Thầy u là gì

Ít ai biết rằng, dù là ở quốc gia nào trên thế giới thì khi đứa bé cất tiếng nói đầu tiên - chủ yếu là gọi "Mẹ" - người thân yêu nhất, quan trọng, gần gũi nhất đến sự sống của mỗi bé. Phải chăng, tiếng gọi "mẹ" từ lâu đã trở nên quen thuộc đến mức mà ta đã vô tình lãng quên nguồn cội của tiếng gọi ấy.

Và đã bao giờ bạn tự hỏi, có bao nhiêu cách để gọi "Mẹ" trong tiếng Việtchưa? Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn có được câu trả lời.

Giả thuyết phổ biến lớn nhất về việc những từ để chỉ người phụ nữ có công sinh thành là “mẹ” trong tiếng Việt, “mother” trong tiếng Anh, “mère” trong tiếng Pháp, “妈妈” [māma] trong Tiếng Trung… là “âm môi”.

Âm môi là âm mà chỉ cần mở môi là có thể phát âm được [như “m” hay “b”] - bởi vậy âm này rất dễ được trẻ con "bập bẹ" nói trong những năm tháng đầu đời.

"Mẹ" là từ được biến âm trực tiếp từ từ “mère” trong tiếng Pháp,

Tiếng Việt là một thứ tiếng tổng hợp từ rất nhiều ngôn ngữ, trong đó đặc biệt chịu sự ảnh hưởng lớn của tiếng Trung Quốc.

Bởi vậy, những từ ngữ đầu tiên, hoặc rất lâu đời có nhiều từ là sự biến hóa, biến âm của tiếng Trung Quốc. Các cách gọi “Mẹ” của người Việt từ trước đến nay cũng vậy.

Thực tế thì “mẹ” là cách gọi hiện đại. Bởi "Mẹ" là từ được biến âm trực tiếp từ từ “mère” trong tiếng Pháp, với nghĩa rất rõ ràng là người phụ nữ có công sinh thành. Nhưng trước khi chúng ta có “mẹ”, thì những cách gọi khác có phần phổ biến hơn.

Đầu tiên phải nói đến đó là “mẫu thân” [cách gọi này chủ yếu xuất hiện trong văn viết, dùng trang trọng], một từ phiên âm trực tiếp từ tiếng Trung Quốc là母親 với phát âm là “mǔqīn”. Nhưng “mǔqīn” là phát âm chính thống, còn đối với tiếng địa phương [vùng phía Nam Trung Quốc – Phúc Kiến, trực hệ của tiếng Việt] thì母親còn được phát âm là “búchhin” , và cách phát âm này ảnh hưởng trực tiếp đến cách gọi “bu” ở phía Bắc Việt Nam.

Hiện nay thì “bu” vẫn được dùng ở một số địa phương như Thái Bình, và do biến âm thì còn có các cách gọi khác như “bầm” [Bắc Ninh] hay “u” [Hà Nam].

Miền Trung và miền Nam thì có những cách gọi gần với tiếng Trung Quốc hơn cả. Cả hai từ “mạ” [Huế], và “má” [Nam Bộ] đều xuất phát trực tiếp từ từ “妈妈” [māma]. Biến âm của “mạ” còn có “mệ”.

Ngoài phát âm, các biến thể từ nghĩa cũng ảnh hưởng đến cách gọi mẹ. Ví dụ như cách gọi giống, hay hành động cũng được dùng để chỉ “mẹ”. Miền Bắc còn có cách gọi mẹ là “cái” như trong câu ca dao: "Nàng về nuôi cái cùng con/ Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng".

Hay “cái” trong “Bố cái” [Sơn Tây], hoặc gọi trực tiếp từ hành động như “đẻ”, mặc dù cách gọi này hiện giờ hầu như không còn.

Ngoài ra, tục lệ cũng là một trong những nhân tố khiến cho xưng hô biến hóa. Người Việt trước đây tin rằng, việc “gọi chệch”, “đặt tên xấu” sẽ khiến cho những đứa trẻ sinh non, yếu ớt lúc bé sống dễ hơn, vì “xấu” nên không bị ma quỷ đụng vào.

Đó là lý do hình thành những cái tên như “thằng cu”, “cái hĩm”, bố mẹ không gọi trực tiếp tên con mà gọi chung chung. Con cái cũng đôi khi bị bắt gọi chệch bố mẹ, để tránh thân thiết quá mà bị ma quỷ quấy nhiễu.

Đây là tục lệ có phần mê tín dị đoan nhưng cho đến hiện tại, một số vùng nông thôn Việt Nam vẫn dùng. Tục này dẫn đến việc gọi chệch bố mẹ thành “anh chị”, “cậu mợ”, “chú thím”, những danh từ vốn chỉ những người thân khác, gần gũi với “bố mẹ”.

Theo thời gian, con cái còn gọi bố mẹ bằng những danh từ khác tùy theo thời kỳ. Khi bố mẹ già, nhiều người khi nói về bố mẹ hay sử dụng các từ như “ông cụ”, “bà cụ”.

Đây là những danh từ để chỉ người lớn tuổi trong gia đình nói chung, và thường được sử dụng với đại từ sở hữu [tôi, anh] để chỉ chính xác bố mẹ của ai đó khi họ về già. Trong gia đình, cách xưng “ông-con”, “bà-con” cũng được con cái dùng khi họ có gia đình riêng. Người Việt gọi đó là “lên chức”.

Trên thực tế, còn rất nhiều cách gọi "mẹ" khác, trên đây chỉ là một vài cách gọi mà tác giả tổng hợp được dựa vào một số nguồn tài liệu tham khảo gồm có:

- Từ điển Hán – Việt của Đào Duy Anh

- Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả của Phan Ngọc

- Từ điển tiếng Trung

- Problems in Comparative Chinese Dialectology — the Classification of Miin and Hakka.

Nếu bạn còn biết những cách gọi "mẹ" nào khác thì hãy chia sẻ với chúng tớ bằng cách comment ở phía dưới bài nhé!

Nếu như ở bài trước, chúng ta đã biết được gốc gác của từ Mẹ trong tiếng Việt cũng như cách gọi Mẹ được biến thể qua từng vùng như thế nào, thì ở bài này, ta sẽ hiểu thêm về nguồn gốc của cách gọi "Bố".

Sách “Lĩnh nam chích quái liệt truyện” có viết:

“Long Quân dạy dân việc cày cấy, cơm ăn áo mặc, đặt ra các cấp quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng. Đôi khi trở về thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: “Bô ơi! sao không lại cứu chúng con” thì Long Quân tới ngay. Sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi”.

“Lĩnh Nam chính quái liệt truyện” là tập hợp những câu chuyện vào loại lâu đời nhất của Việt Nam, trong đó có không ít huyền sử.

Nhưng có thể nói rằng đối với người Việt Nam, từ “bô” [có nguồn gốc từ từ “父” với phiên âm địa phương là “pē”, phiên âm chính thống là “Fù” – tương ức với Phụ ] là một trong những từ đầu tiên người Việt Nam dùng để gọi người đàn ông có công sinh thành ra mình, và có một biến âm là “bố” .

Từ “bô” trong “Bô lão”, thời phong kiến, cũng thường để chỉ những người đàn ông ở tầng cao trong dòng tộc, đồng nghĩa còn có “Phụ lão”.

Phần lịch sử sau khi không còn phụ thuộc vào Trung Quốc cũng có ghi lại một vị quân vương lấy hiệu là “Bố Cái Đại Vương”, và “Bố Cái” ở đây đồng nghĩa với “Bố Mẹ”.

Mặc dù giống với “Mẫu thân” - từ tương ứng để gọi cho là “Phụ thân” nhưng bản thân từ “Phụ” ít khi xuất hiện trong tiếng thuần Việt.

Bởi vậy, tiếng gọi “Phụ thân” ở hiện tại thường chỉ dùng trong văn viết với ý trang trọng, hoặc sử dụng bối cảnh cổ xưa.

Biến thể của từ “Bô” ngoài “Bố” còn có “Bọ” [Quảng Bình], hay một từ không có nghĩa là “Bố” nhưng rất gần với “Bố”, là “Bõ” [Vùng đồng bằng Bắc Bộ] chỉ người đầy tớ già, có quan hệ khăng khít với thiếu chủ [người chủ nhỏ] trong gia đình quyền quý trước kia giống như cha vậy.

Đối với từ “Bõ” này khi vào miền Nam lại thành “Cha xứ”, “Cha đỡ đầu”. Người vùng Bắc Bộ trước kia coi trọng việc học, và thời phong kiến có ba mối quan hệ mà người con rất coi trọng: Bố-con, Thầy-trò, và Quân-thần. Bởi vậy mà có tục gọi “Bố” là “Thầy” [vẫn dùng ở Thái Bình].

Lại nói đến từ “Cha” và “Tía” thì hai từ này là biến âm của tiếng Trung Quốc “爹” [với phiên âm là “Diē”]. Đây là hai từ dùng phổ biến trong Miền Nam với các cụm như “Cha mẹ”, “Tía má”.

Người Miền Nam cũng gọi cha là Ba, và đây thì lại là biến thể khác của tiếng Trung Quốc hiện đại, xuất phát từ từ爸[với phiên âm là “Bà”].

Đối với người đã “lên chức”, hay con cái của họ đã có gia đình, nhiều người chuyển từ xưng “Bố-con” sang “Ông-con”, và có thể chỉ bố bằng ngôi thứ ba là “Ông cụ”, “Ông lão”, “Ông bố”, “Ông bô”.

Tục tránh gọi trực tiếp bố mẹ do quan niệm “tên xấu” cũng sinh ra việc gọi bố bằng “Chú”, “Cậu”, hay “Anh”.

Trên thực tế, còn rất nhiều cách gọi "Bố" khác, trên đây chỉ là một vài cách gọi mà tác giả tổng hợp được dựa vào một số nguồn tài liệu tham khảo gồm có:

- Từ điển Hán – Việt của Đào Duy Anh

- Từ điển Hán Ngữ

Nếu bạn còn biết những cách gọi "bố" nào khác thì hãy chia sẻ với mọi người bằng cách comment ở phía dưới bài nhé!

Video liên quan

Chủ Đề