [tác động biện chứng với nhau] để tồn tại và phát triển, không có sự vật hiện
tượng nào trên thế giới không có mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác.
Chúng ta cùng nhau tìm hiểu biện chứng là gì? Tác động biện chứng là như thế
nào?
I. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng
a. Khái niệm biện chứng, phép biện chứng:
- Chủ nghĩa Mác – Lênin: Khái niệm biện chứng dùng để chỉ mối liên hệ,
tương tác, chuyển hoá, vận động và phát triển theo quy luật của sự vật, hiện
tượng, trong quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Biện chứng bao gồm: Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan
+ Biện chứng khách quan: là biện chứng của thế giới vật chất
+ Biện chứng chủ quan: là sự phản ánh của biện chứng khách quan vào trong
ý thức của con người.
Biện chứng khách quan chi phối toàn bộ thế giới tự nhiên
Biện chứng chủ quan tức là tư duy biện chứng, chỉ là sự phản ánh biện chứng
khách quan chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên vào dời sống ý thức của con người.
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của
thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ
thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn.
Với nghĩa như vậy, phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan.
- Phép biện chứng đối lập với phép siêu hình

Phép siêu hình

Phép biện chứng

+ Thừa nhận đối tượng ở trạng thái cô
lập, tách rời với các chỉnh thể khác và
giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới
tuyệt đối.

+ Thừa nhận đối tượng qua các mối liên
hệ của nó với các đối tượng khác và sự
ảnh hưởng, ràng buộc lẫn nhau giữa
chúng.

Tóm lại, phương pháp siêu hình là phương pháp xem sét sự vật trong trạng
thái biệt lập, ngưng đọng với một tư duy cứng nhắc; còn phương pháp biện

2

chứng là phương pháp xét sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau và trong
trạng thái vận động biến đổi không ngừng với tư duy mềm dẻo, linh hoạt.
b. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã qua
ba giai đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của nó:
phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
Phát triển theo 03 giai đoạn chính:

Thêi gian

ThÕ kû VII
TrCN III
SCN
ThÕ kû
XVIII-XIX

ThÕ kû XIXXX

H×nh thøc

§¹i biÓu

Néi dung
Mäi vËt ®Òu tån t¹i, nhng ®ång thêi l¹i
kh«ng tån t¹i, mäi vËt ®Òu tr«i ®i, mäi
vËt ®Òu kh«ng ngõng thay ®æi, ®Òu muèn

PhÐp biÖn
chøng cæ ®¹i

Hªra clit
ArÝtst«t

PhÐp biÖn
chøng duy
t©m

Cant¬
Hªgghen

PhÐp biÖn chøng ®îc x©y dùng t¬ng ®èi
hoµn chØnh, hÖ thèng, nhng duy t©m

PhÐp biÖn
chøng duy vËt

C.M¸c
¡ngghen
Lªnin

PhÐp biÖn chøng lµ khoa häc vÒ nh÷ng
quy luËt vËn ®éng chung nhÊt cña thÕ
giíi bªn ngoµi còng nh cña t duy loµi ngêi.

ë trong qu¸ tr×nh xuÊt hiÖn vµ biÕn ®i…

2. Phép biện chứng duy vật:
a. Khái niện phép biện chứng duy vật
Ăngghen đã nêu: “là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”
b. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin có hai đặc trưng cơ bản
sau:
- Đặc trưng thứ nhất: Phép biện chứng duy vật được xác lập trên nền tảng
của thế giới quan duy vật
Pt: Với đặc trưng này, phép biện chứng duy vật chẳng những có sự khác biệt
với phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng của Hêghen
[phép biện chứng được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy tâm], mà còn có sự
khác biệt về trình độ trình độ phát triển so với nhiều tư tưởng biện chứng đã có từng
trong lịch sử triết học từ thời cổ đại.
- Đặc trưng thứ hai: trong phép biện chứng duy vật có sự thống nhất giữa
nội dung thế giới quan [duy vật biện chứng] và phương pháp luận [biện chứng
2

3

duy vật]. Do đó, nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để
nhận thức và cải tạo thế giới
Pt: Mỗi nguyên lý, quy luật trong phép biện chứng duy vật chủ nghĩa MácLênin không chỉ giải thích đúng đắn về thế giới, mà còn phương pháp luận khoa học
của việc nhận thức và cải tạo thế giới.
Trên cơ sở khái quát các mối liên hệ phổ biến và sự phát triển trong tự nhiên,
xã hội và tư duy, phép biện chứng duy vật của CN Mác-Lênin cung cấp cho quá
trình nhận thức và cải tạo thế giới. Đó là nguyên tắc phương pháp luận khách quan,
toàn diện, lịch sử -cụ thể, phân tích mâu thuẫn tìm ra nguồn gốc, động lực cơi bản
của quá trình vận động, phát triển ... Với tư cách đó, phép biện chứng duy vật chính
là công cụ khoa học vĩ đại để giai cấp cách mạng nhận thúc và cải tạo thế giới.
Phép biện chứng duy vật là một nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới
quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời nó cũng là
thế giới quan và phương pháp luậnchung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh
vực nghiên cứu khoa học.
II. MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁC SỰ VẬT HIỆN TƯỢNG TRÊN THẾ GIỚI
Để hiểu rỏ hơn mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng trên thế giới chúng ta
cùng nhau tìm hiểu mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện tượng trong thế giới khách
quan là như thế nào?
1- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Nói lên các mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng trên thế giới, trước tiên
chúng ta cùng nhau tìm hiểu mối liên hệ là gì? Mối liên hệ phổ biến là như thế
nào?
a. Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến: có hai vấn đề đặt ra:
Thứ nhất, Các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới
có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập,
tách rời nhau?
Thứ 2, Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó?
Trong lịch sử triết học, để trả lời những câu hỏi đó ta thấy có nhiều quan điểm
khác nhau:
+ Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng
các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh
cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau.
Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài,
mang tính ngẫu nhiên.
Tuy vậy trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có một số người
cho rằng, các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng,
3

4

phong phú, song các hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển hóa
lẫn nhau.
Ví dụ: như giữa giới vô cơ và giới hữu cơ không có liên hệ gì với nhau; tồn tại
độc lập, không thâm nhập lẫn nhau hay tổng số đơn giản của những con người riêng
lẻ tạo thành xã hội, v.v..
Trái lại, những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng, các sự vật,
hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động
qua lại, chuyển hóa lẫn nhau.
+ Trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan
và chủ nghĩa duy tâm chủ quan trả lời rằng, cái quyết định mối liên hệ, sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên
[như trời] hay ở ý thức, cảm giác của con người.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống
nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.
Pt: Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có
khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới
duy nhất, thống nhất - thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể
tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau theo những quan hệ xác định.
- Khái niệm: Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định
rằng, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua
lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của
một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
VÝ dô:+ Hoa hång, gÊu tróc, nÊm d¹i, con c¸ sèng díi níc  cã chung b¶n chÊt lµ
sù sèng
+ Con ngêi cã m.l.hÖ chÆt chÏ víi tù nhiªn  con ngêi ko chØ phô thuéc
vµo m«i trêng tù nhiªn, ngîc l¹i MTTN còng biÕn ®æi bëi ho¹t déng lao ®éng cña
con ngêi
+ Mèi liªn hÖ gi÷a cung – cÇu trong nÒn kinh tÕ; mèi quan hÖ gi÷a kinh
tÕ vµ chÝnh trÞ...
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến: Dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên
hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới. [Nó thuộc đối tượng của phép biện
chứng: Mối liên hệ giữ các mặt đối lặp, chất và lượng; cái chung và cái riêng ....]
b. Các tính chất của mối liên hệ
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất
cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
4

5

- Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của
mọi sự vật, hiện tượng; nó không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Ví dụ: sự vận động của tự nhiên mưa, bảo, lũ lụt….hay sự vận động của xã hội.
Vd: Ngay cả những vật vô tri, vô giác chịu sự tác động bởi ánh sáng, nhiệt,
..con người chúng ta cũng phải chịu sự tác động của những người xung quanh, của
tự nhiên, của xã hội…
- Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào;
ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những
sự vật, hiện tượng khác.
Pt: Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một
yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác. Mối liên
hệ biểu hiện cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
VÝ dô: - TN: c©y muèn sèng th× ph¶i trao ®æi chÊt, quang hîp
- XH: Con ngêi muèn tån t¹i vµ ph¸t triÓn ph¶i tham gia vµo c¸c qu¸
tr×nh sx vËt chÊt... vµ trong qu¸ tr×nh nµy con cßn tham gia vµo c¸c ho¹t ®éng kh¸c
- Trong t duy mét ý nghÜ bÊt chît còng liªn quan ®Õn trc vµ sau khi nã
x.hiÖn
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau, hiện
tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ
biểu hiện khác nhau.
: +Có nhiều loại liên hệ khác nhau như: Liên hệ bên trong - liên hệ bên
ngoài, có mối quan hệ chủ yếu - mối quan hệ thứ yếu. [tìm hiểu sau]
+ Có mối quan hệ chung bao quát toàn bộ thế giới - có mối quan hệ bao quát
một số lĩnh vực riêng của thế giới.
Ví dụ:
Liên hệ giữa mặt trời và trái đất.
Liên hệ vô cơ- hữu cơ- chất sống.
Liên hệ thực vật với động vật,
. ..... những quan hệ đó bao quát toàn bộ thế giới tự nhiên.
Mối liên hệ riêng của thế giớ: kinh tế - chính trị - xã hội, mối quan hệ giữa loài
rắn, loài rùa...
+ Có mối quan hệ trực tiếp - có mối liên hệ gián tiếp mà trong đó có sự tác
động qua lại được thực hiện thông qua một số khâu trung gian.
Vd: Quan hệ trực tiếp chúng ta trực tiếp tham gia các hoạt động như: bầu cử,
ứng cử, đi học, tham gia cộng đồng nhà nước......
Quan hệ gián tiếp chúng ta phải thông quan khâu trung gian
5

6

vd: Chúng ta thực hiện quyền làm chủ thông qua cơ quan hay người đại diện,
trong thu hoạch lúa chúng ta phải thông qua: thợ cắt lúa, máy gặt đập liên hợp....
+ Có mối quan hệ bản chất - mối quan hệ không bản chất, liên hệ tất yếu liên hệ ngẫu nhiên. [chúng ta tìm hiểu sau]
+ Có mối quan hệ giữa các sự vật khác nhau, có mối quan hệ giữa các mặt
khác nhau của cùng một sự vật.
Vd: Mối quan hệ giữa các sự vật khác nhau như mối quan hệ: giữa các học viên
trong lớp chúng ta.... Mối quan hệ giữa các mặt khác nhau như trong cơ thể chúng ta
có: Đồng hóa và dị hóa đó là hai quá trình khác nhau tồn tại trong cùng sự vật....ở
thực vật có quá trình quang hợp lấy CO2 nhả o xi...
Sự vật, hiện tượng nào cũng vận động và phát triển của nhiều giai đoạn khác
nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có mối liên hệ với nhau tạo thành lịch sử phát triển
hiện thực của các sự vậ và các quá trình tương ứng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối quan hệ phổ biến của các sự vật,
hiện tượng, chúng ta rút ra được quan điểm toàn diện trong việc nhân thức, xem
xét các sự vật, hiện tượng cũng như trong hoạt động thực tiến, tránh xem xét
phiến diện một chiều, siêu hình máy móc không nhìn thấy được bản chất sự vật.
Đồng thời chống chủ nghĩa triết trung: Đặc trưng của nó là nhân danh quan
điểm toàn diện để kết hợp một cách vô nguyên tắc những mặt khác nhau mà thực chất
là không thể kết hợp được với nhau.
Vd: Người ta thường nói lấy râu ông này, cấm cằm bà kia.
Pt: Do vậy, Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong
mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật
và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ
trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự
vật.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối
liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ
chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối
liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm
đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.
Ví dụ: Để đánh giá một con người thì phải xem xét người đó cả về trí tuệ và
nhân cách của người đó, trong điều kiện môi trường khác nhau. Quá trình xem xét,
đòi hỏi chúng ta phải xem xét mối quan hệ chủ yếu nhưng không được xem một
cách dàn trải, cào bằng các mối quan hệ như nhau tránh tuyệt đối hóa sự vật ở một
mói quan hệ nào đó, dẫn đến chúng ta sai lầm về nhận thức.
- Vì các mối liên hệ có tính da dạng, phong phú - sự vật, hiện tượng khác nhau,
không gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt
6

7

động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác
động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể
trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.
Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều
kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Vì vậy để xác
định đúng đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ xây
dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước ta cũng
như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó và trong
khi thực hiện đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phù
hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.
Khi xem xét và giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải
chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử - cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới sự ra
đời và phát triển của nó, tới bối cảnh hiện thực - cả khách quan lẫn chủ quan. Khi
quan sát một quan điểm, một luận thuyết cũng phải đặt nó trong những mối quan hệ
như vậy. Chân lý sẽ trở thành sai lầm, nếu nó bị đẩy ra ngoài giới hạn tồn tại của
nó. Chẳng hạn, khi đánh giá vị trí lịch sử của mô hình hợp tác xã nông nghiệp ở
miền Bắc vào những năm 1960 - 1970, nếu chúng ta không đặt nó vào trong hoàn
cảnh miền Bắc, đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, đặc biệt từ giữa những
năm 1965 - khi đế quốc Mỹ đã đưa cuộc chiến tranh xâm lược bằng không quân ra
miền Bắc, không đặt nó trong điều kiện chúng ta còn thiếu kinh nghiệm trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội, còn bị ảnh hưởng rất lớn quan niệm về mô hình chủ nghĩa xã
hội đã được xác lập ở một loạt nước xã hội chủ nghĩa đi trước thì chúng ta, một là, sẽ
không thấy được một số giá trị tích cực của mô hình hợp tác xã trong điều kiện lịch
sử đó, hai là, sẽ không thấy hết những nguyên nhân bên trong và bên ngoài dẫn đến
việc duy trì quá lâu cách làm ăn như vậy, khi hoàn cảnh đất nước đã thay đổi.
2. Một số mối quan hệ cơ bản giữa các sự vật, hiện tượng
Gt: Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát
triển của các sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật tập trung nghiên cứu
những loại liên hệ chung, mang tính phổ biến nhất và là đối tượng của các ngành
khoa học khác.
Chúng ta cùng nhau tìm hiểu những mối quan hệ cơ bản của các sự vật, hiện
tượng của thế giới:
a. Mối quan hệ bên trong và mối quan hệ bên ngoài
- Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa
các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự vật;
nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật.
7

8

Vd: Trong cơ thể chúng ta có hai quá trình khác nhau đó là đồng hóa và dị hóa
nó đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của cơ thể [đây là nhân tố tiền đề].
- Mối liên hệ bên ngoàì là mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng khác
nhau; nói chung, nó không có ý nghĩa quyết định; hơn nữa, nó thường phải
thông qua mối liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng đối với sự vận động và
phát triển của sự vật.
Gt: Chẳng hạn, sự phát triển của một cơ thể động vật trước hết và chủ yếu là do
các quá trình đồng hoá và dị hoá trong cơ thể đó quyết định; môi trường [thức ăn,
không khí…] dù có tốt mấy chăng nữa mà khả năng hấp thụ kém, thì con vật ấy
cũng không lớn nhanh được.
Tương tự như vậy, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại vừa tạo ra
thời cơ, nhưng cũng vừa tạo ra những thách thức to lớn đối với tất cả các nước chậm
phát triển. Nước ta có tranh thủ được thời cơ do cuộc cách mạng đó tạo ra hay không
trước hết và chủ yếu phụ thuộc vào năng lực của Đảng, của nhà nước và nhân dân ta
Song, cơ thể cũng không thể tồn tại được, nếu không có môi trường; chúng ta
cũng khó xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nếu không hội nhập quốc tế, không
tận dụng được những thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mà thế
giới đã đạt được. Nói cách khác, mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi
khi có thể giữ vai trò quyết định.
b. Mối quan hệ giữa cái riêng, cái chung, cái đơn nhất
- Cái riêng: là phạm trù chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định.
Ví dụ: Nước Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Du, khối Asean, một con người, một
quốc gia, một cái bàn, một cái cây…là những cái riêng.
Trên thực tế không thể có 2 sự vật hoàn toàn giống nhau giữa chúng bao giờ
cũng có điểm khác biệt. Mặt không lặp lại chỉ riêng sự vật ấy mới có gọi là cái đơn
nhất.
Vd: Giữa các đồng chí không bao giờ giống nhau hoàn toàn cả, chúng ta khác
nhau về hình dạng, giọng nói, dấu vân tay...[cái đơn nhất của đ/c]

- Cái chung: là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự
vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Ví dụ: Cái chung, cái giống nhau của Việt Nam và TQ là nước XHCN, cái chung của
địa chủ và giai cấp tư sản là bóc lột, cái chung của lớp học chúng ta và các lớp học khóa
trước đều là lớp sơ cấp lý luận chính trị….
PT: Trong hiện thực, các sự vật dù khác nhau như thế nào chăng nữa nhưng chúng
luôn có những điểm giống nhau. Điểm giống nhau đó gọi là cái chung.
Vd: Theo các đ/c con người và sỏi đá có điểm giống nhau hay không? Giống nhau
đều là những dạng cụ thể của vật chất, chịu sự chi phối của cùng một số quy luật của thế
giới vật chất.
8

9

* Cái riêng, cái chung, cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, nhưng giữa chúng
có mối quan hệ hữ cơ với nhau:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện
sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng.
Chẳng hạn không có cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt, cây đào cụ
thể. Những cây cam, cây quýt, cây đào... nào cũng có rễ, có thân, có lá, có quá trình đồng hóa,
dị hóa để duy trì sự sống. Những đặc tính chung này lặp lại ở những cái cây riêng lẻ, và được
phản ánh trong khái niệm “cây”. Đó là cái chung của những cái cây cụ thể.
Điều đó khẳng định, Cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng
mà phải thông qua cái riêng.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung.
Pt: Nghĩa là không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái
chung.
Thí dụ, mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người không thể tồn tại ngoài
mối liên hệ với xã hội và tự nhiên.
Pt: Không cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy luật sinh học và quy luật xã
hội. Đó là những cái chung trong mỗi con người.
Một thí dụ khác, nền kinh tế của mỗi quốc gia, dân tộc với tất cả những đặc điểm
phong phú của nó là một cái riêng. Nhưng nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi quy luật
cung - cầu, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đó là cái chung. Như vậy sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái
chung.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ
phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng.
Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có
cái đơn nhất.
Thí dụ, người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các nước trên
thế giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông thôn, v.v., còn có đặc điểm
riêng là chịu ảnh hưởng của văn hóa làng xã, của các tập quán lâu đời của dân tộc, của điều
kiện tự nhiên của đất nước, nên rất cần cù lao động, có khả năng chịu đựng được những
khó khăn trong cuộc sống.
Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên
hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với
cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.
Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình
phát triển của sự vật.
Pt: Sở dĩ như vậy vì trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà
lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và
thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến.
9

10

Vd: Trong sản xuất nông nghiệp: Để tạo giống lúa mới chẳng hạn như OM 6976, ban
đầu khi lai tạo nó xuất hiện ở dạng đơn nhất, các nhà khoa học mới thí nghiệm ở điểm nào
đó lúc đó nó trở thành cái riêng, khi áp dụng đại trà nó trở thành cái chung.
Ngược lại cái chung không phù hợp chuyển về cái đơn nhất.
Vd: Lúa hàm châu một gốc tím đang là cái chung nhưng năng xuất thấp, từ từ không
sử dụng nữa trở thành cái đơn nhất…
Thí dụ, sự thay đổi một đặc tính nào đấy của sinh vật trước sự thay đổi của môi
trường diễn ra bằng cách, ban đầu xuất hiện một đặc tính ở một cá thể riêng biệt chẳng hạn
như sự biến đổi gen màu sắc của con tắc kè. Nếu phù hợp với điều kiện mới, đặc tính đó
được bảo tồn, duy trì ở nhiều thế hệ và trở thành phổ biến của nhiều cá thể [trở thành cái
chung]. nếu như những đặc tính không phù hợp với điều kiện mới, sẽ mất dần đi và trở
thành cái đơn nhất [chỉ có ở con tắc kè đó thôi và cái đơn nhất có thể mất đi, sự diệt vong
của các sinh vật không phù hợp với điều kiện mới].
c. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân: la sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc các
sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
- Kết quả: Là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mạt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Pt: Mọi sự vật, hiện tượng xuất hiện điều có nguyên nhân và kết quả của nó chẳng
hạn như các đồng chí dùng tay đánh vào bàn, kết quả tay đau….
- Trong mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả thì nguyên nhân là cái sinh ra kết
quả cho nên bao giờ nguyên nhân cũng có trước kết quả, kết quả bao giờ cũng xuất hiện
sau nguyên nhân.
Không có sự vật hiện tượng nào trong thế giới lại không có nguyên nhân tồn tại, vì
vậy mối quan hệ nhân quả trang bị cho chúng ta quan niệm đúng đắn vì mục đích sống của
mình….
- Mỗi sự vật hiện tượng có thể có nhiều nguyên nhân sinh ra.
Vd: Để có hiện tượng sấm sét [kết quả] đòi hỏi phải có nguyên nhân từ nước bốc hơi
ở nhiệt độ thấp đông lại thành mây, dưới ánh sáng mặt trời hình thành điện cực, va chạm
phóng tia lửa điện..
Những nguyên nhân này có vị trí khác nhau trong việc hình thành kết quả do vậy
trong nhận thức thực tiễn chúng ta cần phân loại các nguyên nhân để hình thành kết quả
[nguyên nhân bên trong, bên ngoài, chủ yếu, thứ yếu, trực tiếp, gián tiếp].
Vd: Một vụ tai nạn giao thông [kết quả] công an mới điều tra đâu là nguyên nhân để
xảy ra tai nạn do nạn nhân này say rượu [bên trong], hay do bị người khác va chạm [bên
ngoài]…
Khi kết quả hình thành nó không tồn tại thụ động, mà nó tác động lại, có thể định
hướng hoặc kiềm hãm nguyên nhân.
Vd: Khi kết quả tai nạn giao thông xảy ra rồi, tuyên truyền nhận thức của người tham
gia giao thông khắc phục nguyên nhân không uống rượu, lái xe nhanh…
10

11

d. Mối quan hệ tất nhiên, ngẫu nhiên
- Tất nhiên: [tất yếu] là do cái bản chất, do những nguyên nhân bên trong của sự
vật, hiện tượng quyết định và trong những điều kiện nhất định nó sẽ xảy ra đúng như
thế chứ không thể khác.

Vd: Chủ nghĩa tư bản sẽ bị diệt vong và chủ nghĩa xã hội sẽ ra đời thay thế là
tất nhiên [do bản chất chủ nghĩa tư bản…]
VD: Sự tương tác vào hạt giống trong những điều kiện nhất định thì sẽ nảy
mầm, thành cây và sinh hoa kết quả.
VD: Trong điều kiện bình thường, một đứa trẻ bình thường không bị dị tật thì sẽ
phát triển theo các giai đoạn như bò, đứng, đi….
- Ngẫu nhiên: Ngẫu nhiên là cái có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể
như thế này hoặc như thế khác, nó không chỉ do yếu tố bên trong của sự vật quyết
định mà còn phụ thuộc vào những nguyên nhân bên ngoài.
Vd: Chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ sụp đổ nhưng bắt đầu sụp đổ từ đâu, vào lúc nào là
ngẫu nhiên, không được qui định trước.
Vd: Con người ai cũng sẽ chết nhưng cái chết đến với mỗi người vào lúc nào, chết
như thế nào là ngẫu nhiên.
Vd: Trong lớp chúng ta cố gắng học tập hết chương trình có bằng tốt], nhưng mà có
một số đồng chí vì điều kiện gì đó không có bằng
Vd: Đồng tiền xu ta gieo xuống bàn xuất hiện mặt sấp hoặc ngữa là tất nhiên, Nhưng
việc xuất hiện sắp hay ngữa là điều ngẫu nhiên.
Vd: Làm nông nghiệp sản lượng lúa hàm châu làm đúng quy trình chúng ta đạt 30
giạ/công [tất nhiên], nhưng trong năm đó chúng ta đạt 40 giạ/công, hay là thấp hơn
e. Nội dung và hình thức:
- Nội dung: là phạm trù chỉ tổng hợp tất cả các mặt, các yếu tố cấu thành của sự
vật và quá trình vận động biến đổi của sự vật do sự tác động lẫn nhau giữ chúng gây
nên.
Vd: Nội dung của hệ thống trị ở nước ta là sự thống của các yếu tố cấu thành là Đảng
Cộng sản, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân cùng sự vận hành của hệ thống do sự tác
động lẫn nhau theo nguyên tăc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ..

- Hình thức: là phương thức tồn tại và phát triền của sự vật, là hệ thống
các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của chúng.
Pt: Hình thức bao gồm hình thức bên trong và hình thức bên ngoài, trong đó
hình thức bên trong có vai trò rất quan trọng, nó tác động mạnh mẽ đến nội dung.
Vd: Chủ nghĩa duy vật biện chững đề cập đến hình thức bên trong.
Vd: Trong một tác phẩm nghệ thuật, nội dung là tổng hợp các yếu tố như chủ đề
tư tưởng, tính cách các nhân vật cùng các tình tiết…hình thức bên trong là những
11

12

hình tượng nghệ thuật, bố cục, văn phong, bút pháp…hình thức bên ngoài là thể loại,
cách trình bày…
Vd: Nội dung cơ thể sống là toàn bộ [tế bào, khí quan, quá trình tạo nên cơ
thể], hình thức là cách sắp xếp trình tự tế bào của cơ thể tạo thành con hay cây]
f. Bản chất và hiện tượng:
- Bản chất: là phạm trù chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ
tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát
triển của sự vật đó.
Vd: Bản chất của tư sản? bót lột người lao động, trong lòng xã hội tư bản
đầy rẫy mâu thuẫn
Vd: Bản chất CNXH chúng ta đang xây dựng? vì nhân dân,,,,
- Hiện tượng: là phạm trù chỉ những mặt biểu hiện ra bên ngoài của bản
chất.
Vd: Bản chất là CNTS là bót lột tạo nên mâu thuẫn llsx thì nó biểu hiện bằng
các hiện tượng như : nạn thất nghiệp, cuộc sống truy lạc, đời sống cực khổ gia cấp
công nhân...
g. Mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực
- Khả năng: là phạm trù đùng để chí những gì hiện chưa có nhưng sẽ có, sẽ
xuất hiện khi có các điều kiện thích hợp.
Pt: Như vậy khả năng có tồn tại không? Khả năng thật sự tồn tại nhưng ở dạng
mần mống của sự vật mới trong hiện thực.
Vd: Trong lòng xã hội TBCN tòn tại nhiều mâu thuẫn như: giữa
LLSX>cho thấy khả năng sụp đổ của CNTB
Vd: gieo hạt giống khả năng sẽ này mầm nếu có đủ điều kiện: độ ẩm, nước,
không khí.
- Hiện thực: là phạm trù dùng để chỉ những gì sự thật sự đang tồn tại.
Vd: Mọi sự vật xung quanh ta và bản thân mỗi người chúng ta đều đang tồn
tại , đều là hiện thực.
Hạt giống đã nảy mầm, chúng ta đang hoạt động, cái cây, mái nhà…
Khả năng và hiện thực có mối quan hệ biện chứng với nhau tạo nên quá tình
phát triển vô tận của thế giới.
III. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA SỰ VẬT, HIỆN TƯỢNG TRONG THẾ GIỚI
1. Nguyên lý về sự phát triển
a. Khái niệm phát triển
12

13

Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập với
nhau: quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng.
- Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay sự giảm đi
đơn thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật; hoặc
nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một
vòng khép kín, chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những
người theo quan điểm siêu hình xem sự phát triển như là một quá trình tiến lên liên
tục, không có những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp.
- Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng xem xét sự phát
triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần,
vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách
quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường
thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần
dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường “xoáy ốc”
và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao
hơn.
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về
nguồn gốc của sự phát triển. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc
của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật
quy định. Quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó, cũng
là quá trình tự thân phát triển của mọi sự vật.
* Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong
hiện thực, quan điểm duy vật biện chứng khẳng định: phát triển là một phạm trù
triết học dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên:
tiến lên từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Ví dụ thế hệ người sau bao giờ cũng phát triển cao hơn thế hệ người trước
- Khái niệm phát triển với tư cách là một phạm trù triết học không đồng
nhất với khái niệm “vận động” [biến đổi] nói chung; không phải là sự tăng lên
hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn, lặp đi lạp lại ở chất cũ.
Đó chính là sự biến đổi về chất hướng ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình
độ ngày càng cao hơn.
* Phân biệt giữa phát triển và vận động: Theo quan điểm duy vật biện
chứng, phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát
triển sẽ nảy sinh những tính quy định mới cao hơn về chất, nhờ vậy, làm tăng cường
tính phức tạp của sự vật và của sự liên hệ, làm cho cả cơ cấu tổ chức, phương thức
tồn tại và vận động của sự vật cùng chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện
hơn.
b. Tính chất của sự phát triển
13

14

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển cũng có ba tính
chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
- Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. tồn tại bên ngoài
không phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay không nó
vẫn tồn tại.
Nguồn gốc của sự phát triển là nằm ngay trong bản thân sự vật đó là quá
trình tự thân vận động nên không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người;
Ví dụ; Cơ thể con người sống là quá trình đồng hóa và dị hóa
Hay là một cái cây lớn lên là do quá trình trao đổi chất bên trong của cây,
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người
- Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được
hiểu là nó diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện
tượng nào của thế giới khách quan.
Pt: Phát triển diễn ra trên tất cả các lĩnh vực: Tự nhiên – Xã hội và tư duy.
Tự nhiên: quy luật vẫn động phát triển của tự nhiên tồn tại xung quanh chúng
ta…
Xã hội: Quy luật phát triển của xã hội loài người….
Tư duy: Từ trực quan sinh động cho đến tư duy trừu tượng…
- Sự phát triển còn có tính đa dạng, phong phú. Phát triển là khuynh hướng
chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá
trình phát triển không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian
khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau.
Ví dụ: nói chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí
tuệ so với trẻ em ở các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành quả,
những điều kiện thuận lợi mà xã hội mang lại.
Trong thời đại hiện nay, thời gian công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước của
các quốc gia chậm phát triển và kém phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so với các quốc gia
đã thực hiện chúng do đã thừa hưởng kinh nghiệm và sự hỗ trợ của các quốc gia đi
trước. Song vấn đề còn ở chỗ, sự vận dụng kinh nghiệm và tận dụng sự hỗ trợ đó như
thế nào lại phụ thuộc rất lớn vào những nhà lãnh đạo và nhân dân của các nước chậm
phát triển và kém phát triển.
Những điều kiện nêu ra ở trên cho thấy, dù sự vật, hiện tượng có thể có những
giai đoạn vận động đi lên như thế này hoặc như thế khác, nhưng xem xét toàn bộ quá
trình thì chúng vẫn tuân theo khuynh hướng chung.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm phát triển:
14

15

-Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào
đó con người phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung
là phát triển.
- Trong thực tiễn: cần thất được tính quanh co phức tạp của quá trình
phát triển, cần thấy đực cái mới, cái tiến bộ và tạo điều kiện nó chiến thắng cái cũ
lác hậu.
Pt: [ Muốn vậy, xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân
chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm
ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến
triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi
hay có hại đối với đời sống của con người].
Trong tư tưởng: Quan điểm phát triển là cơ sở kế hoạch để giúp đỡ chúng ta
có niềm tin vào sự thắng lợi của lý tưởng CSCN mặc dù đang lâm vào thoái trào;
giúp ta có lòng tin vào công cuộc đổi mới của đất nước mặt dù còn nhiều khó khăn
thách thức.. [Đại hội XI của Đảng đã khẳng định: Đặc điểm nổi bật trong giai
đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát
triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt
vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó
khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá
của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.]
- Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định
kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
GT: Bảo thủ, trì truệ là tuyệt đối hoá về một nhận thức nào đó về sự vật có
được trong hoàn cảnh lịch sử nhất định ứng với giai đoạn nhất định của nó và xem
đó là nhận thức duy nhất đúng đắn về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp
theo của nó kết quả là sẽ đưa chúng ta đi đến sai lầm. Đó chính là bám lấy cái cũ, lạc
hậu, thậm chí đố kỵ cái mới; đó là khuynh hướng bi quan, dao động mỗi khi gặp khó
khăn, thử thách; sùng bái sức mạnh quy luật xem nhẹ vai trò chủ quan.., ỷ lại, trông
chờ, dựa dẫm, ngại đổi mới, bằng lòng thoả mã với cái đã có .. là bạn đồng hành với
chủ nghĩa quan liêu, độc doán và hậu qủa tất yếu là làm cản trở, thậm chí còn kéo lùi
sự phát triển.

2. Các quy luật phát triển cơ bản của các sự vật, hiện tượng
Khái niệm :
- Quy luật là những mối liên hệ bản chất tất nhiên, bên trong phổ biến
là được lặp đi lặp lại giữa các mặt, các yếu tố trong cùng một sự vật, hiện
tượng.
Trong thế giới có rất nhiều quy luật, có những quy luật chung, phổ
biến tác động trong mọi lĩnh vực thế giới cả trong tự nhiên, xã hội, tư duy
15

16

Vd: + Quy luật tự nhiên: Quy luật đấu tranh sinh tồn, quy luật mưa, gió,
bão lũ, quy luật của trời đất như Bác thường nói:
Trời có bốn mùa: Xuân hạ thu đông
Đất có bốn Phương: Đông, tây, nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một…………
+ Quy luật xã hội: các chuẩn mực đạo đức xã hội pháp luật: quy định về các
quy xử sự mang tính bắt buộc phải làm theo, các mối quan hệ xã hội xuất phát từ
hoạt động của con người..
+ Quy luật tư duy: Quy luật nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, sự tác động qua lại của quá trình nhận thức, quy luật tâm lí quá trình hưng
phấn và ức chế là hai quá trình song song…
- Trong thực tế lịch sử cho thấy, khi con người chưa nhận thức được quy luật
hoặc hành động tùy tiện, bất chấp quy luật thì sẽ bị quy luật “trừng trị” khi đó con
người trở thành “nô lệ” của tính tất yếu.
Ngược lại khi nhận thức được quy luật khách quan, chủ động, tự giác
hành động theo quy luật khách quan một cách tích cực, sáng tạo thì con người trở
thành Tự Do.
Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu ba quy luật cơ bản của các sự vật, hiện
tượng :
a. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại [hay còn gọi là quy luật về mối liên hệ giữa lượng
và chất]
Quy luật này nói lên sự vận động và phát triển không ngừng của các sự vật,
hiện tượng theo một quy luật nhất định chung, chúng ta tìm hiểu khái niệm quy luật:
* Khái niệm chất và khái niệm lượng
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó
thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng.
- Khái niện về chất: Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định
khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm
cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
+ Mỗi sự vật có nhiều thuộc tính. Chất của sự vật được biểu hiện thông qua
những thuộc tính của nó. Tuy nhiên, không phải thuộc tính nào cũng biểu hiện chất
16

17

của sự vật. Có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản, nhưng chỉ có những
thuộc tính cơ bản mới tạo thành chất của sự vật. Vì vậy, muốn biết chất của sự vật là
gì thì phải dựa vào, phải tìm ra thuộc tính cơ bản. Muốn vậy, chúng ta phải dự vào
mối quan hệ, tức là dựa vào sự tác động qua lại của sự vật đó với những sự vật khác.
Ví dụ: Trong quan hệ với động vật, thuộc tính cơ bản của con người là khả
năng chế tạo, sự dụng công cụ lao động và tư duy. Nhưng trong mối liên hệ giữa
con người với con người cụ thể với nhau thuộc tính cơ bản lại là nhân dạng, dấu vân
tay,…
VD: Như cái ly dùng để uống nước thì trong quan hệ ấy thuộc tính kín đáy,
rỗng trong là thuộc tính cơ bản nhất.
Nhưng nếu dùng cái ly để chặn giấy thì trọng lượng [cân nặng] là thuộc tính
quan trọng nhất, cơ bản nhất, lúc này ly không đáy hay có đáy không quan trọng
+ Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo
thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết
cấu của sự vật. Có những sự vật được tạo thành bởi những yếu tố như nhau nhưng
chất của chúng lại khác.
Ví dụ: Kim cương và than chì đều có thành phần hóa học là nguyên tố Cácbon. Nhưng do phương thức liên kết của nguyên tư Các – bon khác nhau nên chất
của chúng khác nhau: kim cương rất cứng còn than chì lại rất mềm.
Chất của sự vật luôn luôn gắn với lượng của sự vật
- Khái niệm về lượng: Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy
định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận
động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng của sự vật cũng giống như chất của sự vật, tồn tại khách quan, không
phụ thuộc vào ý chí, ý thức con người.
Trên thực tế, có những lượng có thể xác định được bằng các cách thức như cân,
đong, đo, đếm,…Đó là những lượng về vật chất, ví dụ: vận tốc của ánh sáng có thể
đo được là 300.000km/s, một phân tử nước gồm 2 nguyên tử hydro và một nguyên
tử oxy tạo thành.
17

18

Cũng có những lượng không thể xác định được mà chỉ có thể ước lượng, biểu
thị dưới dạng trừu tượng, khái quát. Đó là những lượng thuộc về tinh thần, ví dụ:
trình độ nhận thức tri thức khoa học của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp
của một công dân,…
* Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng.
Pt : Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa hai mặt chất
và lượng. VD: Một phân tử nước thì lượng gồm hai ion hyđrô và một ion oxy không
hơn không kém.
Trong hóa học O + O  O2 [oxy] tốt cho con người
O2 +O  O3 [ozôn] độc cho con người
Trong đó, chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi. Chúng
[lượng và chất] gắn bó chặt chẽ không tách rời nhau và tác động qua lại một cách
biện chứng.
Để làm rõ nội dung quy luật lượng – chất, chúng ta cần phân tích, tìm hiểu mối
quan hệ cũng như sự tác động qua lại giữa chúng:
- Lượng thay đổi nhưng chất chưa thay đổi
Trong một giới hạn nhất định, khi lượng của sự vật thay đổi nhưng chất
của sự vật chưa thay đổi cơ bản, giới hạn nhất định ấy được gọi là độ.
Pt : Như vậy, trong giới hạn của độ, có sự thống nhất giữa lượng và chất, sự vật
vẫn đang còn là nó, chưa chuyển sang cái khác.
Ví dụ: Dưới áp suất bình thường của không khí, sự tăng giảm nhiệt độ trong
khoảng giới hạn từ 00C đến 1000C, nước nguyên chất vẫn ở trạng thái lỏng. Như vậy,
khoản giới hạn từ 00C đến 1000C chính là độ, trong đó trạng thái của nước vẫn giữ
nguyên là trạng thái lỏng.
Như vậy, Độ: là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó, sự
thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
- Lượng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chất
+ Tại thời điểm lượng đạt tới một giới hạn nhất định sẽ làm sự vật thay đổi
về chất. Thời điểm đó được gọi là điểm nút.
18

19

Như vậy, tại điểm nút sự vật đã tích lũy đủ về lượng để làm cho chất mới ra đời.
Điểm nút là phạm trù triết học chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng
đã đủ để làm thay đổi về chất của sự vật.
Ví dụ: Trong ví dụ trên, 00C và 1000C là điểm nút vì tại những thời điểm đó,
nước từ thể lỏng chuyển sang thể rắn và thể hơi. Nghĩa là đã có sự thay đổi về chất.
+ Sự vật tích luỹ đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra
đời. .
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật
do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
VD: Giải thích sơ đồ trình chiếu
PT cho nghi :* Bước nhảy diễn ra hết sức đa dạng, phức tạp. Cơ thể chia
bước nhảy ra làm nhiều loại khác nhau:
- Dựa vào quy mô thực hiện bước nhảy:
+ Bước nhảy toàn bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của tất cả các mặt, các
yếu tố cấu thành của sự vật. Về mặt xã hội, bước nhảy toàn bộ thể hiện ở cách mạng
xã hội.
+ Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt, những
yếu tố riêng lẻ của sự vật. Về mặt xã hội, bước nhảy cục bộ thể hiện ở cải cách một
lĩnh vực nào đó.
Trên thực tế các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên muốn thực hiện
bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ.
Ví dụ: sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang diễn ra những bước nhảy
cục bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng ta đang thực hiện những bước
nhảy cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội…để đi đến bước
nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
- Dựa vào nhịp điệu thực hiện bước nhảy:
+ Bước nhảy đột biến: là bước nhảy thực hiện trong thời gian rất ngắn làm
thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
19

20

Vd: Lịch sử phát triển xã hội loài người theo Cmac phải trải qua năm hình thái
kinh tế xã hội: Nguyên thủy – chiếm hữu nô lệ - Phong kiến – TBCN – XHCH.
Nhưng ở nước ta đã chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ XHCN đó là bước
nhảy đột biến, đã bỏ qua chế độ xã hội TBCN. Bước nhảy đột biết chưa có sự tích
lũy đủ về lượng, việc bỏ qua chế độ TBCN nên việc xây dựng CNXH nước ta phải
qua giai đoạn quá độ [Thời kỳ quá độ hiện nay chúng ta đang xây dựng để chúng ta
tích lũy đủ về lượng tức là chúng ta tiếp thu, tích lũy những cái tiến bộ mà chế độ
TBCN đã có vd: kinh tế - Khoa học - kỹ thuật…]
+ Bước nhảy dần dần [bước nhảy từ từ]: là bước nhảy được thực hiện dần
dần, từ từ, từng bước bằng cách tích lũy dần dần những nhân tố của chất mới
và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi. thể hiện sự tích lũy đủ về lượng
mới dẫn đến sự thay đổi về chất.
Vd: Chẳng hạn, quá trình chuyển hóa từ vượn thành người diễn ra rất lâu dài,
hàng vạn năm. Quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài, qua nhiều bước nhảy dần dần.
Bước nhảy diễn ra vô cùng đa dạng, phức tạp. Vì trong điều kiện này đủ về
lượng, nhưng trong điều kiện khác trường hợp khác lại không đủ về lượng.
Ví dụ: Trong điều kiện 1at, nước sôi ở 100 0C, chuyển từ thể lỏng sang thể hơi,
nhưng trong điều kiện 0,9 at, chưa đạt 1000 C nhưng nước đã sôi.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi
đầu của một giai đoạn phát triển mới.
* Sự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng:
Khi chất mới ra đời, chất mới lại hình thành lượng mới và tạo điều kiện cho
lượng mới phát triển. Chất mới ấy có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
Ví dụ: Khi nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận tốc của các phân
tử nước tăng lên, thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn thể tích của nó ở trạng
thái lỏng với cùng một khối lượng.
20

Tải về bản full

Phương pháp luận biện chứng xem xét sự vật, hiện tượng trong

15/10/2020 8,399

Câu hỏi Đáp án và lời giải
Câu Hỏi:
Phương pháp luận biện chứng xem xét sự vật, hiện tượng trong
A. Trạng thái phát triển B. Trạng thái cô lập C. Sự ràng buộc lẫn nhau D. Sự đứng im
Câu hỏi trong đề: Trắc nghiệm GDCD 10 ôn tập kiến thức tổng hợp phần 1
Đáp án và lời giải
đáp án đúng: A
Phương pháp luận biện chứng xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái phát triển.

Lý thuyết: Phương pháp luận biện chứng xem xét sự vật, hiện tượng:

+ Trong sự ràng buộc lẫn nhau giữa chúng

+ Trong sự vận động và phát triển không ngừng của chúng

Ví dụ: tre già măng mọc, không ai tắm hai lần trên một dòng sông

Hoàng Việt [Tổng hợp]

Báo đáp án sai
Đang xử lý...

Cảm ơn Quý khách đã gửi thông báo.

Quý khách vui lòng thử lại sau.

1. Hai loại hình biện chứng và phép biện chứng duy vật

a. Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan

Biện chứng là quan điểm, phương pháp “xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối quan hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sính và tiêu vong của chúng”. Phương pháp tư duy này cho phép không chỉ nhìn thấy sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ qua lại giữa chúng, vừa thấy bộ phận vừa thấy toàn thể, không chỉ thấy cây mà còn thấy rừng. Bên cạnh quan niệm … hoặc là … hoặc là … còn có quan niệm … vừa là … vừa là.,.

Biện chứng lại được chia thành biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Biện chứng khách quan là khái niệm dùng để chỉ biện chứng của bản thân thế giới tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Biện chứng chủ quan là khái niệm dùng đê chỉ biện chứng của sự thống nhất giữa lôgíc [biện chứng], phép biện chứng và lý luận nhận thức, là tư duy biện chứng và biện chứng của chính quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người. Bởi vậy, biện chứng chủ quan một mặt phản ánh thế giới khách quan, mặt khác phản ánh những quy luật của tư duy biện chứng.

Giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan có mối quan hệ thống nhất với nhau, tạo nên cơ sở phương pháp luận của hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Sự khác nhau giữa chúng được Ph.Ăngghen chỉ ra, “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối,…, của sự vận động thông qua những mặt đối lập,…, thông qua sự đấu tranh thường xuyên… và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia,… Trong mối quan hệ này, biện chứng khách quan quy định biện chứng chủ quan, tức bản thân sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại biện chứng như thế nào thì tư duy, nhận thức của con người về chúng cũng phải phản ánh đúng như thế ấy.

Tính độc lập trong đối của biện chứng chủ quan với biện chứng khách quan được thể hiện trên thực tế: sự vật, hiện tượng được phản ánh và nhận thức của con người về chúng không hoàn toàn trùng khít nhau, bởi quá trình tư duy, nhận thức còn phải tuân theo những quy luật mang tính mục đích và sáng tạo của con người. Do vậy, Ph.Ăngghen đòi hỏi tư duy khoa học vừa phải phân định rõ ràng, vừa phải thấy sự thống nhất giữa biện chứng khách
quan và biện chứng chủ quan.

b. Khái niệm phép biện chứng duy vật

C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin không đưa ra một định nghĩa thống nhất nào về phép biện chứng duy vật, mà trong các tác phẩm của các ông có nhiều định nghĩa khác nhau về phép biện chứng duy vật. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, khi bàn về các quy luật, Ph.Ăngghen định nghĩa “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”. Khi chỉ ra nội dung chủ yếu của phép biện chứng, Ph.Ăngghen định nghĩa “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” có “Những quy luật chủ yếu: sự chuyển hóa lượng thành chất, – sự xâm nhập lẫn nhau của các mâu thuẫn đối cực và sự chuyển hóa từ mâu thuẫn này sang mâu thuẫn khác khi mâu thuẫn đó lên tới cực độ, – sự phát triển bằng mâu thuẫn hoặc phủ định của phủ định, – phát triển theo hình xoáy trôn ốc”.

V.I. Lênin định nghĩa “Phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”; khi bàn về cắc yếu tố của phép biện chứng, ông đưa ra định nghĩa, “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân cùa phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”.

Từ đây lại có thể chỉ ra một số đặc điểm và vai trò của phép biện chứng duy vật về đặc điểm, phép biện chứng duy vật hình thành từ sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng; giữa lý luận nhận thức và lôgíc biện chứng; mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều được luận giải trên cơ sở khoa học và được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của khoa học tự nhiên trước đó.

Về vai trò, phép biện chứng duy vật đã kế thừa và phát triển phép biện chứng từ tự phát đến tự giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung nhất, giúp định hướng việc đề ra các nguyên tắc tương ứng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn và là một hình thức tư duy hiệu quả quan trọng nhất đối với khoa học, bởi chỉ có nó mới có thể đem lại phương pháp giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong thế giới, giải thích những mối quan hệ chung, những bước quá độ từ lĩnh vực nghiên cứu này sang lĩnh vực khác.

Đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật là trạng thái tồn tại có tính quy luật phổ biển nhất của sự vật, hiện tượng trong thế giới, vấn đề này thể hiện trong các câu hỏi: sự vật, hiện tượng quanh ta và cả bản thân ta tồn tại trong trạng thái liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau và luôn vận động, phát triển hay trong trạng thái tách rời, cô lập nhau và đứng im, không vận động, phát triển?… Để trả lời câu hỏi trên, phép biện chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm hai nguyên lý, sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản.

Video liên quan

Chủ Đề