Tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài ca dao khăn thương nhớ ai là

Các bài văn phân tích bài ca dao ” Khăn thương nhớ ai” lớp 10 mới nhất dưới đây sẽ hướng dẫn cho các em biết các viết một bài phân tích những câu ca dao  như thế nào. Các em cùng tham khảo để tự giúp cho mình có nhiều kiến thức hơn để viết bài cả về nội dung lẫn nghệ thuật.

Trong các bài ca dao, dân ca xưa thật hay và ý nghĩa, các em có thể tham khảo những bài văn mẫu hay dưới đây để phân tích câu ca dao “Khăn thương nhớ ai”. Tham khảo để có thể biết được nội dung, ý nghĩa cũng như nghệ thuật của bài ca dao. Hi vọng những bài văn mẫu trên cũng giúp cho các em học sinh có thể có được một bài văn thật tốt cho mình.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn rơi xuống đất.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn vắt lên vai.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn chùi nước mắt.

Đèn thương nhớ ai,

Mà đèn không tắt.

Mắt thương nhớ ai,

Mắt ngủ không yên.

Đêm qua em những lo phiền,

Lo vì một nỗi không yên một bề…”

Đọc bài ca dao mà trong ta vẫn cứ con ngân vang da diết. Bài ca được nằm trong hệ thống ca dao về đề tài thương nhớ, có thể nói đây cũng chính là một cung bậc trong ca dao tình yêu của người bình dân Việt Nam. Với bài ca diễn tả nỗi nhớ niềm thương của một cô gái. Một nỗi nhớ nhung một nỗi nhớ thương da diết, nhớ đến thao thức và có khi nhớ đến cồn cào gan ruột mà không dễ bộc lộ được. Cô gái nhớ người yêu mà phải hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi cả mắt mình nữa,, Thực sự những câu hỏi này như càng tăng lên mức độ nhớ người yêu cho đến khi trào dân trong sự âu lo và có cả hạnh phúc nữa.

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề

Có thể thấy được chính cái khăn được hỏi đến đầu tiên và được hỏi nhiều nhất, đến 6 câu thơ:

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai.

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt.

Hình ảnh cái khăn ngày xưa người ta thường lấy đó là vật trao duyên, vật kỉ niệm gợi nhớ người. Chỉ với 6 câu thơ đầu hình ảnh khăn như được nhắc lại, với nghệ thuật theo lối vắt dòng giống như một điệp từ khúc bất tận, tất cả như thể hiện được nỗi nhớ triền miên, da diết. Cứ mỗi lần hỏi là nỗi nhớ như trào lên. Hình ảnh khăn có lúc rơi xuống, có lúc vắt lên vai, có lúc chùi nước mắt,… như đã nói lên được hình ảnh đầy cảm xúc của người con gái. Với 6 câu thơ đầu như lan tỏa nỗi nhớ vào cả không gian.

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt

Người đọc cũng thấy đây cũng chính vẫn là điệp khúc “thương nhớ cũ”, nhưng nỗi nhớ đã chuyển từ “khăn” sang “đèn”. Hình ảnh ngọn đèn gợi ra đêm khuya vò võ canh tàn, và cái đốm lửa đang cháy kia phải chăng là hình ảnh của nỗi nhớ cháy rực trong lòng cô gái? Thế rồi chính ngọn đèn mãi không chịu tắt, nỗi nhớ cứ da diết khôn nguôi. Tất cả cũng giống như chiếc khăn, ngọn đèn đã giúp cô gái thổ lộ nỗi lòng thổn thức, lo lắng của mình. Thế nhưng cho dù gợi cảm bao nhiêu, thì chiếc khăn và ngọn đèn cũng chỉ là cách nói gián tiếp theo lối biểu tượng, nhân hóa. Có thể thấy được chính nỗi lòng của cô gái buộc phải bật ra trong cách nói trực tiếp thành câu:

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên

Sự thương nhớ đến không ngủ được, cứ trằn trọc thao thức là cách biểu lộ quen thuộc trong ca dao:

Đêm nằm lưng chẳng tới giường.

Trông cho mau sáng ra đường gặp anh.

Cũng chính là một tâm trạng ấy, nhưng trong bài ca này, hình ảnh đôi mắt có sức gợi cảm sâu xa hơn nhiều. Hình ảnh mắt “Mắt ngủ không yên” tạo nên một đối xứng rất đẹp với “đèn không tắt” ở trên, gợi lên một cảnh tượng rất thực: cô gái giữa đêm khuya một mình đối diện với ngọn đèn mà nhớ người thương. Có lẽ chính vì “mắt ngủ không yên” nên “đèn không tắt”. Nếu  như nói đèn cũng chỉ là để nói người thôi. Ngọn đèn soi chiếu vào đôi mắt, càng thấy nỗi nhớ thương vời vợi khôn nguôi một chút nào.

Với mười câu thơ là 5 câu hỏi không có lời đáp. Ta như nhận thấy được điệp khúc “thương nhớ ai” dường như cứ trở đi trở lại như xoáy vào một nỗi niềm khắc khoải, da diết. Nói thêm là cách gieo vần của bài ca cũng rất đặc sắc:

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên

Người đọc cũng có thể nhận thấy được chân và vần lưng xen kẽ nhau, vần bằng và vần trắc luân phiên nhau, tất cả tạo nên một âm điệu luyến láy liên hoàn khiến cho nỗi nhớ thương của cô gái vừa như nén lại, đồng thời cũng vừa như kéo dài ra đến mênh mông vô tận theo cả không gian và thời gian. Tưởng chừng nỗi nhớ ấy sẽ không có kết thúc… Thế nhưng cũng chính bài ca phải có điểm dừng. Khi cô gái không hỏi nữa thì niềm thương nhớ trào ra thành nỗi lo phiền một chút nào.

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề…

Người đọc có thể nhận thấy được từ nhịp thơ 4 chữ dồn dập, liên tiếp, lời ca chuyển sang nhịp thơ lục bát, nhẹ nhàng hơn nhưng cũng xao xuyến hơn, giãi bày niềm lo âu của cô gái trước hạnh phúc lứa đôi. Không phải ngẫu nhiên mà chữ “lo” được nhắc đến hai lần. Nỗi nhớ thương người yêu và lo lắng cho duyên phận của mình “không yên một bề”, tâm trạng của cô gái mang ý nghĩa phổ biến cho người phụ nữ trong cuộc đời xưa đó là họ luôn luôn yêu tha thiết nhưng luôn lo sợ cho hạnh phúc bấp bênh.

Và có thể thấy được bài ca “Khăn thương nhớ ai” khá tiêu biểu cho nghệ thuật ca dao với sự lặp lại trong cách diễn tả tâm trạng, cách dùng những hình ảnh biểu tượng, lối nhân hóa để tăng thêm sức sống cho hình ảnh, cách gieo vần linh hoạt, đồng thời còn là cách cấu tạo truyền thống kết hợp những câu thơ bốn chữ với hai câu lục bát cuối cùng… Thông qua nỗi nhớ thương của người phụ nữa cũng đã cho chúng ta nhận thấy được tiếng hát yêu thương của con người bình dân xưa.

Phân tích bài ca dao khăn thương nhớ ai

Có thể hình dung: nhật vật trữ tình đang đắm mình trong nỗi nhớ nhung sầu muộn. Mọi cử chỉ bỗng hóa thẫn thờ. Chiếc khăn vắt hờ hững trên vai vô ý rơi xuống đất. Nhân vật trữ tình cúi nhặt và bỗng nhiên nhìn thấy khăn như nhìn thấy chính cõi lòng mình.

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên

Đêm qua em những lo phiền,

Lo vì một nỗi không yên một bề…

Bài ca dao thể hiện nỗi nhớ người yêu của một cô gái. Không chỉ nhớ mà còn có lo phiền, phấp phỏng. Chính sự lo phiền, phấp phỏng ấy đã làm cho nỗi nhớ còn thêm chiều sâu, khiến nỗi nhớ có thể làm lay tỉnh toàn bộ nhân cách con người.

Ca dao có rất nhiều bài nói về nỗi nhớ người yêu và mỗi bài lại toát lên một vẻ đẹp riêng. Thường thì nỗi nhớ ấy hay được thể hiện hoặc miêu tả một cách trực tiếp, dù các tác giả dân gian đã dùng rất nhiều ví von. Ở bài ca dao này, cách bày tỏ nỗi nhớ có nhiều điểm khác lạ. sắm vai một người đọc ngây thơ, ta sẽ thấy hình như nhân vật trữ tình dồn toàn bộ sự quan tâm cho khăn, cho đèn, cho mắt, tức là cho những đối tượng mà người ấy nhận rõ là chúng đang nhớ một ai đó. “Khăn thương nhớ ai”, “Đèn thương nhớ ai”, “Mắt thương nhớ ai” – với chừng ấy câu hỏi đặt ra cho những “người bạn” [riêng với khăn, câu hỏi được nhắc tới ba lần], dường như nhân vật trữ tình không còn mối bận tâm nào khác ngoài việc vỗ về, an ủi khăn, đèn, mắt. Nhưng ta chợt nhận ra một sự vô lí: ngoài khăn và đèn là những vật vô tri không thể biết nhớ, ngay cả mắt [người] đâu có phải là một sinh thể độc lập có thể biết tương tư? Vậy là nhân vật trữ tình đang sống trong cõi ảo, đang trò chuyện với những nhân vật ảo. Hiện tượng này chỉ xảy ra khi con người có tâm sự quá đầy và bị “cầm tù” bởi tâm sự đó. Tâm sự tràn ra ngoại giới, phủ trùm cái bóng của mình lên tất cả, khiến mọi vật bỗng trở nên có hồn và có thể trở thành những đối tượng chuyện trò. Tuy nhiên, lúc này, chuyện trò với khăn, với đèn, với mắt thì cũng chỉ là chuyện trò với chính lòng mình mà thôi. Nói cách khác chuyện trò với ai, về cái gì, trong trường hợp này, cũng chỉ là một sự tự giãi bày.

Có thể hình dung: nhật vật trữ tình đang đắm mình trong nỗi nhớ nhung sầu muộn. Mọi cử chỉ bỗng hóa thẫn thờ. Chiếc khăn vắt hờ hững trên vai vô ý rơi xuống đất. Nhân vật trữ tình cúi nhặt và bỗng nhiên nhìn thấy khăn như nhìn thấy chính cõi lòng mình. Khăn ơi, tại sao mày lại rơi xuống đất? Mày đang nhớ thương ai vậy? Những câu hỏi rưng rưng nỗi niềm đã được đặt ra trong trạng thái mộng du của nhân vật trữ tình. Chúng không phản ánh cái gì khác ngoài cõi lòng người hỏi. Nói khăn và đèn được nhân hóa thì cũng đúng. Nhưng có lẽ đúng hơn nếu nói chúng là hình ảnh của nhân vật trữ tình được khúc xạ qua một tấm gương soi đặc biệt. Những động thái của chúng không có ý nghĩa độc lập mà chỉ là sự phản chiếu những cử chỉ và diễn biến tâm lí đa dạng, phức tạp của tác giả bài ca dao. Người ta thường nói ca dao có vẻ đẹp mộc mạc, giản dị. Trong trường hợp này, sự giản dị, mộc mạc vẫn thể hiện [đặc biệt qua hệ thống những hình ảnh gần gũi và qua lời nói “trong suốt”, không trang sức], nhưng không vì thế mà cái ảo diệu biến hóa lại không để lại dấu ấn đậm nét.

Tuy đi sâu vào chốn u uẩn của cõi lòng, bài ca dao vẫn giữ được tính mạch lạc của cấu trúc. Các hình ảnh khăn, đèn, mắt không hề xuất hiện một cách ngẫu nhiên. Khăn vắt vai, khăn để chùi nước mắt, ngọn đèn thắp chong canh dài, đôi mắt đẫm lệkhông chịu nhắm ngủ – đó đều là những hình ảnh có tính đặc thù mà thơ ca [trong đó có ca dao] thường mượn để thể hiện tâm trạng nhớ nhung, thao thức. Chúng liên kết với nhau một cách chặt chẽ nhằm biểu đạt một chủ đề thống nhất. Giữa chiếc khăn và đôi mắt có mối liên hệ thế nào, chính bài ca dao đã nói rõ. Còn ngọn đèn? Nó cũng có thể được hiểu là một con mắt khác thức thi với mắt người giữa đêm thâu vời vợi. Chẳng phải ngọn đèn vẫn thường làm bạn với ta mỗi khi ta có điều lo nghĩ đó sao? Một điều đáng lưu ý nữa là trình tự xuất hiện của các hình ảnh. Khăn xuất hiện trước rồi đến đèn và sau cùng là mắt. Có một sự dịch chuyển từ xa đến gần của các hình ảnh, từ sự vật bên ngoài đến chính con người tác giả. Nỗi nhớ càng được thổ lộ lại càng nồng nàn – nồng nàn đến mức làm rung lên toàn bộ thế giới tâm hồn của nhân vật trữ tình và xét về hiệu quả thẩm mĩ, nó cũng làm biến chuyển cả nhịp thơ. Sáu dòng thơ đầu dành để tâm sự cùng khăn. Chúng mang nhịp điệu kể lể đều đều, ri rả và có giọng bùi ngùi. Bốn dòng thơ sau được san đôi, dành sự “quan tâm” cho cả đèn và mắt. Nhịp thơ gấp gáp hơn trong một kiểu liệt kê hối hả. Nhân vật trữ tình đã chạm đến đáy tâm sự và niềm thao thức của mình. Trạng thái mộng du dần tan để trả con người về với sự kiểm soát của lí trí. Một giai đoạn của cảm xúc thế là đã qua đi.

Hai dòng cuối của bài ca dao là một câu lục bát mênh mang nỗi niềm. Con thuyền thơ, sau lúc tự để mình rơi vào vòng vây của nỗi nhớ chập chùng, đã thoát ra với không gian trầm tư lặng lẽ. Tuy nhiên, không thể bảo rằng nhân vật trữ tình – người chèo lái nó – đã tìm được sự bình yên. Những con sóng ưu phiền khác đang lao xao bủa đến… Nhìn chung, việc thay đổi thể thơ ở đây rất có ý nghĩa. Một mặt nó báo hiệu sự chuyển biến tinh tế trong dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình, mặt khác nó đảm bảo chức năng điều hòa nhịp thở của người diễn xướng, người đọc, không để tiếp diễn sự kể lể có nguy cơ kéo bài ca dao rơi vào tình trạng dài dòng, gây nên cảm giác căng thẳng không cần thiết. Sự bộc lộ trực tiếp tâm trạng dưới hình thức mờ tối, rối rắm của chính tâm trạng đã được thay thế bằng một nhận định khái quát về cái tính chất của tâm trạng đã được thay thế bằng một nhận định khái quát về cái tính chất của tâm trạng. Nhân vật trữ tình hiểu rằng mình đã lo phiền và cũng biết nguyên nhân của nỗi lo phiền ấy. Yêu nhau nhiều nhưng dễ gì đến được với nhau, lấy được nhau. Bao nhiêu chuyện phải bận lòng, bao nhiêu thứ có thể cản trở hạnh phúc. Cô gái nói “Lo vì một nỗi không yên một bề” – chỉ một bề nhưng lại bề bề nỗi lo, bởi bề ấy không thuộc bề [tức là phía] cô gái, mà thuộc về bề cô không thể làm chủ, không thể chi phối được.

Bài ca nằm trong hệ thống ca dao về đề tài thương nhớ, một cung bậc trong ca dao tình yêu của người bình dân Việt Nam. Bài ca diễn tả nỗi nhớ niềm thương của một cô gái. Nhớ thương da diết, nhớ đến thao thức, cồn cào gan ruột mà không dễ bộc lộ. Cô phải hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi cả mắt mình. Những câu hỏi không có câu trả lời càng nén chặt nỗi thương nhớ, để cuối cùng trào ra trong nỗi lo âu cho hanh phúc:

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề

Cái khăn được hỏi đến đầu tiên và được hỏi nhiều nhất, đến 6 câu thơ:

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt

Cái khăn [khăn đội đầu hoặc khăn tay] thường là vật trao duyên, vật kỉ niệm gợi nhớ người yêu [Gửi khăn, gửi áo, gửi lời – Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa]. Sáu câu thơ được cấu trúc theo lối vắt dòng, láy lại 6 lần từ “khăn” ở vị trí đầu các câu thơ và láy lại 3 lần câu “khăn thương nhớ ai” như một điệp khúc bất tận, thể hiện nỗi nhớ triền miên, da diết. Dường như mỗi lần hỏi là nỗi nhớ lại trào dâng thêm. Cái khăn, tự nó không biết “thương nhớ” không biết “rơi xuống”, “vắt lên”, “chùi nước trắt”, nhưng những hình ảnh vận động mang cảm xúc người đã làm hiện lên hình ảnh con người với tâm trạng ngổn ngang niềm thương nhớ cùng nỗi lo âu. Nhớ đến ngơ ngẩn, nỗi nhớ tỏa theo nhiều hướng của không gian “khăn rơi xuống đất” rồi lại “khăn vắt lên. Vai”, cuối cùng thu lại trong cảnh khóc thầm “khăn chùi nước mắt”.

Nỗi nhớ trong 6 câu trên lan tỏa vào không gian, đến 4 câu tiếp lại xuyên suốt theo thời gian. Nỗi nhớ ban ngày kéo dài sang cả ban đêm:

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt

Vẫn là điệp khúc “thương nhớ cũ”, nhưng nỗi nhớ đã chuyển từ “khăn” sang “đèn”. Hình ảnh ngọn đèn gợi ra đêm khuya vò võ canh tàn, và cái đốm lửa đang cháy kia phải chăng là hình ảnh của nỗi nhớ cháy rực trong lòng cô gái? Ngọn đèn mãi không chịu tắt, nỗi nhớ cứ da diết khôn nguôi. Cũng như chiếc khăn, ngọn đèn đã giúp cô gái thổ lộ nỗi lòng.

Nhưng dù gợi cảm bao nhiêu, thì chiếc khăn và ngọn đèn cũng chỉ là cách nói gián tiếp theo lối biểu tượng, nhân hóa. Nỗi lòng của cô gái buộc phải bật ra trong cách nói trực tiếp:

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên.

Thương nhớ đến không ngủ được, cứ trằn trọc thao thức là cách biểu lộ quen thuộc trong ca dao:

Đêm nằm lưng chẳng tới giường

Trông cho mau sáng ra đường gặp anh

Tuy nhiên, cũng là một tâm trạng ấy, nhưng trong bài ca này, hình ảnh đôi mắt có sức gợi cảm sâu xa hơn nhiều. “Mắt ngủ không yên” tạo nên một đối xứng rất đẹp với “đèn không tắt” ở trên, gợi lên một cảnh tượng rất thực: cô gái giữa đêm khuya một mình đối diện với ngọn đèn mà nhớ người thương. Vì “mắt ngủ không yên” nên “đèn không tắt”. Nói đèn cũng chỉ là để nói người thôi. Ngọn đèn soi chiếu vào đôi mắt, càng thấy nỗi nhớ thương vời vợi khôn nguôi.

Mười câu thơ là 5 câu hỏi không có lời đáp. Điệp khúc “thương nhớ ai” trở đi trở lại như xoáy vào một nỗi niềm khắc khoải, da diết. Năm lần từ “thương nhớ” và năm lần từ “ai” xuất hiện. Bản thân từ “ai” xuât hiện. Bản thán từ “ai” mang ý phiếm chỉ, gợi lên một nỗi nhớ thương sâu thẳm mênh mông, không giới hạn. Từ “ai” là phiếm chỉ, không xác định cá thể đối tượng, nhưng người nghe hoàn toàn hiểu được “ai” ấy là ai. Hỏi không có trả lời, nhưng thực ra cầu trả lời đã nằm trong giọng điệu khắc khoải, da diết kia. Không cần nói rõ, nhưng nỗi nhớ người yêu đã được bộc lộ một cách kín đáo mà gợi cảm, sâu sắc, mãnh liệt.

Cách gieo vần của bài ca cũng rất đặc sắc:

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên

Vần chân và vần lưng xen kẽ nhau, vần bằng và vần trắc luân phiên nhau, tất cả tạo nên một âm điệu luyến láy liên hoàn khiến cho nỗi nhớ thương của cô gái vừa như nén lại, vừa như kéo dài ra đến mênh mông vô tận theo cả không gian và thời gian. Tưởng chừng nỗi nhớ ấy sẽ không có kết thúc… Nhưng bài ca phải có điểm dừng. Khi cô gái không hỏi nữa thì niềm thương nhớ trào ra thành nỗi lo phiền.

Đêm qua em những lo phiền,

Lo vì một nỗi không yên một bề…

Từ nhịp thơ 4 chữ dồn dập, liên tiếp, lời ca chuyển sang nhịp thơ lục bát, nhẹ nhàng hơn nhưng cũng xao xuyến hơn, giãi bày niềm lo âu của cô gái trước hạnh phúc lứa đôi. Không phải ngẫu nhiên mà chữ “lo” được nhắc đến hai lần. Nhớ thương người yêu và lo lắng cho duyên phận của mình “không yên một bề”, tâm trạng của cô gái mang ý nghĩa phổ biến cho người phụ nữ trong cuộc đời xưa: yêu tha thiết nhưng luôn lo sợ cho hạnh phúc bấp bênh.

Bài ca khá tiêu biểu cho nghệ thuật ca dao với sự lặp lại trong cách diễn tả tâm trạng, cách dùng những hình ảnh biểu tượng, lối nhân hóa để tăng thêm sức sống cho hình ảnh, cách gieo vần linh hoạt, cách cấu tạo truyền thống kết hợp những câu thơ bốn chữ với hai câu lục bát cuối cùng… Qua nỗi thương nhớ và niềm lo âu được diễn tả trong bài ca, ta nhận ra tiếng hát yêu thương và khao khát yêu thương của người bình dân xưa.

Nỗi nhớ trong tình yêu là một đề tài quen thuộc trong thế giới ca dao. Khi thì nghẹn ngùng, bẽn lẽn, khi thì làm con người ta muốn cháy hết mình trong tình yêu. Và nỗi nhớ của cô gái trong bài ca dao “ Khăn thương nhớ ai” như một khúc nhạc da diết trầm bổng réo rắt đến nao lòng. Nỗi nhớ khắc khoải da diết khiến cho nhân vật trữ tình phải cất lên những câu hỏi dồn dập không có câu trả lời. Nỗi nhớ bị nén chặt trong lòng rồi lại trào ra mênh mông, mãnh liệt. Chủ thể ở đây là cô gái đang sống trong tâm trạng nhớ thương người yêu không nguôi:

“Khăn thương nhớ ai,

Khăn rơi xuống đất.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn vắt lên vai.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn chùi nước mắt.

Đèn thương nhớ ai,

Mà đèn không tắt.

Mắt thương nhớ ai,

Mắt ngủ không yên.

Đêm qua em những lo phiền,

Lo vì một nỗi không yên một bề…”

Nỗi nhớ thương trong tình yêu của người con gái được bộc lộ gián tiếp qua những hình ảnh tượng trưng, biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, hình thức lặp kèm theo những câu hỏi tu từ. Hình ảnh “ khăn” được nhắc đến đầu tiên và cũng nhiều nhất trong bài. Giống như áo khăn vốn là vật dụng gần gũi và thường là vật trao duyên ấp iu kỉ niệm. Cấu trúc vắt dòng, lặp lại từ “ khăn” ở đầu mỗi câu thơ khiến cho câu ca dao vang lên như nỗi nhớ thương triền mien, dằng dặc khắc khoải, khôn nguôi. Chiếc khăn không thể làm nên câu chuyện về tình thương nỗi nhớ. Chiếc khăn là người bạn đối với người con gái mà nhiều lần làm rơi xuống đất lại nhặt lên.

Chiếc khăn như chứng nhân của tình yêu thay người nói hộ nỗi lòng, an ủi động viên người đang yêu. Đó là một chuỗi hành động tự nhiên, vô thức gắn liền với chiếc khăn như là sự lí giải cho nỗi nhớ khiến người ta không thể tự chủ được trong hành vi. Nỗi nhớ mang màu sắc nữ tính nói lên không chỉ tấm lòng mà cả nhân cách, vẻ đẹp tâm hồn của người đang nhớ, biết trân trọng, nâng niu nỗi nhớ, biết ghi lại nỗi nhớ trong lòng. Nếu sáu câu thơ đầu gợi tả nỗi nhớ trải dài, lan tỏa trong không gian thì sáu câu thơ cuối được đong đếm bằng thời gian, chuyển từ ngày sang đêm. Cấu trúc thương nhớ vẫn được giữ lại và nhân lên. Nỗi nhớ được gửi vào “ ngọn đèn”. Ngọn đèn gắn với khoảng thời gian ưu tư sần muộn khi đêm đến. Trong không gian vò võ của đêm khuya, khi ngọn đèn cháy sáng ở đầu ngọn bấc nỗi nhớ cũng cháy rực trong lòng cô gái trẻ.

Chừng nào ngọn lửa của tình yêu còn cháy thì ngọn đèn chưa tắt. Đèn chẳng tắt vì con người còn trằn trọc thâu đêm. Đèn thương nhớ ai hay cô gái thương nhớ ai. “ Ai” chỉ có thể là chàng trai, người đà chiếm trọn vẹn trái tim của cô gái. Nỗi nhớ được đo bằng thời gian là nỗi nhớ sâu sắc, nỗi nhớ không bao giờ lụi tắt luôn thường trực trong trái tim của người đang yêu. Nỗi nhớ còn được bộc lộ qua con mắt. Mượn đôi mắt để giãi bày tình cảm, cô gái trẻ đã không kìm giữ được tình cảm của mình. Qua con mắt thấy được cả khung trời yêu thương:

“Mắt em là gợn trong

Soi đời anh lấp lánh

Những sớm chiều ấm lạnh

Mắt em là quê hương”

“ Mắt ngủ không yên” là hình ảnh người con gái trằn trọc, khôn nguôi. Nỗi nhớ trong tiềm thức. Hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi mắt cũng là để hỏi chính mình. 5 lần câu hỏi vang lên cũng là 5 lần từ “ai” xoáy vào lòng mình, mãnh liệt không dứt. Hai câu cuối chuyển sang thơ lục bát khá tự nhiên, phù hợp tháo gỡ những dằn vặt, dồn nén ở bên trên. Hóa ra những ưu phiền của cô gái là lo vì một nỗi không yên một bề. Căn nguyên của nỗi lo lắng của cô gái có thể là chàng trai không yêu cô như cô gái đã từng yêu gia cảnh nghèo khó, áp đặt gia đình. Chỉ biết rằng nỗi lo ấy mãi ám ảnh cô gái. Nỗi lo lắng giàu giá trị nhân văn khi cho ta thấy có khao khát mới có lo âu, có lo âu thì mới xây dựng được tình yêu trọn vẹn, hạnh phúc.

Bài ca dao thể hiện tình yêu mãnh liệt của một người con gái, và sự mong ngóng chờ đợi chàng trai của mình. Qua nỗi thương nhớ và niềm lo âu được diễn tả trong bài ca, ta nhận ra tiếng hát yêu thương và khao khát yêu thương của người bình dân xưa.

Khăn thương nhớ ai

Từ xưa tới nay, nền văn học Việt Nam vốn dĩ rất phong phú đa dạng, từ phong cách thể hiện cho tới thể loại. Xuất hiện sơm và có được sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ xa xưa, ca dao đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của con người Việt Nam. Đó có thể là lời răn dạy, là lời gửi gắm là tình yêu, là sự nhớ nhung chưa có cơ hội để ngõ. Thông qua những câu ca dao, người ta dễ dàng tìm thấy một sự đồng cảm, sâu lắng và tinh tế. Khăn thương nhớ ai” là một trong những bài ca dao có nôi dung về tình yêu đôi lứa được gợi mở bằng những hình ảnh mang tính biểu tượng cao. Người xưa vốn có cách thể hiện tình cảm rất riêng, họ thường mượn những vật dụng gần gũi với bản thân mình để gợi thương gợi nhớ, tình yêu cũng mạnh liệt và nồng nàn. Bằng những từ ngữ thắm đượm tình cảm , chất chứa bao nỗi niềm. Đặc biệt khi tình yêu tới một cách dồn dập, nhịp đập con tim lại càng thêm mạnh mẽ. Từ những lời ca câu hát cho tới những câu thơ, câu ca doa không biết từ khi nào đi vào lòng người. Người ta thể hiện tình yêu bằng cách đối đáp nhau:

“ Hôm qua tát nước bên đình

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen

Em được thì cho em xin

Hay là em để làm tin trong nhà…”

Những lời thơ ngọt ngào nhưng lại hết sức giản dị, đi vào lòng người một cách tự nhiên nhất. “ khăn thương nhớ ai” cũng là một bài ca dao như vậy. Với thể thơ 4 chữ, kết thúc bài thơ với 2 câu lục bát thật mượt mà, đây là cách mà người trong bài thơ- một người con gái chọn lựa để thể hiện niềm thương nỗi nhớ của mình với người thương.

“Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề.

Hình ảnh chiếc khăn được sử dụng trong bài thơ được nhắc đi nhắc lại 6 lần, hình ảnh đèn nhắc tới 2 lần và đôi mắt được nhắc tới hia lần. Khăn trong các yêu là vật trao duyên, là thứ mà chàng thường tặng nàng, hay cũng là vật dụng quen thuộc đối với các cô gái. Đèn cũng vậy, cũng là một hình ảnh đẹp, luôn luôn chiếu sáng như tia sáng của tình yêu vậy. Còn đôi mắt, cửa sổ tâm hồn, cửa sổ ấy luôn tạo ra muôn vàn thứ tươi đẹp, và cũng chính bằng cửa sổ đó, soi sáng tâm hồn của mỗi người.

Bằng việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa cái khăn cái đèn đã trở nên có hồn, nó giống như là một sinh linh là linh hồn của cô gái trong bài ca dao. Còn đôi mắt ở đây lại hoán dụ để diễn tả tâm trạng khắc khoải của nhân vật trong bài ca dao. Cũng với việc sử dụng lặp từ , tác giả dân gian muốn nhấn mạnh rằng niềm thương nỗi nhớ đó, cứ khắc khoải xảy ra thường trực hằng ngày cứ đợi mong nhớ thương người yêu, cô gái đó đang sống trong tình yêu. Nỗi nhớ da diết, đứng ngồi không yên, làm gì cũng hiện hữu nỗi nhớ không yên. Giống như trong câu:

“ Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Quả thực trong tình yêu, nỗi nhớ ngày một tăng một rõ nét, nhìn vào một cái gì đều hiện hữu nỗi nhớ mong: “ khăn rơi xuống đất, khăn vắt lên vai, khăn chùi nước mắt…” nỗi nhớ đó lại còn được gửi gắm sang ngọn đèn “ đèn thương nhớ ai ,mà đèn không tắt” và rồi là mắt thương nhớ ai ? mắt ngủ không yên” . Tất cả như làm cho nỗi nhớ nhung càng thêm sâu sắc rạo rực.

Đến cuối bài thơ, hia câu thơ lục bát như đỉnh điểm của nỗi nhớ. Không mượn những vật dụng , không nhờ những hình ảnh khác nói hộ lòng mình nữa, cô gái thốt lên, vang vọng trong tâm hồn cô :

“đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề”

Tình cảm tâm trạng của cô gái trong bài xuất hiện trong cội nguồn thương nhớ, nên điều mà cô lo cũng dễ hiểu, cô lo chàng trai có yêu thương mình không, có như mình bây giờ không, có nhớ thương da diết không… Chỉ với những dòng thơ ngắn ngủi mà bao nhiều cảm xúc được dồn nén vào đấy. Cảm xúc của nhân vật trữ tình, không sử dụng những động từ mạnh để biểu đạt nhưng với những hình ảnh, với mức độ lặp lại, và với tình cảm chất chứa trong đó,đã gửi gắm bao điều đẹp đẽ cũng như tâm lý chung trong tình yêu.

Trong bộn bề cuộc sống, trong tình yêu lứa đôi, những câu ca dao cất lên như xóa tan mệt mỏi mà cũng xua ta đi sự “ bổi hổi bồi hồi” không biết tìm ai mà nói hộ , giãi bày. Qua bài ca dao, ta cũng thấy được, xúc cảm tình yêu thật mãnh liệt và bùng cháy, chính tình yêu đã khiến cho con người ta, dù là một cô gái cũng dám nói lên suy nghĩ tình cảm của chính mình, dành cho người mình thương.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn rơi xuống đất.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn vắt lên vai.

Khăn thương nhớ ai,

Khăn chùi nước mắt.

Đèn thương nhớ ai,

Mà đèn không tắt,

Mắt thương nhớ ai,

Mắt ngủ không yên.

Đêm qua em những lo phiền,

Lo vì một nỗi không yên một bề…

Bài thơ được viết theo thể bốn chữ và kết thúc bằng hai câu lục bát rất phù hợp với việc gửi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái phức tạp, tinh tế của tâm hồn. Nhân vật trữ tình trong bài ca dao là cô gái đang sống trong tâm trạng thương nhớ người yêu khôn nguôi. Những lo phiền chất chứa trong lòng cũng xuất phát từ niềm thương nhớ ấy.

Thương nhớ vốn là thứ tình cảm khó hình dung, nhất là thương nhớ trong tình yêu. Vậy mà ở bài này, nó lại được diễn tả một cách cụ thể, tinh tế và gợi cảm nhờ cách nói bằng những hình ảnh tượng trưng mang tính nghệ thuật cao. Nỗi niềm thương nhớ của cô gái đối với người yêu đã được gửi gắm vào các sự vật như cái khăn, cái đèn, đôi mắt, đặc biệt là hình ảnh cái khăn.

Xưa kia, cái khăn thường là ki vật để trao duyên, gợi nhớ đến người yêu đang xa cách:

Gửi khăn, gửi ảo, gửi lời,

Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa.

Hay

Nhớ khi khăn mở, trầu trao,

Miệng thì cười nụ biết bao nhiêu tình.

Các tác giả dân gian mượn ngoại vật là cái khăn, cái đèn đã được nhân hoá và con mắt là hoán dụ để diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình. Rõ ràng mục đích của nhà thơ bình dân là biến cái khăn, cái đèn, đôi mầt thành biểu tượng cho nỗi niềm thương nhớ của người con gái đang yêu.

Sáu câu thơ cấu trúc theo lối vắt dòng láy lại sáu lần từ Khăn ở vị trí đầu câu và láy lại ba lần câu hỏi thương nhớ ai thể hiện nỗi nhớ triền miên, da diết. Dường như mỗi lần hỏi là một lần nỗi nhớ lại trào dâng. Yêu và nhớ là hai mặt của tình yêu, yêu say đắm thì nhớ thiết tha. Đó là nỗi nhớ có không gian trải ra trên nhiều chiều: Khăn rơi xuống đất, Khăn vắt lên vai, Khăn chùi nước mắt và biểu hiện trong mọi suy nghĩ, hành động, khiến cô gái bồn chồn, khắc khoải như đứng đống lửa, như ngồi đống than và rơi nước mắt.

Sáu câu thơ hỏi khăn gồm 24 chữ, thì đã có đến 16 thanh bằng mà hầu hết là thanh không, gợi nỗi thương nhớ người yêu đến cháy lòng của cô gái. Tuy vậy, cô vẫn biết kìm nén dòng cảm xúc đang dâng trào trong tâm hồn.

Nỗi nhớ mở rộng theo không gian và trải dài theo thời gian. Nỗi nhớ được tiếp tục gửi vào ngọn đèn: Đèn thương nhớ ai, Mà đèn không tắt. Chừng nào ngọn lửa tình yêu vẫn cháy sáng trong trái tim người con gái thì ngọn đèn kia vẫn sáng thâu đêm. Đèn không tắt hay chính con người đang thao thức thâu đêm trong nỗi nhớ thương đằng đẵng? Nếu trên kia, cái khăn đã biết giãi bày, thì ở đây, ngọn đèn cũng biết thổ lộ. Nó nói với chúng ta nhiều điều không có trong lời ca…

Cuối cùng, cô gái hỏi chính đôi mất của mình. Dù kín đáo, gợi cảm bao nhiêu chăng nữa thì cái khăn và ngọn đèn cũng chỉ là những hình ảnh được mượn làm cái cớ để gửi gắm nỗi niềm tâm sự. Đến đây, dường như không kìm lòng được nữa, cô gái đã hỏi trực tiếp chính mình: Mất thương nhớ ai, Mắt ngủ không yên. Nỗi nhớ thương nặng trĩu, cho nên: Đêm nằm lưng chẳng tới giường. Cứ nhắm mắt vào, hình ảnh người thương lại hiện ra, ngủ làm sao cho được! Ở trên là đèn không tắt thì ở đây Mắt ngủ không yên. Hình tượng thơ thật hợp lí, nhất quán và tự nhiên như tình yêu và niềm thương nỗi nhớ của cô gái.

Nếu tâm trạng cô gái trong những câu thơ bốn chữ được diễn tả bằng hình thức gián tiếp thì đến hai câu lục bát cuối cùng nó đã được giãi bày trực tiếp, ở trên, nỗi nhớ còn được che giấu ít nhiều bằng những hình ảnh có tính chất tượng trưng thì đến đây trái tim đã tự thốt lên Iời.

Tâm trạng lo phiền của cô gái cũng xuất phát từ cội nguồn thương nhớ. Cô Lo vì một nỗi không yên một bề. Một nỗi, một bề mà hoá thành rất nhiểu vấn vương, thao thức. Cô gái lo cho chàng trai hay lo rằng chàng trai không yêu thương mình tha thiết như mình đã yêu thương chàng? Đây cũng là tâm trạng phổ biến của những cô gái đang yêu.

Nỗi nhớ được nói đến dồn dập trong 10 câu thơ 4 chữ, chỉ có lời hỏi mả không có lời đáp. Nhưng câu trả lời đã được giản tiếp khẳng định trong năm điệp khúc thương nhớ ai vang mãi không dứt như một niềm khắc khoải để rồi cuối cùng trào ra thành một niềm lo âu thực sự cho hạnh phúc lứa đôi:

Đêm qua em những lo phiền,

Lo vì một nỗi không yên một bề…

Tình yêu dù trong sáng, mãnh liệt, lãng mạn bay bổng tới đâu chăng nữa cũng gắn bó với đời thường mà đời thường vốn lại nhiều dâu bể. Bởi thế mà Cô gái nhớ thương người yêu và lo lắng cho duyên phận đôi lứa không yên một bề. Vì sao vậy? Phải đặt bài ca này vào cuộc sống của người phụ nữ xưa và trong hệ thống của những bài ca than thân về hôn nhân và gia đình thì ta mới thấy hết ý nghĩa của hai câu kết, hạnh phúc lứa đôi của họ thường bấp bênh vì tình yêu tha thiết nhiều khi không dẫn đến hôn nhân. Mặc dầu vậy, bài ca dao vẫn là tiếng hát của một trái tim khao khát yêu thương.. Điều đó khiến cho nỗi nhớ này không hề bi luỵ mà như một nét đẹp trong tâm hồn đáng quý của các cô gái Việt ở làng quê xưa

Phân tích bài khăn thương nhớ ai

Từ xưa tới nay, nền văn học Việt Nam vốn dĩ rất phong phú đa dạng, từ phong cách thể hiện cho tới thể loại. Xuất hiện sơm và có được sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ xa xưa, ca dao đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của con người Việt Nam. Đó có thể là lời răn dạy, là lời gửi gắm là tình yêu, là sự nhớ nhung chưa có cơ hội để ngõ. Thông qua những câu ca dao, người ta dễ dàng tìm thấy một sự đồng cảm, sâu lắng và tinh tế. Khăn thương nhớ ai” là một trong những bài ca dao có nôi dung về tình yêu đôi lứa được gợi mở bằng những hình ảnh mang tính biểu tượng cao.

Người xưa vốn có cách thể hiện tình cảm rất riêng, họ thường mượn những vật dụng gần gũi với bản thân mình để gợi thương gợi nhớ, tình yêu cũng mạnh liệt và nồng nàn. Bằng những từ ngữ thắm đượm tình cảm , chất chứa bao nỗi niềm. Đặc biệt khi tình yêu tới một cách dồn dập, nhịp đập con tim lại càng thêm mạnh mẽ. Từ những lời ca câu hát cho tới những câu thơ, câu ca doa không biết từ khi nào đi vào lòng người. Người ta thể hiện tình yêu bằng cách đối đáp nhau:

“ Hôm qua tát nước bên đình

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen

Em được thì cho em xin

Hay là em để làm tin trong nhà…”

Những lời thơ ngọt ngào nhưng lại hết sức giản dị , đi vào lòng người một cách tự nhiên nhất. “ khăn thương nhớ ai” cũng là một bài ca dao như vậy. Với thể thơ 4 chữ, kết thúc bài thơ với 2 câu lục bát thật mượt mà, đây là cách mà người trong bài thơ- một người con gái chọn lựa để thể hiện niềm thương nỗi nhỡ của mình với người thương.

“Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề.

Hình ảnh chiếc khăn được sử dụng trong bài thơ được nhắc đi nhắc lại 6 lần, hình ảnh đèn nhắc tới 2 lần và đôi mắt được nhắc tới hia lần. Khăn trong các bài thơ tình yêu là vật trao duyên, là thứ mà chàng thường tặng nàng, hay cũng là vật dụng quen thuộc đối với các cô gái. Đèn cũng vậy, cũng là một hình ảnh đẹp, luôn luôn chiếu sáng như tia sáng của tình yêu vậy. Còn đôi mắt, cửa sổ tâm hồn, cửa sổ ấy luôn tạo ra muôn vàn thứ tươi đẹp, và cũng chính bằng cửa sổ đó, soi sáng tâm hồn của mỗi người.

Bằng việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa cái khăn cái đèn đã trở nên có hồn, nó giống như là một sinh linh là linh hồn của cô gái trong bài ca dao. Còn đôi mắt ở đây lại hoán dụ để diễn tả tâm trạng khắc khoải của nhân vật trong bài ca dao.

Cũng với việc sử dụng lặp từ , tác giả dân gian muốn nhấn mạnh rằng niềm thương nỗi nhớ đó, cứ khắc khoải xảy ra thường trực hằng ngày cứ đợi mong nhớ thương người yêu, cô gái đó đang sống trong tình yêu. Nỗi nhớ da diết, đứng ngồi không yên, làm gì cũng hiện hữu nỗi nhớ không yên. Giống như trong câu:

“ Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Quả thực trong tình yêu, nỗi nhớ ngày một tăng một rõ nét, nhìn vào một cái gì đều hiện hữu nỗi nhớ mong: “ khăn rơi xuống đất, khăn vắt lên vai, khăn chùi nước mắt…” nỗi nhớ đó lại còn được gửi gắm sang ngọn đèn “ đèn thương nhớ ai ,mà đèn không tắt” và rồi là mắt thương nhớ ai ? mắt ngủ không yên” . Tất cả như làm cho nỗi nhớ nhung càng thêm sâu sắc rạo rực.

Đến cuối bài thơ, hia câu thơ lục bát như đỉnh điểm của nỗi nhớ. Không mượn những vật dụng , không nhờ những hình ảnh khác nói hộ lòng mình nữa, cô gái thốt lên, vang vọng trong tâm hồn cô :

“đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề”

Tình cảm tâm trạng của cô gái trong bài xuất hiện trong cội nguồn thương nhớ, nên điều mà cô lo cũng dễ hiểu, cô lo chàng trai có yêu thương mình không, có như mình bây giờ không, có nhớ thương da diết không…

Chỉ với những dòng thơ ngắn ngủi mà bao nhiều cảm xúc được dồn nén vào đấy. Cảm xúc của nhân vật trữ tình, không sử dụng những động từ mạnh để biểu đạt nhưng với những hình ảnh, với mức độ lặp lại, và với tình cảm chất chứa trong đó,đã gửi gắm bao điều đẹp đẽ cũng như tâm lý chung trong tình yêu.

Trong bộn bề cuộc sống, trong tình yêu lứa đôi, những câu ca dao cất lên như xóa tan mệt mỏi mà cũng xua ta đi sự “ bổi hổi bồi hồi” không biết tìm ai mà nói hộ , giãi bày. Qua bài ca dao, ta cũng thấy được, xúc cảm tình yêu thật mãnh liệt và bùng cháy, chính tình yêu đã khiến cho con người ta, dù là một cô gái cũng dám nói lên suy nghĩ tình cảm của chính mình, dành cho người mình thương.

Kho tàng ca dao Việt Nam vô cùng phong phú, giàu giá trị tư tưởng, nghệ thuật, là “thơ của vạn nhà”, là tấm gương soi cho tâm hồn và đời sống dân tộc, là niềm tự hào khôn xiết về cái cách mà những con người lao động Việt Nam trực tiếp bày tỏ lòng mình mà không cần nhớ đến bất kì một khuôn khổ thơ chính quy nào. Họ gửi gắm vào đó là yêu thương, vui sướng, khổ đau; là hoài bão, ước mơ, niềm hi vọng, niềm mong mỏi… Không nằm ngoài chuỗi sáng tác mang đề tài thương nhớ làm nên bản sắc văn hóa dân gian, bài ca dao được nhà phê bình Hoài Thanh đánh giá là “hay nhất Việt Nam”, “Khăn thương nhớ ai” cũng trĩu nặng nỗi nhớ của người con gái đang yêu, sâu lắng và hay lạ lùng…

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chịu nước mắt

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn chẳng tắt

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yêu một bề”

Thương nhớ vốn là thứ tình cảm khó hình dung, nhất là thương nhớ trong tình yêu. Vậy mà ở bài này, nó lại được diễn tả một cách cụ thể, tinh tế và gợi cảm nhờ cách nói hình ảnh tượng trưng mang tính nghệ thuật cao. Nỗi niềm thương nhớ của cô gái đối với người yêu đã gửi gắm vào các sự vật như cái khăn, cái đèn, đôi mắt, đặc biệt là hình ảnh cái khăn. Đó là nỗi nhớ thương đến tan chảy cõi lòng nhưng không tự bộc lộ một cách buông tuồng dễ dãi. Đó là tâm trạng nỗi lòng không biết ngỏ cùng ai, cứ hiện dần lên và sáng mãi ra từ trong cõi nhớ riêng của mình cô gái, hẳn là nhớ thương phải bồn chồn lắm, nên cô mới hỏi dồn dập như vậy: hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi cả đôi mắt mình nữa?

Cái khăn được hỏi đầu tiên và hỏi nhiều nhất, trong sáu câu thơ tức là nửa bài thơ. Giống như cái áo, cái khăn đội đầu hoặc cái khăn tay thường là vật trao duyên, kỉ vật gợi nhớ tình yêu giữa hai người. Chiếc khăn ấy phải chăng đã ấp ủ bao hơi ấm bàn tay, ở cạnh cô gái suốt, đã thấm đượm nhiều vô chừng những lời ân ái mặn nồng. Giờ người đã xa, hơi ấm nồng đượm vương vấn nơi đâu chỉ là nỗi buồn chờ đợi quá khứ, cái không gian cô quạnh cứ miên man trải rộng mênh mông trên nhiều chiều, nỗi nhớ cứ thế mà quẩn quanh trong trăm mối tơ vò khiến vật chứng nhân vô tri vô giác cũng động lòng.

Ba hình ảnh đặc trưng cộng hưởng thêm ba câu thơ láy cô gái tự nhân hóa chiếc khăn rồi hỏi “Khăn thương nhớ ai?”, cùng lối vắt dòng tổng cộng sáu lần từ “khăn” thành một điệp khúc tạo càng giác nỗi nhớ cuộn trào, mỗi lần hỏi như càng xoáy sâu hơn nỗi nhớ. Đằng sau nghệ thuật đảo thanh đầu uyển chuyển, cách sử dụng hình ảnh vận động trái chiều, hình ảnh cô gái hiện lên nhớ người thương đến mức không tự chủ được, dáng đứng bước đi, không thể ngồi yên ổn được, luôn ngóng trông,chờ đợi.

Nỗi nhớ sâu trong tâm hồn réo thúc bùng sôi nhưng lại bộc lộ ý nhị, ngọt ngào, mang màu sắc nữ tính, nhẹ nhàng. Cái khăn đã giãi bày hộ cô gái cái nghẹn ngào đọng mãi trong lòng không nói ra. Cái thứ cảm giác không gọi được tên nặng trĩu trong lòng là thế, vậy mà cứ nhẹ tênh lan tỏa rộng khắp, thấm đượm vào không gian, và cả trái tim người đọc.

Không chỉ thế, nỗi nhớ ở đây còn được đong đếm theo bước chân thời gian. Ban đêm là lúc con người có thể yên tĩnh suy ngẫm về người, về đời rất thật. Đối với cô gái, đó là lúc niềm khắc khoải lại làm trái tim cô nhói đau. Niềm đau ấu được diễn tả theo một cách rất riêng, gắn với ngọn đèn thao thức

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt

Nỗi lòng trải hết không gian rồi lan tỏa sang cả bước đi thời gian. Trong sự ưu phiền vò võ của đêm khuya khắc vợi canh tàn, trong bóng đêm mờ mịt đến hoảng hốt, đốm lửa ấm dù nhỏ nhoi trên đầu ngọn bấc kia chứng tỏ người thắp đèn vẫn chưa thể nào ngủ yên. Chừng nào ngọn lửa tình yêu vẫn cháy sáng trong tim thì ngọn đèn kia sẽ thắp suốt đêm dài. Đèn không tắt hay chính con người đang thao thức thâu đêm trong nỗi nhớ thương đằng đẵng. Nếu trên kia cái khăn biết giãi bày thì ở đây cái đèn biết thổ lộ tâm tình. Nó đã cho ta nhiều điều mới mẻ không có trong thơ ca.Vẫn là câu hỏi không lời đáp, vẫn là hình ảnh nhân hóa, ngọn đèn đã để ta suy nghĩ và rung cảm nhiều hơn.

Đến dòng thơ thứ chín, không thể kìm được lòng, người con gái yêu đuối chực vỡ òa, tự hỏi mình

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên

Dù kín đáo, gợi cảm bao nhiêu đi chăng nữa thì ngọn đèn và chiếc khăn cũng chỉ là nơi gửi gắm tâm sự. Đến đây, cô gái đã tự hỏi chính bản thân mình. Nỗi nhớ thương nặng trĩu tâm can khiến cô nhắm mắt là mường tượng ra hình ảnh người ấy, ngủ làm sao yên cho được! Ở trên là khăn là đèn, thì ở đây là mắt. Tất cả đều trong trạng thái không để tâm vào việc mình làm mà tập trung vào nỗi nhớ thương người yêu. Hình tượng thơ không chỉ độc đáo mà cũng thật hợp lí, nhất quán.

Sáu câu thơ được cấu trúc theo lối vắt dòng láy đi láy lại từ khăn thương nhớ một điệp khúc, làm cho nỗi nhớ thương của cô gái đến với người đọc cũng thật da diết, dồn dập. Người đọc tìm được đâu đó trong chính nỗi nhớ cứ nhắm mắt vào là gợi nhớ ấy, hành động vô thức của cô là hình bóng của mình. Mười bốn câu thơ chữ với sự tài tình trong cách gieo vần, trong đó thanh bằng và thanh trắc xoắn xuýt lấy nhau gợi âm điệu luyến láy, bâng khuâng mãi. Và nếu cứ đi theo cung cách cấu tứ như thế thì có lẽ bài ca dao sẽ trải sầu cùng vô tận.

Lần theo mạch cảm xúc xuyên suốt, qua tới mấy lần hỏi, điểm cao trào bất ngờ xuất hiện và đổi thành thể lục bát dân gian:

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề

Từ nhịp thơ bốn chữ dồn dập chuyển sang thể lục bát xao xuyến nhẹ nhàng bởi cô vẫn một mực thương nhớ người yêu nhưng lo lắng cho số phận ngang trái của mình. Xã hội xưa với những lễ giáo không cho phép người con gái mãi đơn thân một mình. Từ “lo” lặp lại hai lần chứng tỏ nỗi lo sợ càng tăng lên và sâu thẳm mỗi khi nghĩ đến mối tình này. Cô nhói tim sợ rằng người mình chờ đợi bấy lâu kia sẽ thay lòng đổi dạ. Cô sợ hãi khi biết đâu xã hội với lễ giáo hà khắc kia sẽ lạnh lùng khép cô vào một mối duyên nào đó chăng… Hạnh phúc quá mong manh và quyền tự do yêu đương gần như không thể. Khi tình yêu thân thiết, càng sâu nặng thì nỗi lo lắng tình yêu đó tuột khỏi tầm tay, tan vỡ sẽ càng lớn.

Để diễn tả nỗi lòng cũng như tính nhân đạo cao cả, bài ca dao đã mang những bút pháp nghệ thuật quen thuộc như điệp ngữ điệp từ gây cảm giác quyến luyến, hình ảnh nghệ thuật nhân hóa mang tính tượng trưng cao. Quan trọng hơn cả, toàn bài ca dao đã thể hiện được vẻ đẹp kín đáo, tinh tế của người con gái Việt.

Vì thế, trong làng thơ ca dao Việt Nam, “Khăn thương nhớ ai luôn có một vị trí quan trọng nhất định thể hiện cho nỗi nhớ riêng của người con gái ấy và cho tình cảm chung của toàn thể bạn đọc. Vượt qua những khắt khe của thời gian, bài thơ sẽ tỏa sáng và mang thông điệp, ý nghĩa riêng đối với từng bạn đọc.

Hi vọng với những bài văn mẫu trên cũng sẽ giúp cho các em có thêm những kinh nghiệm viết bài văn hay nhất, đặc sắc nhất. Chúc các em học thật tốt!

Minh Nguyệt

Video liên quan

Chủ Đề