So sánh hai nhân vật mị và thị

Văn học có rất nhiều dạng đề, sẽ không quá khó khăn nếu như học sinh biết cách làm bài phù hợp với từng đề bài khác nhau. Ở bài văn so sánh hai tác phẩm văn học, hai nhân vật trong hai tác phẩm đòi hỏi người đọc không chỉ hiểu về tác phẩm mà còn phải hiểu rõ bản chất, rút ra những điểm đặc biệt để có thể đối chiếu với nhau. Bài so sánh mẫu dưới đây sẽ là một ví dụ minh họa hữu ích.

So sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt

“Đối với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lự mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn” [Thạch Lam]. Vâng, văn học không phải là thế giới nghệ thuật cao siêu, chỉ luôn đi tìm đến những cái đẹp, những điều hay lẽ phải ở đời mà nó chính là tấm gương phản chiếu một cách chân thực nhất về xã hội, con người. Hơn thế văn học sẽ là nguồn suối mát tươi, trong xanh mà người nghệ sĩ có những cách nhìn nhận, chiêm nghiệm riêng và người tiếp nhận cũng thế. Cùng đi sâu khai thác đề tài người phụ nữ nhưng ở Tô Hoài và Kim Lân cho ra hai thi phẩm với hai giá trị khác nhau, hướng nhìn riêng tạo nên sự độc đáo trong phong cách của họ. Hai nhân vật tượng trưng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong hai tác phẩm trên là Mị và người vợ nhặt.

Bước đến với Vợ Chồng A Phủ, nhân vật Mị xuất hiện là một cô gái xinh đẹp người Mèo. Tuy nhiên vì món nợ của bố mẹ với thống li Pá Tra mà Mị phải làm trọn nghĩa nên đành chấp nhận sự ép buộc làm con dâu gạt nợ, thực chất là nô lệ. Những ngày bước chân vào ngôi nhà của Thống Lí cũng chính là sự mở đầu cho cuộc sống đầy tủi nhục, đau đớn tột cùng Mị phải chịu cả về thể xác lẫn tâm hồn. Sự hành hạ đó tàn nhẫn đến mức Mị trở thành một người vô cảm, tê liệt ý thức, xúc cảm.

Năm ấy mùa xuân đến sớm với Hồng Ngài, trăm hoa đua sắc, vạn vật sinh sôi tràn đầy, không khí bên ngoài nhộn nhịp, bừng lên sức sống mới. Giữa muôn vàn thanh âm, sắc màu náo nức của mùa xuân nổi lên tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết – phong tục hằng năm của người miền núi Tây Bắc. Mị lúc này ngồi lắng nghe trong tâm trạng bồi hồi, rạo rực, bắt đầu giao tiếp với bên ngoài. Như vậy, tiếng sáo đã giúp Mị hồi sinh tâm hồn nghệ sĩ, Mị hết tê dại mà có lại ý thức lí trí. Mị tìm đến rượu rồi chìm vào hồi tưởng, sống về những ngày trước. Rồi Mị nghĩ về hiện tại, so sánh với quá khứ tươi đẹp mới thấy nó tương phản gay gắt, Mị càng uất ức cho cảnh ngục tù. Mị dần thấm say, đay nghiến: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Mị phẫn uất, chối bỏ sự sống.” Men rượu tác động sinh lí rồi chuyển biến sang tâm lí, cảm xúc thay đổi, Mị lại thấy phơi phới trở lại “Mị còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. Mị vào buồng, quấn lại tóc, lấy váy hoa chuẩn bị đi chơi, thắp sáng đèn như xua đi sự tối tăm của ngục tù. Thế nhưng, A Sử về đúng lúc liền trói Mị vào cột, Mị đau đớn tột cùng, tụi nhục, sức sống tươi trẻ mới trỗi dậy bị dập tắt phũ phàng. Sau đêm tình mùa xuân đó Mị trở lại kiếp trâu ngựa, rơi dần vào vô thức.

Mùa đông đến, Mị nhìn thấy A Phủ - một kẻ tôi tớ bị trói, bỏ đói vì chăn bò để mất nhưng Mị không chút cảm xúc. Nhưng rồi, nhìn thấy dòng nước mắt chảy xuống gò má của A Phủ, Mị nhớ lại năm trước của mình cũng nghẹn ngào như thế. Mị nhận thấy giọt nước mắt tủi nhục của cả hai số phận, làm lay động trái tim Mị trở lại. Và Mị quyết định cứu A Phủ và cùng hắn bỏ trốn, thoát khỏi cảnh tù đày, đau khổ.

Nếu như Mị chịu thân phận nô lệ đau đớn đến mức tê liệt cảm xúc thì đến với người vợ nhặt là một bối cảnh khác diễn ra. Người vợ nhặt là một kẻ vô gia cư, bị nạn đói đánh bật ra khỏi quê nhà, phiêu bạt đến xứ người bơ vơ. “Thân hình cô ta gầy sọp, hai con mắt trũng hoáy, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo rách tả tơi như tổ đĩa”. Người vợ nhặt và Tràng gặp nhau trong một lần anh đẩy xe thóc lên tỉnh, người đàn bà này xuất hiện với bộ dạng rác rưới, hành vi lỗ mãng, sỗ sàng mắng Tràng vì đã quên lời hứa với cô ta. Dù chỉ có bốn bát bánh đúc và câu đùa vui mà cô ta chấp nhận theo Tràng về làm vợ không điều kiện, cái đói biến con người thành cỏ rác. Nhưng đằng sau đó thì khát khao được sống, tự do vẫn là động cơ lớn hơn. Khi trở về nhà cùng Tràng, cô ta có chút e ngại xấu hổ khi bị đám con nít trong làng chọc mới thấy cô ý thức được danh dự, lòng tự trọng của mình. Khi cụ Tứ trở về nhà ngồi lặng thinh, không đáp khiến cô sợ, đúng cúi mặt, một hành động ý thức về nhân cách, lòng tự trọng. Sau khi được cụ Tứ chấp nhận cô vẫn đứng khép nép, e thẹn, toát ra ngoan hiền của một người con dâu. Sáng hôm sau, cô ta cùng mẹ chồng dậy sớm dọn dẹp nhà cửa, ăn sáng. Dù ăn bát cháo cám đắng ngắt nhưng cô vẫn cố giấu đi nỗi thất vọng vào trong để gia đình vui vẻ. Rồi người vợ nhặt tiếp tục truyền tin vui cho Tràng về việc không chịu nộp thuế, cùng hi vọng vào cách mạng, ánh sáng tương lai.

Tô Hoài và Kim Lân là hai nhà văn chọn khai thác về người phụ nữ nên khi ghép hai tác phẩm lại ta sẽ thấy những điểm tương đồng của họ. Đầu tiên, Mị và người vợ nhặt đều là hai nhân vật tiêu biểu, điển hình cho số phận của người phụ nữ dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Ở Mị là trong hoàn cảnh phụ nữ ở miền núi cao Tây Bắc, thị lại tiêu biểu cho người phụ nữ trong nạn đói 1945. Ở hai nhân vật này đều bị đầy vào bước đường cùng. Mị vì làm tròn chữ hiếu cho mẹ cha đành chấp nhận làm dâu nhà thống Lí Pá Tra để trả nợ, bỏ lại đằng sau tuổi trử, hạnh phúc, tự do đi vào cảnh tù đày, không khác gì trâu ngựa. Thị, vì sự đói khát đeo bám, cận kề cái chết khiến cô người không ra người, quần áo rách rưới như tổ đĩa, sẵn sàng đánh mất lòng tự trọng chỉ với vài bát bánh đúc. Ngoài những nét đáng thương thì hai người phụ nữ này vẫn hiện lên khát khao hạnh phúc, lòng ham sống, tự do. Mị tưởng chừng như mất hết cảm xúc trước thế giới bên ngoài thì tiếng sáo đã đánh thức lòng vui tươi, yêu đời của cô, thể hiện rõ qua đêm tình mùa xuân. Rồi đêm đông đến, Mị vùng lên đấu tranh sự sống cho bản thân, cởi trói và bỏ trốn cùng A Phủ, giải thoát cuộc đời của chính mình. Đến với người vợ nhặt, có thể thấy cô không nghĩ suy khi về cùng Tràng nhưng các tình tiết sau đó gợi lên một chút ít hy vọng, sự trông chờ một điều gì đó ở tương lai của Thị. Và Thị bắt đầu làm một người con dâu hiền, vợ thảo, có trách nhiệm, suy nghĩ vun vén cho hạnh phúc gia đình. Chính tình thương và những khao khát nhân bản đã cảm hóa, làm nên điều kì diệu. Rồi sự tin tưởng vào Cách Mạng, hi vọng ở một tương lai tươi sáng cũng là điểm tương đồng ở hai nhân vật, Mị rời khỏi nhà thống Lí trở thành du kích, Thị nhìn vào lá cờ đỏ, vững tin một ngày mai ấm hơn, sáng lạng hơn.

Phong cách của nhà văn được làm nên ở những điểm khác biệt trong tác phẩm của họ. Ở nhân vật Mị được Tô Hoài xây dựng là một nhân vật nữ chính có cuộc đời áp bức nhưng ở Kim Lân thì người vợ nhặt thậm chí không có tên, hiện thân của nạn đói. Hoàn cảnh của Mị vì gia đình lao động nghèo, sống dưới ách thống trị của bọn chúa phong kiến, ngược lại Thị vì nạn đói dồn đến đường cùng, nhân phẩm trở nên rẻ rúng. Ngoài ra, cách xây dựng nhân vật ở hai nhà văn cũng có nét đặc sắc riêng, Mị được Tô Hoài đặt trong những nét diễn biến tâm lí nội tâm tinh tế, phức tạp. Còn Thị phản ánh qua việc khắc họa ngoại hình và hành động.

Như vậy, cả hai nhân vật Mị và người vợ nhặt cũng như hai tác phẩm đã mang đến một thi phẩm hay phản ánh rõ nét, sâu sắc về người phụ nữ, về hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Điều đặc biệt nhờ đó mà người đọc thêm yêu quý tâm hồn người phụ nữ Việt Nam trong thời kì gian khó của đất nước. Phong cách nhà văn từ đó được xây dựng nên rõ nét.

So sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt giúp bạn đọc cảm nhân rõ hơn về hình tượng người phụ nữ trong thời đại xưa. Qua hai tác phẩm Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt, nhà văn đã mang đến cái nhìn sâu sắc về thân phận của người phụ nữ thông qua nỗi đau bi kịch và vẻ đẹp tâm hồn tiềm tàng của họ. Cùng DINHNGHIA.VN so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt qua bài viết dưới đây nhé!

Giới thiệu tác phẩm Vợ chồng A Phủ [Tô Hoài] và Vợ Nhặt [Kim Lân]

Trước khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, chúng ta cùng tham khảo một số nét tiêu biểu về hai tác phẩm Vợ chồng A Phủ và Vợ Nhặt cũng như tóm tắt tác giả và hoàn cảnh sáng tác của từng tác phẩm.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Có thể nói, Tô Hoài là nhà văn rất có duyên với quê hương Tây Bắc và đồng bào các dân tộc nơi đây. Ông yêu những điều giản dị mà gần gũi, chính vì thế mà ông đặc biệt say mê với nét đẹp của văn hóa tập quán miền núi và dành tình cảm nồng hậu cho những con người của dân tộc ấy.

Phân tích nhân vật trong tác phẩm của ông nói chung, so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt nói riêng, người đọc cần nắm được thông tin về sự ra đời của tác phẩm cũng như đôi nét về tác giả.

Tô Hoài quan niệm rằng: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Do đó mà những tác phẩm của ông luôn là những chương văn mang đậm tính hiện thực, ông thu hút người đọc bằng chính những gì chân thật nhất mà bản thân mình đã từng trải qua và cảm nhận được.

Sau bao tháng năm với mảnh đất tình Tây Bắc, nhà văn đã kết lại những xúc cảm của mình bằng truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Cảm hứng để nhà văn viết nên tác phẩm này đó chính là khi ông phải chứng kiến hiện thực rằng đồng bào dân tộc miền núi bị thống trị một cách tàn bạo.

Nơi mà cường quyền và thần quyền có khả năng bóc lột sức lao động, cũng như điều khiển quyền sống của con người. Những sự kiện này tác động mạnh mẽ vào tâm hồn nhạy cảm của ông, để từ đó truyện ngắn vợ chồng A Phủ ra đời, xoay quanh nỗi đau số phận của nhân vật Mị.

Tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân

Nếu như Tô Hoài đã mang tình thương của mình gửi cả vào núi rừng Tây Bắc thì Kim Lân lại nuôi nấng tình yêu của mình tại vùng quê đồng bằng Bắc bộ. Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, những trang văn đặc sắc của ông thường nói về các phong tục và đời sống của nông thôn nơi đồng bằng.

Nhà văn hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của những con người cùng khổ này nên những tác phẩm của ông bao giờ cũng giàu tính chân thật đến xúc động. Bởi ông không chỉ miêu tả cái cảnh đói cơm rách áo mà còn ca ngợi vẻ đẹp nội tâm của họ.

Truyện ngắn Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm được nhà văn tái hiện một cách chân thật khi ông chứng kiến nạn đói năm 1945 của nước ta. Những tưởng hiện thực sẽ cướp đi mạng sống của bao nhiêu con người, nhưng bằng ngòi bút nhân đạo của mình, nhà văn đã cứu được mạng sống của họ giữa ranh giới của cái chết.

Không những vậy, Kim Lân còn khám phá nên vẻ đẹp tâm hồn và sức sống tiềm tàng của họ, đặc biệt là của người phụ nữ Việt Nam trong thời thời đại bấy giờ thông qua nhân vật người vợ nhặt.

Cảm nhận về số phận người phụ nữ trong thời đại xưa

Từ xưa đến nay, hình tượng người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng bất hủ của văn chương. Họ không chỉ góp sắc cho đời mà còn làm đẹp cho kho tàng văn học Việt Nam. Vì thế mà nhà thơ Huy Cận đã từng viết:

“Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử

Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”

Song, người phụ nữ cũng chính là nạn nhân thống khổ nhất của chế độ phong kiến thối nát. Cụ thể qua truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài, người phụ nữ được miêu tả cùng với sự tột cùng của nỗi khổ. Khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, bạn đọc sẽ hiểu hơn về hiện thực xã hội phong kiến trước năm 1945 đã vùi dập kiếp người phụ nữ như thế nào.

Nỗi khổ đói cơm rách áo, nỗi đau bị tước đoạt quyền tự do của người phụ nữ đã được lột tả một cách chân thật. Họ là những con người dường như bị lấy mất đi giá trị vốn có của bản thân và dần trở nên lầm lũi, cam chịu. Song, ngòi bút nhân đạo của nhà văn đã có dịp khám phá nên vẻ đẹp sâu trong con người họ. Để từ đó, những nạn nhân ấy được sống dậy một cuộc đời mới, được tự do thể hiện vẻ đẹp riêng của mình.

So sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt

Mị và người vợ nhặt đều đại diện cho những người phụ nữ thấp cổ bé họng trong xã hội xưa. Mỗi người một hoàn cảnh sống, một bị kịch cuộc đời, nhưng ở họ đều ánh lên những phẩm chất tốt đẹp. So sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về giá trị của mỗi tác phẩm, đồng thời cũng trân trọng hơn những người phụ nữ xưa.

Nỗi đau đớn khi bị giam cầm và khát khao hạnh phúc của Mị

Qua sự miêu tả của Tô Hoài, nhân vật Mị xuất hiện với tất cả vẻ đẹp của người con gái mới lớn. Mị là cô gái vừa đẹp người lại vừa đẹp nết, nàng được nhiều chàng trai trong làng đem lòng yêu mến. Những tưởng cuộc sống sẽ êm ả trôi qua, cho đến khi cô gái này trở thành món hàng để gạt nợ cho gia đình. “Con dâu trừ nợ” – danh xưng này từ đó gán nàng vào những nỗi khổ tận cùng khi bước chân vào nhà thống lí Pá Tra gian tham và tàn bạo.

Từ ngày bị bắt về làm vợ A Sử, cuộc đời Mị như đang sống giữa địa ngục trần gian. “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”, người con gái đang ở thì thanh xuân nhất lại phải chịu nỗi bi kịch nặng nề. Vì chữ hiếu, vì thương cha nàng phải hi sinh những ước mơ, hi sinh sự tự do và quyền được hưởng hạnh phúc của mình. Những giọt nước mắt của sự uất ức, sự cam chịu dường như không ngừng đeo bám lấy người con gái này.

“Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng, Mị vẫn giấu trong áo. Thế là Mị không đành lòng chết, Mị chết thì bố Mị khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa. Mị đành trở lại nhà thống lí”. Nỗi đau như đạt đến đỉnh điểm khi giờ đây nàng không có quyền tự kết thúc số phận của mình. Có lẽ sự uất ức đến thời điểm này không còn quan trọng nữa, Mị phải chịu đựng, Mị không có quyền được sống cho mình mà phải tồn tại thay cho số tiền nợ không bao giờ trả hết được kia.

Mị buồn tủi, thờ ơ với cuộc sống xung quanh và buông xuôi cuộc đời mình. Nàng nhận thức được rằng chuỗi ngày đọa đày đang diễn ra mà bản thân thì không có quyền kháng cự. Người đọc ắt hẳn sẽ không ai có thể quên được hình ảnh ở đầu tác phẩm: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên cô ấy cũng cuối mặt, mặt buồn rười rượi”

Với danh nghĩa con dâu lớn nhưng thật chất Mị là nô lễ mãn đời cho ngôi nhà ấy. Nỗi đau khổ, sự cam chịu đã biến cô gái Mông xinh đẹp trở thành một con người lầm lũi, héo hắt. Tuổi xuân của mị cũng đã bị giam cầm như chính thân xác của Mị. Đến đây, Tô Hoài đã miêu tả thật rõ nét nỗi bất hạnh của người con gái này. Để từ đó, nhà văn đã phần nào phác họa nên nỗi đau số phận của người phụ nữ trong xã hội thối nát bấy giờ.

Sự đau khổ trong cơn đói rách của người vợ nhặt

Khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, người đọc phần nào sẽ thấy tội nghiệp thay cho số phận của người phụ nữ trong truyện ngắn Vợ nhặt. Bởi lẽ Mị khổ, nhưng Tô Hoài còn cho Mị một cái tên, một nhan sắc và  một cuộc đời xuân xanh vừa nở rộ. Thế nhưng đối với nhân vật của mình, Kim Lân lại không màng đến nàng một cái tên để gọi, cũng không tuổi, không gia đình và không quê hương.

Người phụ nữ này cũng giống như bao kẻ đang đói ngoài kia với ngoại hình chỉ còn “quần áo tả tơi như tổ đỉa, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.” Chị là hiện thân của hàng triệu con người đói khổ đang ngấp nghé ở bờ vực của cái chết. Nhưng trò đùa của số phận đã một lần nữa cứu sống chị.

Người con gái này nhận lời gả vợ chỉ bằng bốn bát bánh đúc. Mọi sĩ diện giờ đây không còn quan trọng nữa khi cái đói đã hành hạ chị quá lâu. Chị cặm cụi ăn, ăn không kịp thở, ăn mà không nói tiếng nào, chính vì thế mà khiến cho tên kéo xe thuê là Tràng động lòng thương.

Một người đàn ông mới quen đôi lần và bốn bát bánh đúc đã mang lại cho chị một tấm chồng, một gia đình  cùng một cuộc sống mới tại làng ngụ cư. Chẳng phải vì yêu thương gì cả mà để được no trước đã “mặc kệ! cứ theo anh ta để được ăn cái đã, mọi chuyện tính sau”. Bao nhiêu sự danh giá của người phụ nữ đã bị xã hội phong kiến bấy giờ làm cho rẻ rúng, từ đó tạo nên một mối quan hệ gọi là “vợ theo không” như cuộc đời của nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm.

Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt

Khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bấy giờ. Dù ở đáy vực của nỗi đau, nhưng sâu bên trong họ là khát khao được sống, sống đúng nghĩa chứ không phải một cuộc đời mang nghĩa tồn tại như hiện thực bấy giờ. Ngòi bút hiện thực của nhà văn chỉ có quyền phác họa nỗi đau cuộc đời họ chứ không thể làm mờ đi sức sống tiềm tàng trong họ.

Nhân vật Mị là dù có u uất với cuộc đời như thế nào nhưng đến khi nghe tiếng sáo đêm tình mùa xuân thì nàng trong nàng vẫn có sự rạo rực. Đấy là biểu hiện của sức sống, của tuổi xuân của người phụ nữ dù bị vùi dập trong xã hội bấy giờ. Nhà văn khám phá nên vẻ đẹp ấy từ hiện thực đắng cay thông qua những góc khuất thầm kín nhất của người con gái. Qua đó, Tô Hoài một lần nữa ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của họ.

Khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, dù hoàn cảnh khác nhau nhưng vẻ đẹp ẩn chứa bên trong họ là như nhau. Người vợ nhặt đã vứt đi cái tôi, sự sĩ diện vốn có của người phụ nữ để mưu cầu một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nó không chỉ là mong muốn thoát khỏi cái đói mà là những hy vọng lớn lao về một gia đình, nơi chị có thể cùng những con người mới đắp xây nên một cuộc sống mới. Vì những phẩm chất tốt đẹp vốn có như thế mà kết thúc cả hai truyện ngắn, cả Mị và người vợ nhặt đều xứng đáng có một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Không chỉ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt, không chỉ khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt thì ta mới có thể thấy được nỗi đau cũng như vẻ đẹp của người phụ nữ. Thực tế, cuộc sống hôm nay ngày càng tươi đẹp hơn là nhờ không ít vào sự góp sức của người phụ nữ. Dù ở tầng lớp nào, vai trò nào và hoàn cảnh nào thì người phụ nữ vẫn ngời sáng vẻ đẹp vốn có.

Qua bài viết so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, chúng ta đã hiểu rõ hơn về vẻ đẹp của những người phụ nữ trong xã hội bấy giờ. Từ đó, bạn đọc có cái nhìn sâu sắc hơn về những số phận ấy. Nếu có đóng góp hoặc thắc mắc về bài viết so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, bạn hãy để lại bình luận bên dưới để chúng mình cùng nhau thảo luận nhé!

Xem thêm >>> Phân tích nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”

Xem thêm >>> Phân tích vẻ đẹp sử thi của nhân vật Tnú trong Rừng Xà Nu

Xem thêm >>> Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

Please follow and like us:

Video liên quan

Chủ Đề