Phương pháp học tốt môn toán THCS

BÍ QUYẾT HỌC GIỎI TOÁN THCS

   Bí quyết học giỏi Toán THCS có lẽ là điều mà rất nhiều các bạn học sinh cấp 2 quan tâm. Nhiều HS cho rằng Toán là môn học khó nhất nhưng cũng có rất nhiều học sinh lại thấy đây là môn học dễ nhất. Thật vậy, Bí Quyết  Học Giỏi Toán THCS đó là phải hiểu được bản chất của vấn đề chứ không phải là cố gắng nhớ nhiều như các môn Văn, Sử, Địa...

Dưới đây là một số Bí quyết học giỏi Toán THCS, các bạn có thể tham khảo

1.Nắm chắc lý thuyết, định nghĩa

Dù không phải nhớ nhiều như các môn học khác, nhưng việc ghi nhớ định nghĩa, lý thuyết là một cách học tốt toán mà bạn bắt buộc phải áp dụng. Chỉ khi nhớ được các định nghĩa, tính chất thì bạn mới có thể áp dụng nó vào để chứng minh, giải thích kết quả.

2.Làm thật nhiều bài tập

Các cụ xưa vẫn có câu: "Trăm hay không bằng tay quen". Khi đến một ngôi làng lạ, chúng ta có thể bị lạc, phải mò mẫm tìm đường nhưng một đứa trẻ 10 tuổi trong làng lại có thể dẫn ta đi bất cứ ngóc ngách nào trong ngôi làng, đó là do nó đã quá quen thuộc với ngôi làng này.

Trong Toán học cũng vậy, sau khi ghi nhớ được các định nghĩa, lý thuyết thì bạn cần phải làm thật nhiều bài tập liên quan để có thể hiểu sâu sắc bản chất của vấn đề.

Khi làm thật nhiều bài tập, bạn sẽ gặp nhiều dạng bài khác nhau, nhiều cách tiếp cận vấn đề khác nhau, đòi hỏi bạn phải tìm tòi, khám phá thì mới có thể giải được bài toán. Nếu số lượng bài tập mà bạn làm đủ lớn thì sau này, khi làm bài kiểm tra hay khi đi thi, nếu gặp lại các dạng bài ấy, bạn sẽ dễ dàng tìm ra phương pháp giải toán mà không cần phải vò đầu bứt tai nữa.

3.Tự giác học là cách học giỏi Toán cực hiệu quả

Đôi khi trên lớp, những gì cô giáo giảng bạn đều hiểu nhưng đến khi làm bài tập thì bạn lại không thể tự mình làm được. Để thực sự chiếm lĩnh được kiến thức toán học thì bạn hãy đặt mục tiêu cho mình: Làm được tất cả các dạng bài từ dễ đến khó. Để làm được như vậy, bạn cần kiên nhẫn ôn lại những kiến thức cơ bản và làm những bài tập đơn giản trước.

Từ những kiến thức cơ bản sẽ giúp chúng ta nâng cao được những kiến thức khó hơn sau này. Thực chất, một vấn đề phức tạp là tổ hợp của rất nhiều vấn đề đơn giản, một bài toán khó có thể được giải bằng cách tháo gỡ từng mắt xích đơn giản. Vì thế, bí quyết để học giỏi môn Toán đó là bạn phải nắm vững được những vấn đề cơ bản nhất, sau đó dùng óc phân tích, tổng hợp để giải quyết những vấn đề khó hơn.

4.Bí quyết để học giỏi môn Toán là phải yêu thích môn học

Làm bất cứ việc gì mà có đam mê thì bạn sẽ quyết tâm hơn và cố gắng hơn rất nhiều. Trong Toán học cũng vậy, nếu yêu thích môn học này thì dù có gặp những bài toán khó, bạn cũng không dễ bị nản lòng mà càng có quyết tâm chinh phục, vượt qua nó. Nhiều bạn trẻ yêu Toán học đến nỗi mà không giải được một bài toán là cảm thấy khó chịu, ăn không ngon, ngủ không yên, đến khi tìm được cách giải thì mới thôi. Nếu quyết tâm như vậy thì chẳng mấy chốc bạn sẽ học giỏi môn Toán thôi.

5.Không học dồn

Dù học Toán hay học gì đi chăng nữa thì bạn cũng không nên học dồn. Bí Quyết  Học Giỏi Toán THCS đó là phải nắm được những kiến thức từ đầu năm chứ không phải đến khi kiểm tra, đến khi thi mới bắt đầu học dồn vừa không hiệu quả vừa hại sức khỏe. Ngoài ra, trong Toán học và nhiều môn học khác, các kiến thức có sự liên quan với nhau, phải nắm vững cái trước thì mới có thể học tốt cái sau, như vậy mới nhanh tiến bộ được.

Hy vọng rằng, Bí Quyết  Học Giỏi Toán THCS mà thầy Huy chia sẻ trên đây, các bạn học sinh sẽ thấy rằng môn Toán không quá khó như chúng ta vẫn tưởng và học môn này thật giỏi nhé.

Thầy Nguyễn Quang Huy - GV chuyên Toán THCS, hơn 15 năm KN. Nhận dạy toán các lớp 6,7,8,9 và ôn thi vào lớp 10. Củng cố, lấy lại kiến thức cho HS yếu mất gốc. Bồi dưỡng nâng cao cho HS khá, giỏi.

Liên hệ: thầy Huy. Hotline 0912 382 511.

Đ/C: 406,C9, Thanh Xuân Bắc,quận Thanh Xuân, Hà Nội.

Email: 

Tags: bí quyết học giỏi toán thcs; bi quyet học gioi toan thcs; biquyethocgioitoanthcs

TÌM KIẾM LIÊN QUAN:

CÁC LIÊN KẾT HỮU ÍCH:

SỐ LƯỢT TRUY CẬP


Visitor Counter

1/Phân loại học sinh:

Trong quá trình giảng dạy tôi thường xuyên theo dõi, điều tra để phân loại học sinh trong lớp, thường là năm loại: Giỏi – khá – trung bình – yếu – kém, từ đó có những yêu cầu khác nhau, vận dụng phương pháp dạy học đối với từng loại, mức độ khó, dễ thích hợp cho từng loại trong đàm thoại, trong tập dợt nghiên cứu và yêu cầu bài tập ở nhà.

Với các em học sinh yếu kém toán không nắm được kỹ năng và kiến thức cơ bản, trước tiên là tìm ra các nguyên nhân yếu, kém toán của các em là do năng lực về môn toán có hạn hay vì hoàn cảnh gia đình không có điều kiện học tập hay về tình cảm còn vướng mắc… nên chưa yên tâm, chưa tập trung tư tưởng để học tập, hay vì ham chơi, vì yêu thích hoạt động khác nên chưa chú tâm vào học toán…để từ đó có những biện pháp giáo dục thích hợp, kịp thời.

Chuẩn bị chu đáo phần soạn bài đặc biệt là hệ thống câu hỏi, câu hỏi gợi ý, tìm giảng giải những ý trọng tâm trong khái niệm, định lí, tính chất, đề bài…ví dụ sự khác nhau giữa “chia hết” và “chia hết cho”, “ điểm nằm  giữa” và “trung đểm” có sự giống nhau và khác nhau như thế nào ? … có khi dùng lời giảng gắn với đời sống thực tế hàng ngày để các em dễ nhớ, dễ hiểu.

Ví dụ:

Khi học bài cộng, trừ hai số nguyên cùng dấu, khác dấu thì các em rất hay làm sai, nhiều em học lên lớp7, lớp8, lớp9 mà cũng chưa biết cộng, trừ hai số nguyên cùng dấu, khác dấu cho nên khi nói về dấu âm, dấu dương thì ngoài cách nói như trong sách giáo khoa tôi có thể nói thêm như sau:

Ta xem số tiền mình có là số mang dấu dương, số tiền mình nợ là số mang dấu âm, từ đó học sinh dễ hiểu và dễ tính đúng kết quả hơn, chẳng hạn:

6 + 3 = 9  [cũng như có sáu đồng thêm ba đồng là có chín đồng]

6 + [-3] = 3 [có sáu đồng đem trả nợ ba đồng còn lại ba đồng]

[-6] + 3 = [-3] [nợ sáu đồng đem trả nợ ba đồng còn nợ ba đồng]

[-6] + [-3] = [-9]  [nợ sáu đồng, nợ thêm ba đồng thành nợ chín đồng]

Có thể sưu tầm các bài thơ về toán học để lồng ghép thích hợp trong bài soạn để khi dạy học các em thấy dễ nhớ, dễ hiểu:

Ví dụ:

“Diện tích tam giác dễ thôi

 Chiều cao nhân đáy chia đôi là thành”

“Muốn tính chu vi hình vuông

 Lấy cạnh nhân 4 lệ thường nhớ ghi

 Diện tích hình vuông khó gì

 Lấy cạnh nhân cạnh sai đi đường nào

 Chu vi chữ nhật làm sao ?

 Lấy dài và rộng cộng vào nhân đôi”

“Muốn tính diện tích hình thang

 Đáy lớn, đáy bé ta mang cộng vào

 Thế rồi nhân với đường cao

 Chia đôi lấy nữa thế nào cũng ra”…

Hay bài tính về tỉ số lượng giác:

 “Sin đi học                    [sin = đối/huyền]

  Cô sin không hư           [cos = kề/huyền]

  Tang đoàn kết               [Tan  = đối/kề]

  Cô tang kết đoàn”         [Cotan = kề/đối]

3.Về giảng dạy:

  Khi  được nhà trường phân công lớp dạy  tôi theo dõi và xếp loại thành  năm đối tượng học sinh và xem những em yếu kém là do mất căn bản kiến thức nào, ở lớp nào, có thuộc bảng cửu chương, các phép tính cộng trừ nhân chia số nguyên, phân số, các công thức tính lũy thừa…có nắm vững khái niệm, định nghĩa, định lí, tính chất như: điểm nằm giữa, trung điểm, các góc so le trong, đồng vị, các đường trong tam giác…Nếu không nắm được những tính chất ấy thì không thể vẽ hình, chứng minh được. Em nào chưa nắm được phần nào yêu cầu bắt buộc phải học kỹ lí thuyết phần đó, phải nhận biết được mối liên hệ chặt chẽ giữa kiến thức cũ và mới… có thể yêu cầu các em tự soạn lại những kiến thức đã học mà các em chưa thuộc để các em nhớ lại bổ sung chổ hổng.

Ví dụ:

Nói về góc thì cần nắm được các khái niệm về góc [góc nhọn, góc vuông, góc tù, góc bẹt, góc so le trong, góc đồng vị…] và hiểu kỹ nó.

Khi giảng dạy tôi tìm cách giảng mà các em thấy gần gủ dể hiểu nhất đặc biệt là những  em học yếu cũng có thể hiểu được bài ngay và biết vận dụng làm bài tập chẳng    hạn khi dạy về cách cộng các “Đơn thức đồng dạng” thì tôi đưa ra ví dụ để học sinh làm như sau:

2 cái bút + 5 cái bút = ? cái bút. Các em học sinh sẽ hiểu và trả lời ngay được là:

2 cái bút + 5 cái bút = 7 cái bút.

Nếu ta đặt số cái bút là x thì ta có:

               2x   +   5x    =   ?

Tương tự ví dụ trên học sinh dễ dàng trả lời được

                2x  +    5x   =    7x.

Giáo viên nói: Ta thấy 2x và 5x là hai đơn thức đồng dạng, khi cộng hai đơn thức đồng dạng này ta lấy hệ số 2 của đơn thức 2x cộng với hệ số 5 của đơn thức 5x còn phần biến giữ nguyên thì được  kết quả là 7x  [cũng là đơn thức đồng dạng với hai đơn thức ban đầu]: 2x       +    5x   =   [2+5]x  =  7x

Lấy tiếp ví dụ:

        2xyz   +   5xyz = ? 

        2xyz   +  [-5xyz] = ?

Học sinh áp dụng theo ví dụ trên trả lời được:

        2xyz + 5xyz = 7xyz hoặc 2xyz + 5xyz = [2+5]xyz = 7xyz

        2xyz + [-5xyz] = -3xyz hoặc 2xyz + [-5xyz] = [2+[-5]]xyz = -3xyz

Vậy qua các ví dụ trên các em hãy cho biết muốn cộng hay trừ các đơn thức đồng dạng  ta đã làm như thế nào ? học sinh sẽ thấy dễ hiểu bài và tự nêu lên được quy tắc. sau khi học sinh nêu lên được quy tắc, giáo viên nói thêm: Trong sách giáo khoa chỉ lấy ví dụ và nêu quy tắc về cộng [trừ] hai đơn thức đồng dạng nhưng ta có thể áp dụng quy tắc này khi cộng [trừ] nhiều đơn thức đồng dạng.

Ví dụ:

          3xy + 6xy + 5xy = 14xy hoặc 3xy + 6xy + 5xy =[3+6+5]xy = 14xy

          7xy + 4xy – 9xy = 2xy  hoặc   7xy + 4xy – 9xy = [7+4-9]xy =2xy

Nên đưa ra ví dụ để học sinh khắc sâu được kiến thức như:

         3xy + 5xyz = ?

Học sinh có thể trả lời kết quả trên là 8xy hoặc 8xyz, …nhưng các kết quả trên đều sai. Giáo viên hỏi học sinh: 3xy và 5xyz có phải là hai đơn thức đồng dạng không? Thì học sinh hiểu và trả lời ngay được là 3xy và 5xyz không phải là hai đơn thức đồng dạng vì chúng không có chung phần biến.

Giáo viên nói: như vậy các em đã cộng hai đơn thức không đồng dạng là không thể cộng được, chúng ta chỉ cộng [trừ] các đơn thức đồng dạng được với nhau. Từ đó giáo viên nhắc nhở để củng cố khắc sâu kiến thức cho học sinh về khái niệm đơn thức đồng dạng củng như quy tắc cộng [trừ] các đơn thức đồng dạng.

  Trong quá trình giảng dạy tôi luôn đưa ra những ví dụ áp dụng ngay các công thức để các em khắc sâu vận dụng kiến thức, phấn khởi  vì làm được bài tạo đà vươn tới những bài khó hơn.

  Kịp thời tuyên dương những em yếu kém có biểu hiện tiến bộ dù là nhỏ giúp các em tự tin khả năng của mình từ đó cố gắng hứng thú học hơn.

   Không chê, không xem thường miệt thị các em yếu khi nói sai, làm bài sai mà có biện pháp giúp đỡ kịp thời để các em kịp thời sữa chữa những sai lầm tránh ăn sâu vào tiềm thức của các em.

            Ví dụ: có học sinh giải phương trình:

                       3 : 2x = 1

                        2x    =  -2       

                         x     =   2 : 2 = 1

    Tôi hỏi vì sao em viết được 2x = -2 ? Thì em học sinh trả lời “vì khi chuyển số 3 từ vế bên trái sang vế bên phải ta phải đổi dấu của nó”. Nếu không theo dõi kỹ mà cho là đúng  sau hai lần đổi dấu  thì các em hiểu cách làm đúng như trên thật là tai hại [cách làm trên hoàn toàn sai].

   Tôi thường nhắc các em nhớ câu nói của New Tơn: “Nếu bạn không nắm vững lí thuyết mà vội đi vào thực hành thì chẳng khác gì  một thủy thủ trên một con tàu giữa biển khơi mà không có bánh lái”.

    4.Đề kiểm tra:

   Đề kiểm tra khi ra cho học sinh yếu kém thì các phép tính phải dễ dàng, các con số trong các phép toán phải đơn giản, tròn trịa. Câu hỏi và bài tập phải rõ ràng để học sinh dễ hiểu.

            Ngoài việc người thầy quan tâm giúp đỡ đến đối tượng học sinh yếu kém còn tổ chức các nhóm học tập, đôi bạn học tập để các em tự giúp đỡ lẫn nhau, khuyên những em học khá giỏi giúp đỡ những em yếu kém: Chỉ cho  người khác tức là mình học lại một cách vững chắc hơn và tạo ra tình bạn tuổi thơ thêm sâu sắc. Từ đó lớp học sẽ gắn bó đoàn kết, yêu thương nhau hơn để cùng vươn tới tiếp thu giải quyết những kiến thức những bài toán khó hơn.

    6.Bồi dưỡng đón trước:

   Tức là dạy trọng điểm của chương trình trước khi bước vào năm học mới. “Dạy cá biệt trước khi dạy đồng loạt” tạo cho các em có thế chủ động vững tin để các em có hứng thú nhưng không ỷ lại “có đà” vươn lên bằng chính sức lực của mình.

   Cho những em yếu kém những câu hướng dẫn hoặc những bài toán phụ giúp các em có hướng làm bài tương đối khó đã ra chung cho lớp.

   Với những suy nghĩ và cách làm trên tôi đã giúp nhiều em bị hổng kiến thức môn toán đã nắm bắt một cách logic kiến thức môn toán, tiếp tục học lên lớp trên mà trước đó các em tỏ ra sợ hoặc chán nản môn toán như các em học sinh: chu thành nguyên, em H sam Mlô, em H Nghin ê ban, H Cha ly, H Hriăng… và các em đã lấy lại được thăng bằng mà trước đó các em cho rằng không thể học được môn toán.

   Tóm lại môn toán là môn học đòi hỏi sự vận động trí não, tư duy nhiều và mối liên quan giữa lớp trước và lớp sau. Không thể bỏ qua kiến thức toán lớp dưới mà có thể tiếp thu toán lớp trên được. do đó nếu hổng , nếu thiếu thì phải bù.

     Nhiều em sợ kém chán môn toán, học yếu toán dẫn đến học yếu các môn lý, hóa…là do bị hổng kiến thức. Bởi vậy  người thầy giáo hãy vì tình thương và trách nhiệm mà tìm cách nâng cao các em từ yếu kém lên trung bình, khá …để các em tự tin, yêu môn toán ra sức vươn lên tiếp thu các kiến thức khoa học của loài người, tiếp tục là những công dân tốt của đất nước. Muốn vậy người thầy giáo nên:

     Đầu tư vào việc soạn giảng với tinh thần tình thương trách nhiệm.

     Thường xuyên kiểm tra theo dõi phân loại học sinh để có phương pháp giảng dạy phù hợp từng đối tượng học sinh, tìm ra chổ hổng và giúp các em bù chổ hổng, yêu cầu các em học thuộc lí thuyết vận dụng được các bài toán áp dụng trực tiếp công thức liên hệ, hệ thống các kiến thức cũ và mới.

      Trong hè nên bồi dưỡng đón trước, dạy cá biệt trước khi dạy đồng loạt cho những em yếu kém.

      Phân tổ nhóm đôi bạn giúp nhau trong học tập.

      Lấy những ví dụ cụ thể gần gũi thực tế dễ hiểu, dễ áp dụng của bài toán trong thực tế đời sống.

      Hệ thống câu hỏi soạn giảng cho đầy đủ các đối tượng học sinh. Không tỏ ra khó chịu miệt thị các em yếu toán mà giúp đỡ tận tình, động viên kịp thời khi thấy các em có cố gắng tiến bộ.

      Có những câu hỏi gợi ý cho những bài toán khó mà các em không tự làm được.

      Tạo ra tình huống buộc tất cả học sinh suy nghĩ rồi cùng nhau giải quyết không áp đặt kiến thức.

      Xử lí công bằng đối với học sinh, không tỏ ra dễ dãi bênh vực những em khá giỏi, ghét bỏ khó chịu đối với những em yếu kém …

     Với những kinh nghiệm trên tôi đã phần nào thành công trong quá trình giảng dạy toán cấp II của mình.

Video liên quan

Chủ Đề