So sánh phái đại thừa và phái tiểu thừa

So sánh phái đại thừa và phái tiểu thừa
Sự khác biệt giữa Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa - ĐờI SốNg

Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa

Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Tiểu thừa là hai hệ phái Phật giáo có sự khác biệt giữa chúng trong quan niệm tôn giáo của họ. Đại thừa nghĩa đen là ‘du khách bằng phương tiện lớn hơn’ và Tiểu thừa có nghĩa là ‘du khách bằng phương tiện nhỏ hơn.’ Mặc dù một số người nói Tiểu thừa và Nguyên thủy giống nhau, điều đó không đúng. Đó là một thực tế được xã hội Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Theo họ, hiện nay trên thế giới chỉ có Phật giáo Đại thừa tồn tại từ hai phái. Phật giáo Tiểu thừa, cũng phát triển ở Ấn Độ sau khi Đức Phật nhập diệt, đến nay không còn tồn tại trên thế giới. Hãy để chúng tôi xem thêm thông tin về hai.

Phật giáo Đại thừa là gì?

Phật giáo Đại thừa đưa ra ý tưởng về một vị thần trong tôn giáo. Đức Phật trở thành vị thần chính. Theo họ, các vị A La Hán có giới hạn hơn so với các vị Phật, hay các bậc giác ngộ. Khi họ coi Phật như một vị thần, họ cũng tôn thờ Ngài như một vị thần. Phật giáo Đại thừa cố gắng giải thích lại giáo lý mù mờ theo cách riêng của mình. Phật giáo Đại thừa tin vào các phiên bản của các câu chuyện Kinh điển mô tả những lần sinh trước của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một vị Bồ tát. Đại thừa tin rằng có một ngàn vị Phật sẽ bắt đầu tôn giáo phổ quát. Họ nói rằng đã có nhiều cái khác trước đây và sẽ còn nhiều cái nữa sau chúng.


Đại thừa nói rằng mọi người đều có thể thành Phật. Điều này là do thực tế là mọi người đều được ban phước với yếu tố Phật tính có thể thúc đẩy việc đạt được địa vị của Đức Phật. Đại thừa tin rằng một mình các vị Bồ tát đã thực hành mười thái độ sâu rộng. Theo Phật giáo Đại thừa, mười thái độ sâu rộng là rộng lượng, khéo léo trong phương tiện, nhẫn nại, tự kỷ luật đạo đức, ổn định tinh thần, vui vẻ kiên trì, củng cố, nhận thức sâu sắc, nguyện vọng tràn đầy và nhận thức phân biệt.

Phật giáo Đại thừa cũng khác ở chỗ đối xử với bốn thái độ vô lượng. Quả thật nó dạy về thực hành bốn thái độ vô lượng của tình thương, từ bi, hỷ xả và bình đẳng. Đồng thời, nó có sự khác biệt trong định nghĩa của những thái độ này. Mặc dù, có sự thống nhất giữa Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa về các định nghĩa của tình yêu thương và lòng từ bi, nhưng có một số khác biệt trong cách đối xử của niềm vui và sự bình đẳng vô lượng. Đại thừa định nghĩa niềm vui vô lượng là ước muốn người khác có được niềm vui hoặc hạnh phúc của sự giác ngộ liên tục. Theo Phật giáo Đại thừa, bình an là trạng thái tâm không bị dính mắc, thờ ơ và xua đuổi.


So sánh phái đại thừa và phái tiểu thừa

Phật giáo Tiểu thừa là gì?

Phật giáo Tiểu thừa tin rằng Đức Phật là một con người bình thường như bao người khác. Họ không gán bất kỳ đặc điểm thần thánh nào cho Đức Phật. Hinayana tuân theo các nguyên tắc cơ bản của kinh điển Pali. Phật giáo Tiểu thừa nhấn mạnh tầm quan trọng và ý nghĩa của Tứ diệu đế và Bát chánh đạo. Đây là lý do tại sao họ được coi là giáo phái bám sát lời dạy của Đức Phật. Phật giáo Tiểu thừa khẳng định rằng một người đi theo con đường Bồ tát trước khi thành Phật. Phật giáo Tiểu thừa không tin rằng các vị Bồ tát một mình thực hành mười phương hướng sâu xa. Hinayana thay thế sự ổn định về tinh thần, kỹ năng về phương tiện, sự cầu nguyện đầy khát vọng, củng cố và nhận thức sâu sắc bằng cách từ bỏ, trung thực với lời nói, sự quyết tâm, tình yêu thương và sự bình đẳng trong mười thái độ sâu rộng. Hinayana hoàn toàn không đi sâu vào chi tiết của các yếu tố Phật tính, Phật giáo Namana cũng khác ở chỗ đối xử với bốn thái độ vô lượng. Quả thật là nó dạy thực hành bốn thái độ vô lượng của tình thương, từ bi, hỷ xả và xả thân. Đồng thời, nó có sự khác biệt trong định nghĩa của những thái độ này. Tiểu thừa định nghĩa niềm vui vô lượng là vui mừng trước hạnh phúc của người khác mà không có tâm tật đố. Phật giáo Tiểu thừa định nghĩa sự bình đẳng là kết quả của lòng từ bi, tình yêu thương và sự hoan hỷ của chúng ta.


• Đại thừa nghĩa đen là "du khách bằng phương tiện lớn hơn" và Tiểu thừa có nghĩa đen là "du khách bằng phương tiện nhỏ hơn."

• Đại thừa chấp nhận Đức Phật là một vị thần trong khi Phật giáo Tiểu thừa không chấp nhận sự quy kết thần thánh đó cho Đức Phật. Họ tin rằng Đức Phật là một con người bình thường.

• Trong khi Tiểu thừa cố gắng làm theo lời dạy ban đầu của Đức Phật theo cách tương tự, thì Đại thừa đưa ra cách giải thích riêng của mình đối với lời dạy của Đức Phật.

• Đại thừa nói rằng mọi người đều có thể thành Phật. Điều này là do thực tế là mọi người đều được ban phước với yếu tố Phật tính có thể thúc đẩy việc đạt được địa vị của Đức Phật. Hinayana hoàn toàn không đi sâu vào chi tiết của các yếu tố Phật tính.

• Đại thừa tin rằng một mình các vị Bồ tát đã thực hành mười thái độ sâu rộng. Phật giáo Tiểu thừa không giữ quan điểm này. Theo Phật giáo Đại thừa, mười thái độ sâu rộng là rộng lượng, khéo léo trong phương tiện, nhẫn nại, tự kỷ luật đạo đức, ổn định tinh thần, vui vẻ kiên trì, củng cố, nhận thức sâu sắc, nguyện vọng tràn đầy và nhận thức phân biệt. Hinayana thay thế sự ổn định tinh thần, kỹ năng trong phương tiện, lời cầu nguyện đầy khát vọng, củng cố và nhận thức sâu sắc bằng cách từ bỏ, trung thực với lời nói, sự quyết tâm, tình yêu và sự bình đẳng của một người.

• Mặc dù cả hai đều tin vào thái độ vô lượng, họ có các định nghĩa khác nhau về niềm vui và sự bình an.

Đây là những điểm khác biệt quan trọng giữa hai hệ phái Phật giáo, đó là Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Tiểu thừa.

Hình ảnh Lịch sự:

  1. Monks của Antonieta Elokdi (CC BY 3.0)

Cả Tiểu thừa và Đại thừa đều khẳng định rằng các giai đoạn tiến tới trạng thái tịnh hóa, hay “Bồ đề” (“Bodhi”) của một vị A la hán hay một vị Phật đòi hỏi việc phát triển năm mức độ tâm thức - cái gọi là “ngũ đạo”. Đó là Tư lương đạo, Gia hành đạo, Kiến đạo, Thiền định đạo và Vô học đạo. Chư Thanh văn và Bồ tát thành tựu Kiến đạo đều sẽ trở thành Thánh nhân (arya), các bậc chứng ngộ cao. Cả hai đều có nhận thức vô niệm về 16 thuộc tính của Tứ diệu đế.

Cả Tiểu thừa và Đại thừa đều đồng ý rằng nhờ Kiến đạo mà chư Thánh nhân Thanh văn và Bồ tát đều đoạn trừ các phiền não dựa trên học thuyết, trong khi Thiền định đạo sẽ đoạn trừ những phiền não tự động phát sinh. Loại phiền não thứ nhất dựa trên việc học hỏi những sự khẳng định của một trong những trường phái Ấn Độ ngoại đạo, trong khi loại phiền não thứ hai tự động phát sinh trong tất cả chúng sinh, kể cả thú vật. Danh sách của những phiền não mà chư Thanh văn và Bồ tát Thánh nhân sẽ đoạn trừ là một phần của một danh sách lớn hơn về các tâm sở. Mỗi trường phái Tiểu thừa có danh sách về các tâm sở riêng, trong khi Đại thừa khẳng định một danh sách khác. Trong mỗi danh sách thì nhiều tâm sở được định nghĩa theo cách khác nhau.

Cả Tiểu thừa và Đại thừa đều đồng ý rằng quá trình tiến tu qua ngũ đạo đòi hỏi việc thực hành 37 Phẩm trợ đạo, để đưa đến trạng thái tịnh hóa. Một “trạng thái tịnh hóa” hay “bồ đề” nói về A la hán quả, hay Phật quả. 37 Phẩm trợ đạo này gồm có Tứ niệm xứ; Bát chánh đạo; v.v... Chúng rất quan trọng. Trong Vô thượng Du già Mật điển (Anuttarayoga tantra) thì 37 Phẩm trợ đạo được đại diện bằng Yamantaka, 34 cánh tay, cộng với thân, khẩu, ý của ngài, và cũng như được đại diện bằng các dakini trong thân mạn đà la (mandala) của Vajrayogini. 37 Phẩm trợ đạo là một bộ bao gồm các pháp tu tiêu chuẩn. Tuy nhiên, chi tiết cụ thể về mỗi pháp tu trong Tiểu thừa và Đại thừa thì thường khác nhau.

Cả Tiểu thừa và Đại thừa đều khẳng định rằng sơ đồ về Nhập lưu (stream-enterer), Tư đà hàm (once returner), A na hàm (non-returner) và A la hán đề cập đến các giai đoạn của đường tu của Thánh nhân Thanh văn, nhưng không phải là đường tu của Bồ tát Thánh nhân. Do đó, các hành giả Nhập lưu có nhận thức vô niệm về 16 thuộc tính của Tứ diệu đế, bao gồm nhận thức vô niệm về việc chúng sinh hữu tình không có một “linh hồn” bất khả. Không nên nghĩ rằng Nhập lưu là mức độ của hành giả sơ cơ. Vì vậy, nếu như có ai tuyên bố đã đạt được trạng thái của hành giả Nhập lưu, thì hãy nghi ngờ điều đó.

Tiểu thừa không đưa ra lời giải thích sâu rộng về Bồ tát đạo. Tuy nhiên, Đại thừa giải thích rằng đường tu giác ngộ của Bồ tát Thánh nhân thì đòi hỏi việc tiến tu trên thập địa (ten bhumi). Các địa này không liên quan đến Thanh văn đạo.

Cả Tiểu thừa và Đại thừa đều đồng ý rằng việc tu tập Bồ tát đạo để thành tựu giác ngộ thì cần nhiều thời gian hơn là việc tu tập Thanh văn đạo, để thành tựu A la hán quả. Tuy nhiên, chỉ có Đại thừa nói về việc tích tập hai bồ tư lương trong ba vô lượng a tăng kỳ kiếp. Zillion thường được dịch là “vô lượng”, có nghĩa là một con số hữu hạn, dù không thể đếm được. Mặt khác thì chư Thanh văn có thể thành tựu A la hán quả trong thời gian ngắn như ba kiếp. Trong kiếp thứ nhất thì một người trở thành hành giả Nhập lưu, trong kiếp sau thì làm hành giả Tư đà hàm, và kiếp thứ ba thì trở thành A na hàm, thành tựu giải thoát và trở thành A la hán. Đối với nhiều người thì điều này khá hấp dẫn.

Việc khẳng định rằng A la hán là những người ích kỷ thì giống như luận điệu tuyên truyền của Bồ tát. Trên cơ bản thì nó chỉ có ý nêu ra một cực đoan mà mình nên tránh. Kinh điển ghi lại rằng Đức Phật đã bảo 60 vị đệ tử A la hán đi thuyết Pháp. Nếu như các ngài thật sự ích kỷ, thì đã không đồng ý làm như vậy. Tuy nhiên, A la hán chỉ có thể giúp đỡ người khác ở mức độ hạn chế hơn, so với điều mà Phật có thể làm. Tuy nhiên, cả hai chỉ có thể giúp những người có đúng nghiệp để được các ngài giúp đỡ.

Thứ Năm, 19/09/2019 11:09 (GMT+07)

(Lichngaytot.com) Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa vừa có cả điểm chung cơ bản và điểm khác biệt khiến nhiều người không hiểu rõ hay nhầm lẫn và xem chúng đề là một mà không biết quan điểm về giáo lý, giới luật khác nhau.


Sự phân chia này không phải do mâu thuẫn về tổ chức hay quyền lợi, địa vị mà do khác biệt trong quan điểm về giáo lý, giới luật.Cả hai Tiểu thừa và Đại thừa đều bắt nguồn từ vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni, nhưng khác nhau nơi sự quan tâm về thực hành giáo pháp và tư tưởng.(sa. sarvasattva). Hình tượng tiêu biểu của Đại thừa là Bồ Tát (sa. bodhisattva) với đặc tính vượt trội là lòng bi (sa., pi. karuṇā). Bộ kinh được xem là kinh văn Đại thừa đầu tiên là Bát-nhã bát thiên tụngỞ Việt Nam - một trong những trung tâm phát triển sớm của Phật giáo thế giới, chứng kiến sự phát triển của cả hai trường phái Tiểu thừa và Đại thừa.

Với tư tưởng nhân văn, “từ bi hỉ xả”, bình đẳng giữa các chúng sinh, khuyên con người làm việc thiện, tránh điều ác... Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa đều đã nhanh chóng đi vào lòng người, được đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình, hưởng ứng và gắn liền với mỗi giai đoạn phát triển của quốc gia, dân tộc.

 
Phái Tiểu (Hyayana) thừa được truyền bá ra nhiều nơi, từ Xri Lanka đến Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam… Quá trình phát triển của phái Tiểu thừa cũng chia thành nhiều chi phái, tiêu biểu như Thành thực tông, Luật tông, Câu xá tông…

+ Phái Tiểu thừa  nghĩa là “con đường cứu vớt nhỏ” hoặc “cỗ xe nhỏ”.+ Theo phái Phái Tiểu thừa chỉ có Thích Ca là Phật duy nhất.

+ Chỉ những người xuất gia tu hành mới được cứu vớt. Phái này cho rằng những người theo Tiểu thừa phải tự giác ngộ, tự giải thoát cho bản thân mình, không thể giải thoát cho người khác. 

+ Tiểu thừa quan niệm rằng sinh tử luân hồi và niết bàn là hai phạm trù khác biệt nhau, chỉ khi nào con người thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi thì mới lên được Niết Bàn. Niết Bàn là cõi hư vô, là nơi đã giác ngộ, ở đó không còn khổ não. Phật tổ là người đầu tiên đạt tới Niết Bàn.
 

+ Bảo vệ sự tuân thủ nghiêm ngặt của giáo quy, bám sát các giáo điều của đạo Phật nguyên thủy.

Theo các môn đồ Tiểu thừa thì phái này đại diện cho học thuyết thuần khiết và khởi thủy như những gì mà Phật đã thuyết giảng. Những quan niệm của nó chủ yếu dựa vào các kinh ghi lại lời dạy của Phật tổ, quy tắc kỷ luật tu hành dựa vào Luật tạng.   

Phái Đại thừa (Mahayana) nghĩa là “con đường cứu vớt lớn”, “cỗ xe lớn” được gọi là tôn giáo cải cách. Phật giáo Đại thừa được truyền bá đến nhiều nơi trên thế giới, trước hết là các nước châu Á. Từ Ấn Độ truyền sang Tây Tạng rồi vào Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam... Trong quá trình đó, phái Đại thừa cũng chia thành nhiều chi phái, tiêu biểu có Pháp tương tông, Tam luận tông, Hoa nghiêm tông, Mật tông, Tịnh độ tông, Thiền tông.+ Giáo lý Đại thừa có nhiều cái mới so với đạo Phật nguyên thủy. + Họ cho rằng không chỉ những người xuất gia tu hành mà cả những phật tử cũng được cứu vớt.

Vì vậy, chủ trương người theo đạo Phật Đại thừa không chỉ giải thoát, giác ngộ cho bản thân mà còn có thể giúp nhiều người cùng giải thoát, giác ngộ. Đại thừa chủ trương mỗi người có thể đến Niết Bàn chỉ bằng sự cố gắng của mình, đồng thời chủ trương giải thoát đông đảo cho nhiều người.

 + Họ quan niệm rằng sinh tử luân hồi và Niết Bàn không phải là hai phạm trù khác biệt, ngay trong quá trình tồn tại (quá trình sinh tử) cũng có thể đạt được Niết Bàn. Theo phái Đại thừa, Niết bàn là nơi cực lạc, là thế giới của các vị Phật, giống như Thiên đường của các tôn giáo khác.

+ Phái Đại thừa không chỉ thừa nhận Thích Ca là Phật mà còn thừa nhận nhiều Phật khác như Phật Adiđà, Phật Di Lặc, Phật Đại Dược Sư... Ai cũng có thể trở thành Phật và thực tế đã có nhiều người thành Phật như Văn Thù Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát...
 

Với quan niệm đó, những chùa theo Phái Đại thừa thờ nhiều tượng Phật.

Bồ Tát cũng là đối tượng được thờ cúng. Bồ Tát là những người đã đạt được sự hoàn thiện bằng tu luyện, đáng được lên Niết bàn song tự nguyện ở lại trần gian để cứu độ chúng sinh. Trong các vị đó,  Quan Âm Bồ Tát được kính trọng nhất. 


Thời kỳ Phật giáo Nguyên Thủy cho đến thời kỳ Bộ phái (sau Ðức Phật 400 năm) chưa có danh từ Ðại thừa hay Tiểu thừa. Vốn không có phân biệt Tiểu thừa và Đại thừa. Phật pháp là một vị thuần nhất. Chỉ do đối tượng thuyết pháp không giống nhau cho nên nội dung và cảnh giới thuyết pháp cũng khác nhau mà thôi.
 

Danh từ Tiểu thừa nên hiểu là Thượng tọa bộ và Thuyết nhất thiết hữu bộ. Ngày nay chỉ còn 2 hệ Tiểu thừa này có mặt trên thế giới.
 

Từ ít lâu nay người ta có khuynh hướng tránh dùng từ ngữ "Tiểu thừa" vì từ này được dùng bởi những người không hiểu rõ căn bản Đạo Phật và mang tính miệt thị. Do đó, 2 danh từ Phật giáo Bắc Tông và Phật giáo Nam Tông được dùng để phổ biến thay thế.
 

Giáo lý được phân làm hai truyền thống theo địa lý, truyền thừa, và được gọi là Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Nam Tông. Phật giáo Bắc Tông theo khuynh hướng phát triển lời Phật, còn Phật giáo Nam Tông theo khuynh hướng bảo thủ (giữ nguyên giá trị) lời dạy của Đức Phật và các vị Thánh Tăng thuyết trong 5 bộ Kinh Nikāya.

Truyền thống Bắc Tông và Nam Tông có những khác biệt, tuy nhiên, những khác biệt ấy không cơ bản. Trái lại, những điểm tương đồng lại rất cơ bản như sau:
 

+ Cả hai đều nhìn nhận Ðức Phật Thích ca là bậc Ðạo sư.
 

+ Cả hai đều chấp nhận và hành trì giáo lý Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Duyên khởi...; đều chấp nhận pháp ấn Khổ, Không, Vô ngã; đều chấp nhận con đường tu tập: Giới-Ðịnh-Tuệ.
 

Tóm lại, Kinh tạng Nguyên Thủy, hiện nay có 5 bộ, là tập hợp những lời dạy nguyên thủy nhất của Đức Phật là kinh tạng ghi chép lại những lời Phật thuyết và Thánh chúng một cách đầy đủ nhất. Kinh tạng này mang tính thiết thực gần gũi với tâm lý con người và sự sinh hoạt của xã hội Ấn Độ. Ðây là cơ sở giáo lý mà chúng ta lấy làm nền tảng cho mọi nghiên cứu, thực tập.Không nên chê bai Tiểu Thừa hạ liệt, căn cơ yếu kém nhưng nên hiểu rằng, trải qua hơn 400 năm khẩu truyền và hơn 2000 năm truyền bá, kinh giáo không tránh khỏi sự thêm bớt của người thụ trì, nghĩa là vẫn không mang tính Nguyên Thủy "thuần túy". Mặc dù vậy, Đạo Phật có Tứ Diệu Đế là chân lý rốt ráo cùng tột và 3 pháp ấn là 3 chân lý không thể nào chối cãi là "Các pháp hữu vi là Khổ, Vô Thường, Vô Ngã" và pháp vô vi là Vô Ngã. Người học Phật cần phải soi sáng mọi lời dạy xem coi nó có mâu thuẫn với Tứ Diệu Đế và Tam Pháp Ấn hay không? Nếu mâu thuẫn thì nên cẩn thận trước những tư tưởng của người khác.MiMo (Tổng hợp)