Tiêu luận mâu thuẫn của công thức chung của tư bản

Trong công thức T - H – T’, trong đó T’ = T + T. Vậy, giá trị thặng dư [T] do đâu mà có?

Các nhà kinh tế học tư sản đã cố tình chứng minh rằng quá trình lưu thông đẻ ra giá trị thặng dư, nhằm mục đích che giấu nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.

Thực ra trong lưu thông, dù người ta trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra giá trị mới, do đó cũng không tạo ra giá trị thặng dư.

Trường hợp trao đổi ngang giá:

Nếu hàng hóa được trao đổi ngang giá, thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị, từ tiền thành hàng và từ hàng thành tiền, còn tổng giá trị cũng như phần giá trị nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, về mặt giá trị sử dụng thì cả hai bên trao đổi đều có lợi vì có được những hàng hóa thích hợp với nhu cầu của mình.

 Trường hợp trao đổi không ngang giá:

Có thể có ba trường hợp xảy ra, đó là:

 Trường hợp thứ nhất, giả định rằng có một nhà tư bản nào đó có hành vi bán hàng hóa cao hơn giá trị 10% chẳng hạn. Giá trị hàng hóa của anh ta là 100 đồng sẽ được bán cao lên 110 đồng và do đó thu được 10 đồng giá trị thặng dư. Nhưng trong thực tế không có nhà tư bản nào lại chỉ đóng vai trò là người bán hàng hóa, mà lại không là người đi mua các yếu tố sản xuất để sản xuất ra các hàng hóa đó. Vì vậy, đến lượt anh ta là người mua, anh ta sẽ phải mua hàng hóa cao hơn giá trị 10%, vì các nhà tư bản khác bán các yếu tố sản xuất cũng muốn bán cao hơn giá trị 10% để có lời. Thế là 10% nhà tư bản thu được khi là người bán sẽ mất đi khi anh ta là người mua. Hành vi bán hàng hóa cao hơn giá trị đã không hề mang lại một chút giá trị thặng dư nào.

Trường hợp thứ hai, giả định rằng lại có một nhà tư bản nào đó, có hành vi mua hàng hóa thấp hơn giá trị 10%, để đến khi bán hàng hóa theo giá trị anh ta thu được 10% là giá trị thặng dư. Trong trường hợp này cũng vậy, cái mà anh ta thu được do mua rẻ sẽ bị mất đi khi anh ta là người bán vì cùng phải bán thấp hơn giá trị thì các nhà tư bản khác mới mua. Rút cục giá trị thặng dư vẫn không được đẻ ra từ hành vi mua rẻ.

 Còn có thể trường hợp thứ ba sau đây: Giả định trong xã hội tư bản lại có một kẻ giỏi bịp bợm, lừa lọc, bao giờ hắn cũng mua được rẻ và bán được đắt. Nếu khi mua, hắn ta đã mua rẻ được 5 đồng, và khi bán hắn cũng bán đắt được 5 đồng. Rõ ràng 10 đồng giá trị thặng dư mà hắn thu được là do trao đổi không ngang giá. Sự thực thì 5 đồng thu được do mua rẻ và 5 đồng hắn kiếm được do bán đắt cũng chỉ là số tiền hắn lường gạt được của người khác. Nhưng nếu xét chung cả xã hội, thì cái giá trị thặng dư mà hắn thu được lại chính là cái mà nguời khác mất đi, do đó tổng số giá trị hàng hóa trong xã hội không vì hành vi cướp đoạt, lường gạt của hắn mà tăng lên. Giai cấp tư sản không thể làm giàu trên lưng bản thân mình.

Trong thực tiễn, dù có lật đi lật lại vấn đề này đến mấy đi nữa thì kết quả cũng vẫn như thế. C.Mác đã chỉ rõ: "Lưu thông hay trao đổi hàng hóa, không sáng tạo ra một giá trị nào cả".

Như vậy, lưu thông đã không đẻ ra giá trị thặng dư. Vậy phải chăng giá trị thặng dư có thể đẻ ra ở ngoài lưu thông?

Trở lại ngoài lưu thông, chúng ta xem xét hai trường hợp:

-   Ở ngoài lưu thông, nếu ngươi trao đổi vẫn đứng một mình với hàng hóa của anh ta, thì giá trị của những hàng hóa ấy không hề tăng lên một chút nào.

-  Ở ngoài lưu thông, nếu người sản xuất muốn sáng tạo thêm giá trị mới cho hang hóa, thì phải bằng lao động của mình. Chẳng hạn, người thợ giày đã tạo ra một giá trị mới bằng cách lấy da thuộc để làm ra giày. Trong thực tế, đôi giày có giá trị lớn hơn da thuộc vì nó đã thu hút nhiều lao động hơn, còn giá trị của bản thân da thuộc vẫn y như trước, không tự tăng lên.

Đến đây, C.Mác đã khẳng định: "Vậy là tư bản không thề xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông".

Đó chính là mâu thuẫn chứa đựng trong công thức chung của tư bản. Để giải quyết những mâu thuẫn này. C.Mác chỉ rõ: "phải lấy những quy luật nội tại của lưu thông hàng hóa làm cơ sở...

Loigiaihay.com

Tư bản vận động theo công thức T-H-T trong đó T = T + t. Vậy t được sinh ra như thế nào? Như vậy chỉ có 2 trường hợp: trong lưu thông và ngoài lưu thông.

a. Trong lưu thông [Trao đổi, mua bán]: Dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá cũng không tạo ra giá trị mới và do đó không tạo ra giá trị thặng dư – Trường hợp trao đổi ngang giá [mua bán đúng giá trị ] chỉ là sự chuyển hoá hình thái giá trị từ H – T và ngược lại . Do đó, tiền không lớn lên, giá trị không tăng thêm. – Trao đổi không ngang giá: Mua rẻ [thấp hơn giá trị] thì có lợi trong khi mua. Nhưng khi bán, bán thấp hơn giá trị thì chịu thiệt thòi. Bán đắt [cao hơn giá trị]: cái được lợi khi là người bán thì sẽ chịu thiệt khi là người mua. Mua rẻ, bán đắt: điều này chỉ giải thích sự làm giàu của những thương nhân cá biệt chứ không giải thích sự làm giàu của tư bản nói chung

Như vậy trao đổi không ngang giá thì giá trị không tăng thêm

b. Ngoài lưu thông [xét hai nhân tố] không có sự tiếp xúc hàng tiền:

Nhân tố [T] tiền: “tiền” tự nó không lớn lên. Xét nhân tố [H] hàng: Hàng ngoài lưu thông tức là vào tiêu dùng: + Tiêu dùng vào sản xuất, tức là tư liệu sản xuất. Vậy giá trị của nó chuyển dịch dần vào sản phẩm – không tăng lên. + Tư liệu tiêu dùng, tiêu dùng cho cá nhân – cả giá trị và giá trị sử dụng đều mất đi. Như vậy cả trong lẫn ngoài lưu thông xét tất cả các nhân tố thì T không tăng thêm. Nhưng nhà tư bản không thể vận động ngoài lưu thông, có nghĩa là nhà tư bản phải tìm thấy trên thị trường mua được một thứ hàng hoá [trong lưu thông ] nhưng nhà tư bản không bán hàng hoá đó, vì nếu bán cũng không thu được gì. Nhà tư bản tiêu dùng hàng hoá đó [ngoài lưu thông] tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó – hàng hoá đó là sức lao động. Như vậy công thức đầy đủ có thể viết: Sức lao động T – H sản xuất hàng hoá …H – T TLSX

Như vậy thì mâu thuẫn của công thức chung là tư bản vận động vừa trong lưu thông nhưng đồng thời vừa không trong lưu thông.


Các từ khóa trọng tâm hoặc các thuật ngữ liên quan đến bài viết trên:
  • công thức chung của công thức tư bản chủ nghĩa
  • mâu thuẫn chung của công thức tư bản
  • mâu thuẫn công thức chung của tư bản
  • mâu thuẫn công thức chung tư bản
  • mau thuan kinh te tu nhan
  • tại sao công thức chung của tư bản có mâu thuẫn
  • ,

    anh [ chị ] hãy trình bày mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. theo anh[chị] mâu thuẫn đó được giải quyết khi nào?vì sao?

    Môn này học qua lâu rồi, để anh mở lại giáo trình vậy?

    Bài này cần làm rõ 3 ý: - Công thức chung trong tư bản là gì? [Trình bày sơ qua, tóm tắt] - Trình bày mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản?

    - Cách giải quyết mâu thuẫn? Vì sao?

    anh làm xong rồi đây

    1. Công thức chung của tư bản Hai điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa TBCN - Phải tập trung số lớn tiền của vào trong tay một số ít người để có thể lập ra các xí nghiệp TBCN - Đại đa số quần chúng lao động bị tướt đoạt hết TLSX phải bán sức lao động Tiền tệ là sản phẩm cuối cùng của lưu thông hàng hóa và là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản, trên thị trường tư bản biểu hiện trước hết bằng một số tiền nhất định, mặt dù không phải lúc nào tiền cũng là tư bản. Bản thân tiền không phải là tư bản, tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định khi chúng được sử dụng để bóc lột người khác. + Trong lưu thông hàng hoá giản đơn, tiền vận động theo công thức; H-T-H. + Trong lưu thông của tư bản ; tiền vận động theo công thức T-H-T/

    * So sánh hai công thức lưu thông. - Giống nhau về hình thức: + Gồm hai giai đoạn mua bán hợp thành. + Gồm hai nhân tố vật chất hàng - tiền * Khác nhau:

    H-T-HT-H-T/
    - Điểm mở đầu bằng hành vi bán[ H-T] kết thúc bằng hành vi mua[T-H]- Bắt đầu bằng hành vi mua[ T-H] kết thúc bằng hành vi bán[H-T]
    - Tiền đóng vai trò trung gian- Tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết thúc
    - Mục đích: giá trị sử dụng sự vận động kết thúc ở giai đoạn thứ hai[ sự vận động có giới hạn]- Mục đích: giá trị- giá trị tăng thêm T/ = T +m [ m: giá trị thặng dư], vận động không có giới hạn. Vì điểm cuối của mỗi vòng chu chuyển tạo 1 khởi điểm cho vòng chu chuyển mới


    [nếu bài luận văn của em ngắn thì bỏ qua ý màu đen này cũng được]​


    Tóm lại: T-H-T/ gọi là công thức chung của tư bản vì mọi tư bản dù mang hình thức cụ thể nào cũng đều là giá trị mang lại giá trị thặng dư: T – H – T’ với T’ = T + m

    2. Trình bày mâu thuẫn của công thức chung của tư bản Lý luận giá trị đã chứng minh rằng: Giá trị của hàng hóa do lao động của những người sản xuất hàng hóa tạo ra trong sản xuất. Nhưng nhìn vào công thức T-H-T’ người ta dễ lầm tưởng rằng tiền tệ cũng tạo ra giá trị khi vận động trong lưu thông. Thực chất thì bản thân tiền, dù ở ngoài hay ở trong lưu thông, cũng không tự lớn lên được. Tiền không thể sinh ra tiền là điều hiển nhiên. Còn lưu thông thuần túy, dù diễn ra ở bất cứ hình thức nào, kể cả việc mua rẻ bán đắt, cũng không làm tăng thêm giá trị, không tạo ra giá trị thặng dư; ở đây chỉ có sự phân phối lại lượng giá trị có sẵn trong xã hội mà thôi bởi nếu mua rẻ thứ này thì sẽ lại phải mua đắt thứ kia; bán đắt thứ này thì lại phải bán rẻ thứ khác, vì tổng khối lượng hàng và tiền trong toàn xã hội ở một thời gian nhất định là một số lượng không đổi. Tuy vậy, không có lưu thông cũng không tạo ra được giá trị thặng dư. Do đó, mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là giá trị thặng dư không do lưu thông đẻ ra nhưng lại được tạo ra thông qua lưu thông. Sở dĩ như vậy vì nhà tư bản tìm được trên thị trường một loại hàng hóa đặc biệt có khả năng tạo ra giá trị thặng dư cho mình. Đó là hàng hóa sức lao động.

    2. Cách giải quyết mâu thuẫn của công thức chung tư bản. Vì sao? Các Mác là người đầu tiên phân tích & giải quyết mâu thuẫn trong công thức của tư bản = lý luận về hàng hóa sức lao động. Nhà tư bản khi đưa tiền vào lưu thông đã dùng tiền mua đuơc hàng hóa đặc biệt là hàng hóa sức lao động, để sử dụng nó [không phải bán nó], sẽ tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Hàng hóa đặc biệt này có đặc điểm về giá trị sử dụng là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản. Sử dụng hàng hóa sức lao động tức là quá trình người công nhận tiến hành lao động, là sự kết hợp sức lao động của công nhân với tư liệu sản xuất; trong quá trình lao động = lao động trừu tượng - = sự hao phí thể lực , trí lực mới sẽ tạo giá trị mới cho hàng hóa, lượng giá trị mới này lớn hơn giá trị của bản thân nó. Để giải quyết mâu thuẫn chung của công thức tư bản cần tìm cho thị trường 1 loại hàng hóa mà việc sử dụng nó tạo ra giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó, hàng hóa đó là sức lao động. Sức lao động là cái có trước hàng hóa, còn lao động chính là quá trình sử dụng sức lao động đó. Giống với các hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có 2 thuộc tính: Giá trị và giá trị sử dụng. Hàng hóa sức lao động là sự tổng hợp về thể lực và trí lực của con người có thể sử dụng trong quá trình lao động để tạo ra của cải vật chất. Giá trị sử dụng sức lao động thể hiện ở quá trình tiêu dùng [sử dụng] sức lao đông, tức là quá trình lao động để sản xuất ra 1 loại hàng hóa ,1 dịch vụ nào đó. Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra 1 lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần giá trị mới đó du ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư. => Đó là điểm khác biệt với hàng hóa thông thường vì sau quá trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá trị hay giá trị sử dụng đều biến mất theo thời gian. => Đó là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn cho công thức của tư bản.

    đúng mai thi môn này

    Bạn hãy cho đi những điều tốt đẹp

    Bạn sẽ nhận được những cái tốt đẹp hơn




    thanks a lot!

    Video liên quan

    Chủ Đề