So sánh tố tụng dân sự và tố tụng hình sự

1. Tố tụng dân sự là gì?

Tố tụng dân sự là tổng hợp tất cả các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa toà án, viện kiểm sát với những người tham gia tố tụng trong quá trình toà án giải quyết án dân sự và thi hành án dân sự

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 SAU 5 NĂM THI HÀNH

20/04/2021

15015

I. Đánh giá chung

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được xây dựng, ban hành trên cơ sở kế thừa các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 [sửa đổi, bổ sung năm 2011], pháp điển hóa một số quy định trong các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và một số văn bản pháp quy khác hướng dẫn về quá trình thụ lý, giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự. Nhìn chung, sau 05 năm thi hành, các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã đáp ứng được yêu cầu chung của công tác thụ lý, giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, tạo hành lang pháp lý tốt cho quá trình tiến hành tố tụng, đồng thời tạo điều kiện khá tốt cho người tham gia tố tụng thực hiện, bảo vệ các quyền của mình, phục vụ tốt yêu cầu đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa và chất lượng xét xử các tranh chấp dân sự, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân, góp phần bảo vệ công lý.

Tuy nhiên, qua năm 5 năm thi hành, tình hình kinh tế, xã hội của đất nước phát triển nhanh, nhiều vấn đề mới, vấn đề phức tạp nảy sinh có liên quan đến thẩm quyền, nhiệm vụ tổ chức xét xử của Tòa án nhân dân và của các cơ quan tiến hành tố tụng, tác động đến quyền lợi hợp pháp của các chủ thể trong xã hội, đòi hỏi các quy định pháp luật tương ứng của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 phải có sự thay đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Qua công tác giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, bằng góc nhìn tổng quát, chúng tôi nêu một số vấn đề trọng tâm như sau:

II. Một số vấn đề về Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

1. Về mối quan hệ giữa các quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự

Sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung, các quy định trong 10 phần của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cơ bản thống nhất với nhau, tạo nên sự xuyên suốt nhất định cho quá trình tiến hành tố tụng từ giai đoạn xử lý đơn đến giai đoạn xét xử, kết thúc vụ án; những quy định ở các phần cụ thể cơ bản phù hợp với các quy định tại phần chung [11 chương, 185 điều, phần những quy định chung ] của Bộ luật. Một số quy định chưa rõ, còn phát sinh cách hiểu, cách làm chưa thống nhất với nhau trên thực tế đã được Tòa án nhân dân tối cao và cơ quan có thẩm quyền tổng hợp, giải đáp, hướng dẫn hằng năm. Hiện nay, sau 5 năm thi hành, vẫn còn một số quy định ở từng phần, từng chương, từng điều luật của Bộ luật chưa phát huy được tính liên kết, bổ trợ cho nhau, số ít quy định tạo nên sự cản trở nhau không cần thiết, song chúng tôi cho rằng những hạn chế đó ở phạm vi hẹp, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thể khắc phục được trên nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật, hướng thao tác tố tụng đến mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, không gây phiền hà, khó khăn cho người tham gia tố tụng, phục vụ tốt yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

2. Về mối quan hệ giữa các quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự và các quy định pháp luật khác

Quá trình thực thi các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại các cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với các quy phạm pháp luật điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, công chức được pháp luật giao nhiệm vụ, thẩm quyền tiến hành tố tụng trong các vụ việc dân sự và yêu cầu cải cách thủ tục hành chính tư pháp của các cơ quan nhà nước thuộc khối tư pháp; đồng thời, hiệu quả thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự cũng được đặt trong sự tác động qua lại với các quy định pháp luật liên quan đến quản lý hành chính nhà nước, quyền công dân, quyền con người và liên quan đến tập quán của từng địa phương, vùng miền, cộng đồng dân cư nhất định. Theo đó, thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự luôn phát sinh những vấn đề cần tháo gỡ để đảm bảo cho pháp luật tố tụng dân sự và các quy định pháp luật khác, các tập quán tiến bộ trong xã hội, tại địa phương không mâu thuẫn lẫn nhau. Qua 5 năm thi hành, chúng tôi tổng hợp được nhiều ý kiến của đồng nghiệp và các cá nhân, tổ chức liên quan đến các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, trong phạm vi bài viết này, ở góc nhìn tổng quát, chúng tôi mạnh dạn trao đổi một số nội dung chính sau:

2.1. Về một số vấn đề liên quan đến thẩm quyền

Thứ nhất, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 dẫn chiếu thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt đến điều luật quy định về thẩm quyền giải quyết xét xử các vụ án hành chính tại Luật Tố tụng hành chính. Từ ngày Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, chưa có thống kê cụ thể về chất lượng giải quyết, xét xử các vụ việc có yêu cầu hủy quyết định cá biệt tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh so với kết quả xét xử cùng loại vụ việc tại Tòa án nhân dân cấp huyện trước đây, nhưng điều phản ánh thực tế là tiến độ giải quyết các vụ án loại này tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh 5 năm qua không đạt cao. Bởi lẽ quy định này đã làm tăng số lượng vụ án tranh chấp dân sự sơ thẩm tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh, giảm phần việc cho Tòa án nhân dân cấp huyện, tạo nên sự quá tải trong thụ lý, giải quyết các tranh chấp dân sự tại Tòa án nhân dân tỉnh trong điều kiện thực hiện chính sách tinh giản biên chế, nhiều việc, ít người làm như hiện nay.

Thứ hai, thẩm quyền giám đốc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện được Bộ luật Tố tụng dân sự quy định theo hướng sửa đổi của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Trong đó, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh không còn thẩm quyền giám đốc thẩm, tương ứng với quy định đó thì thẩm quyền kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh cũng thay đổi theo. Cho đến nay, tỷ lệ giải quyết đơn khiếu nại theo trình tự giám đốc thẩm tại các Tòa án nhân dân cấp cao chưa đạt được kết quả chung như mong muốn. Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng này là lượng đơn quá nhiều nhưng năng lực làm việc tại các Tòa án cấp cao chưa đáp ứng.

Bên cạnh đó, việc thay đổi thẩm quyền giám đốc thẩm trên thực tế có tác động nhất định đến phương pháp, tiến độ, chất lượng kiểm tra nghiệp vụ hằng năm tại Tòa án nhân dân địa phương; thời lượng tiến hành tố tụng, công việc nghiệp vụ của Ủy ban Thẩm phán, các thành viên Ủy ban Thẩm phán, Ủy ban kiểm sát, các thành viên Ủy ban kiểm sát tại Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh giảm, điều này tác động nhất định đến kinh nghiệm, năng lực chuyên môn của các cá nhân này, phát huy không hết các khả năng, kinh nghiệm chuyên sâu về chuyên môn nghiệp vụ của các Thẩm phán, Kiểm sát viên có thâm niên công tác, có bề dày kinh nghiệm thực tiễn giải quyết, xét xử, kiểm sát án tranh chấp tại địa phương.

Thứ ba, Bộ luật Tố tụng dân sự dành 3 điều luật để quy định về giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng, đây là quy định mới. Tuy nhiên qua 5 năm thi hành vẫn chưa có văn bản hướng dẫn chuyên sâu về nội dung này. Mặc dù trên địa bàn tỉnh Quảng Nam chưa phát sinh vấn đề liên quan, nhưng chúng tôi cho rằng vấn đề này không phải là mặt ưu điểm của Bộ luật Tố tụng dân sự trong thời gian qua, cần được nghiên cứu kỹ hơn để đảm bảo các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống.

2.2. Về một số vấn đề liên quan đến thời hạn tố tụng

Thời hạn tố tụng trong giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự bao gồm thời hạn tố tụng đối với từng loại vụ việc và thời hạn tố tụng đối với từng giai đoạn, thủ tục tố tụng. Thực tiễn thi hành các quy định này có phát sinh một số bất cập. Đối với các quy định liên quan đến thời hạn tố tụng của từng hoạt động tố tụng cụ thể, tuy có phát sinh bất cập nhưng Tòa án nhân dân tối cao đã kịp thời giải đáp vướng mắc, đồng thời trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã có nhiều cách xử lý, khắc phục được khá tốt các quy định không phù hợp. Do vậy, về cơ bản các bất cập này ảnh hưởng không lớn đến tiến độ, chất lượng xét xử các vụ việc dân sự.

Đối với quy định về thời hạn chuẩn bị giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, thực tiễn cho thấy thời gian, công sức đầu tư cho từng loại án khác nhau và ở từng cấp Tòa án cũng khác nhau. Nhưng Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về thời hạn tố tụng hiện hành dùng chung cho các cấp xét xử, chung cho các loại vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án, thậm chí loại án phức tạp như án kinh doanh thương mại [liên quan đến hoạt động của nhiều loại hình doanh nghiệp, thu thập chứng cứ ở nhiều nơi, nhiều nguồn khác nhau, quá trình thu thập chứng cứ, tống đạt văn bản tố tụng dài ngày, nhiều vụ án phụ thuộc vào tình hình dịch bệnh toàn cầu và sự hợp tác quốc tế của Việt Nam và các nước khác…] thì thời hạn ngắn hơn các loại án còn lại. Điều này là không phù hợp với yêu cầu thực tế, cần nghiên cứu, sửa đổi cho hợp lý.

2.3. Về một số vấn đề liên quan đến chứng minh, thu thập chứng cứ

Hiện nay, nguyên nhân chính khiến thời hạn giải quyết nhiều vụ án dân sự bị kéo dài là do chờ cơ quan có thẩm quyền cung cấp chứng cứ, nhất là các vụ án tranh chấp liên quan đến đất đai và các vụ án ủy thác thu thập chứng cứ, tống đạt văn bản tố tụng ở nước ngoài. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự trong 5 năm qua cho thấy các tồn tại này ở thời điểm trước năm 2015 [thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự cũ] đến nay vẫn chưa có giải pháp khắc phục triệt để. Bộ luật Tố tụng dân sự đã có quy định về nhiệm vụ cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ và phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự của các tổ chức, cá nhân liên quan và cũng có quy định xử lý trách nhiệm không hoặc chậm cung cấp thông tin, tài liệu chứng cứ. Nhưng thực tiễn thi hành các quy định này chưa đạt hiệu quả cao, tác động đến tiến độ, chất lượng thu thập thông tin, tài liệu chứng cứ; ảnh hưởng đến kết quả chứng minh; đáp ứng không tốt yêu cầu nâng cao chất lượng tranh tụng trong tố tụng dân sự; là một trong những nguyên nhân làm cho nhiều bản án bị hủy, bị sửa, nhiều vụ án phải xét xử nhiều lần, nhiều năm. Vấn đề này cần được nhìn nhận kỹ và đặt ra yêu cầu sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật tố tụng dân sự và các quy định liên quan khác để có giải pháp mạnh, hiệu quả, tháo gỡ vướng mắc liên quan, đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng thu thập chứng cứ, chứng minh trong tố tụng dân sự.

3. Những vấn đề mới phát sinh sau 5 năm thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự

Việt Nam đang hướng đến xây dựng nền kinh tế số, các yêu cầu về ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tố tụng dân sự đã hiện hữu và cấp thiết, cần nghiên cứu tổng thể để sửa đổi, bổ sung pháp luật tố tụng dân sự cho phù hợp. Trong đó có các vấn đề về thực hiện thao tác tố tụng thông qua thư điện tử [nhận, xử lý, lưu trữ dữ liệu về đơn khởi kiện, đơn yêu cầu…] và xét xử trực tuyến. Theo đó, cần có nghiên cứu kỹ lưỡng về các vấn đề này để sửa đổi các quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện nay, bổ sung các quy định mới phục vụ tốt cho quá trình tố tụng dân sự trong nền kinh tế số, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển của đất nước, chủ động ứng phó với các sự cố về thiên tai, dịch bệnh.

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã có những quy định phát huy khả năng của các đơn vị ngoài nhà nước trong thu thập chứng cứ như: thẩm định giá, tống đạt văn bản tố tụng thông qua Thừa phát lại. Trong 5 năm thi hành, các quy định này đã phát huy hiệu quả tốt, giảm thiểu được thời gian, công sức của cơ quan tiến hành tố tụng, tăng hiệu quả thu thập các chứng cứ liên quan. Chúng tôi cho rằng, theo xu hướng phát triển khoa học kỹ thuật, nhất là sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin hiện nay và thời gian đến, đặt ra các yêu cầu về thu thập chứng cứ bằng năng lực kỹ thuật chuyên ngành nhiều hơn và những năng lực này không phải là chuyên môn, là ưu điểm của Thẩm phán, Thư ký Tòa án. Theo đó, cần phải có những quy định của pháp luật để điều chỉnh quá trình thu thập chứng cứ gắn với yêu cầu kỹ thuật, công nghệ chuyên ngành như: trích dữ liệu điện tử, lưu chứng cứ điện tử, xem xét, sử dụng chứng cứ điện tử…trong tố tụng dân sự. Đồng thời, về lâu dài, cần nghiên cứu, tổng hợp thực tiễn, sửa đổi quy định pháp luật tố tụng dân sự, giao cho tổ chức ngoài nhà nước [có thể là các cơ quan, đơn vị có chức năng bổ trợ tư pháp] chủ trì thực hiện thủ tục tố tụng dân sự mà Tòa án, Thẩm phán đang làm là xem xét, thẩm định tại chỗ – một trong những thủ tục thu thập chứng cứ phụ thuộc nhiều vào năng lực chuyên môn của các cá nhân thuộc các đơn vị, cơ quan ngoài Tòa án và tốn nhiều thời gian nhất. Vấn đề là, làm sao để Thẩm phán có kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ sát với thực tế và đảm bảo được các phương án giải quyết vụ án khi xét xử.

III. Kiến nghị, đề xuất

Việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhằm khắc phục những hạn chế, tháo gỡ các vướng mắc, bổ sung các quy định mới để giải quyết những vẫn đề phát sinh từ thực tiễn là cần thiết, nhằm tạo nên hành lang pháp lý tố tụng dân sự thông thoáng, phục vụ tốt công tác giải quyết, xét xử các loại án, bảo vệ quyền lợi người dân, bảo vệ công lý, đáp ứng yêu cầu chung của xã hội, của đất nước. Theo đó, chúng tôi đề nghị:

Thứ nhất, cấp có thẩm quyền cần rà soát, tổng hợp các hạn chế, vướng mắc và những bất cập từ thực tiễn để sớm tổ chức sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự một cách toàn diện, đầy đủ.

Thứ hai, đối với những vấn đề được nêu ra trong bài viết này, chúng tôi kiến nghị như sau:

– Kiến nghị sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính về thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt theo hướng: xem yêu cầu hủy quyết định cá biệt là quan điểm của người tham gia tố tụng đối với quyết định hành chính của nhà nước và giao thẩm quyền cho Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết, xét xử các vụ việc này.

– Kiến nghị sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và các văn bản luật khác có liên quan về thẩm quyền của Ủy ban Thẩm phán, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh về kháng nghị, giải quyết giám đốc thẩm đối với quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện.

– Trước mắt, kiến nghị nghiên cứu, xem xét, sửa đổi quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thời hạn chuẩn bị giải quyết, xét xử các vụ việc kinh doanh thương mại theo hướng bằng thời hạn chuẩn bị giải quyết, xét xử vụ việc dân sự thuần túy. Về lâu dài, đề nghị nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, đề xuất hướng sửa đổi quy định thời hạn chuẩn bị giải quyết, xét xử vụ việc dân sự nói chung theo hướng phân loại thời hạn theo loại vụ việc [dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động] và theo thẩm quyền giải quyết vụ án tại từng cấp Tòa án.

– Kiến nghị nghiên cứu, bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ cung cấp thông tin chứng cứ mà không cung cấp đúng thời hạn quy định hoặc cung cấp không đầy đủ thông tin, tài liệu chứng cứ làm cho kết quả xét xử không đúng pháp luật, gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khác, theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

– Các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phần giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng chưa phát huy hiệu quả trên thực tế, nội dung chính của các quy định này tập trung vào các nguyên tắc chung về đường lối, căn cứ xác định đường lối giải quyết tranh chấp dân sự chưa có điều luật áp dụng. Chúng tôi kiến nghị sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự theo hướng quy định rõ cơ sở, nội hàm, phạm vi, căn cứ xác định tập quán làm cơ sở giải quyết tranh chấp; nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật, phạm vi những quy định pháp luật được phép sử dụng làm pháp luật tương tự khi giải quyết tranh chấp; quy định cụ thể hơn về cơ sở, điều kiện để xác định lẽ công bằng được dùng làm căn cứ khi giải quyết tranh chấp.

– Kiến nghị bổ sung vào Bộ luật Tố tụng dân sự các quy định cụ thể, phù hợp liên quan đến thu thập, lưu trữ, sử dụng nguồn chứng cứ, chứng cứ là dữ liệu điện tử; quy định cụ thể hơn về thụ lý, xử lý đơn khởi kiện qua thư điện tử; bổ sung quy định về xét xử trực tuyến. Ngoài ra, cần tổng kết thực tiễn, nghiên cứu giao cho các đơn vị chuyên ngành ngoài nhà nước thực hiện thủ tục xem xét, thẩm định tại chỗ theo quyết định của Tòa án, đảm bảo sao cho giải quyết được hai mục đích, một là giảm tải phần việc, thời gian thu thập chứng cứ của Tòa án, hai là đảm bảo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ phải sát, phải đúng thực tế, đáp ứng được đường lối giải quyết, xét xử vụ án.

Tác giả bài viết: Nguyễn Văn Dũng
Tòa Dân sự TAND tỉnh Quảng Nam

Chia sẻ

Facebook

Twitter

Pinterest

WhatsApp

Viber

Email

Print

Video liên quan

Chủ Đề