Trong giai đoạn từ 1975 đến 1989 Việt Nam phải tiến hành máy cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc

[HNM] - Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc là điều kiện thuận lợi để đất nước bước vào thời kỳ cách mạng mới. Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc được tổ chức từ ngày 15 đến 21-11-1975 tại Sài Gòn. Ngày 25-4-1976, nhân dân bầu Quốc hội chung cả nước. Từ ngày 24-6 đến 2-7-1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất họp tại Hà Nội. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời, bước vào giai đoạn xây dựng, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.

1. Sau chiến tranh chống Mỹ, bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam cũng đứng trước nhiều khó khăn. Hậu quả chiến tranh, những vấn đề về xã hội phải giải quyết rất lớn. Nền kinh tế quốc dân mất cân đối; sản xuất không đủ tiêu dùng. Trong khi đó, các thế lực thù địch tìm mọi cách chống phá thành quả cách mạng vừa giành được cũng như công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam thống nhất.

Trong bối cảnh đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV [tháng 12-1976], Đảng Lao động Việt Nam được đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội đã đề ra đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa là: Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt. Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Đảng cũng không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Từ ngày 27 đến 31-3-1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng được tổ chức, tổng kết bước đầu việc thực hiện các chủ trương của Đảng về kinh tế - xã hội, để xóa bỏ cách quản lý cũ và chuyển sang cách quản lý mới; đồng thời xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đầu tư cho nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng; coi ổn định tình hình kinh tế - xã hội là nhiệm vụ bức thiết.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội IV và Đại hội V của Đảng, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng chúng ta đã xây dựng được nhiều cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Tài sản cố định của Nhà nước năm 1980 tăng 10,2 tỷ đồng so với năm 1976. Trong những năm 1981-1985 khởi công và bước đầu hoàn thành hàng trăm công trình tương đối lớn, hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có những công trình trọng điểm như: Thủy điện Hòa Bình, xi măng Bỉm Sơn, xi măng Hà Tiên, hồ Kẻ Gỗ, hồ Dầu Tiếng…

Đặc biệt, 10 năm đầu cả nước thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội [1975-1985], với sự nỗ lực, năng động và sáng tạo của Đảng, nhân dân, các địa phương, các cơ sở, các ngành đã từng bước đổi mới cơ chế quản lý, đi đến chủ trương xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Cơ chế và cách thức làm ăn mới cùng với nhiều chính sách quan trọng đã khai thác tốt hơn năng lực sản xuất, quan tâm lợi ích người lao động, do đó đã thúc đẩy sản xuất phát triển với hiệu quả cao hơn, nhất là sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV [9-1979]... Đây là những kết quả nổi bật về phát triển kinh tế - xã hội đất nước đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng.

2. Đi đôi với lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế, xã hội, trong những năm 1975-1985, bằng kinh nghiệm và bản lĩnh của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo quân dân ta đánh thắng hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.

Đặc biệt ở cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, như đã biết, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, nhân dân Campuchia không những không được hưởng cuộc sống hòa bình mà chính quyền Khơme Đỏ do Pôn Pốt - Iêng Xari đứng đầu đã thi hành chính sách đối nội phản động, làm hàng triệu người Campuchia bị giết hại dã man. Đối với Việt Nam, Khơme Đỏ ra sức kích động thù hằn dân tộc. Đặc biệt, vào những ngày cuối năm 1978, chính quyền Khơme Đỏ đã huy động một lực lượng lớn tiến vào khu vực Bến Sỏi [Tây Ninh], mở đường tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam... Trước tình hình đó, ngày 15-6-1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp bàn về cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam, xác định mục tiêu của lực lượng vũ trang trong lúc này là: Tiêu diệt và làm tan rã cho được một bộ phận quan trọng sinh lực địch, đánh gãy xương sống của tập đoàn phản động Campuchia; tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng cách mạng chân chính của Campuchia phát triển về mọi mặt, tiến lên đánh đổ tập đoàn phản động cầm quyền, bảo vệ độc lập, chủ quyền và chủ nghĩa xã hội ở Campuchia. Tiếp đó, ngày 27-7-1978, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ tư [khóa IV], ra Nghị quyết về vấn đề Việt Nam - Campuchia, chỉ rõ nhiệm vụ hàng đầu là sẵn sàng chiến đấu, trước mắt là phải cùng nhân dân chiến thắng cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam...

Thực hiện kế hoạch đề ra, từ ngày 23-12-1978, các đơn vị chủ lực Việt Nam trên toàn tuyến biên giới được lệnh mở cuộc phản công lớn quét sạch lực lượng địch đã xâm nhập lãnh thổ Việt Nam, tiêu diệt khối chủ lực tập trung của Khơme Đỏ, hỗ trợ các lực lượng vũ trang cách mạng, nhân dân Campuchia tiến công và giành quyền làm chủ đất nước. Đến ngày 7-1-1979, thủ đô Phnom Penh hoàn toàn giải phóng. Tiếp đó, theo yêu cầu của bạn, chúng ta đã để lực lượng ở lại giúp dân tộc Campuchia hồi sinh.

Ở biên giới phía Bắc, tháng 12-1978, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng [khóa IV] ra nghị quyết xác định nhiệm vụ trong tình hình mới, nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ cấp bách, sẵn sàng mọi mặt công tác chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh quy mô lớn có thể xảy ra”. Tiếp đó, ngày 6-1-1979, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị về việc tăng cường chiến đấu ở các tỉnh phía Bắc. Quán triệt sự lãnh đạo, chỉ đạo đó, từ ngày 17-2-1979 đến ngày 18-3-1979, quân dân Việt Nam đã bảo vệ toàn tuyến biên giới phía Bắc.

Có thể nói, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ năm 1975 đến năm 1985, chúng ta đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy còn nhiều hạn chế, khó khăn, nhưng kết quả đạt được giai đoạn này có ý nghĩa quan trọng trên con đường đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời là cơ sở vững chắc để năm 1986, Đảng ta đề ra đường lối đổi mới đất nước phù hợp với điều kiện của Việt Nam, đưa đất nước có những bước phát triển đột phá sau này.

[Còn nữa]

Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến 2000 là bài cuối cùng trong loạt bài ôn tập môn Lịch sử do PGS.TS Vũ Quang Hiển hướng dẫn.

A. Mục tiêu ôn tập

– Trình bày được tình hình hai miền Nam, Bắc và nhiệm vụ cách mạng Việt Nam sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước;

– Trình bày được hoàn cảnh lịch sử, quá trình hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước [1975 – 1976]; phân tích được ý nghĩa của quá trình đó.

– Phân tích được tính tất yếu của sự nghiệp đổi mới và nội dung đường lối đổi mới của Đảng;

– Đánh giá được những thành tựu và hạn chế trong thời gian 1986 – 2000 của sự nghiệp đổi mới.

B. Nội dung ôn tập

I. Tình hình hai miền Nam, Bắc sau Đại thắng mùa xuân năm 1975 và những nhiệm vụ trước mắt

Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước [1954 – 1975] kết thúc thắng lợi, hoà bình được lập lại, đất nước độc lập thống nhất về mặt lãnh thổ, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng ở mỗi miền lại có một hình thức tổ chức nhà nước khác nhau, có nhiều thuận lợi và cũng không ít khó khăn.

– Thuận lợi:

+ Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc [1954 – 1975] đã đạt những thành tựu to lớn và toàn diện, xây dựng được những cơ sở vật chất – kĩ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội.

+ Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất.

– Khó khăn:

+ Miền Bắc: hai cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ đã tàn phá nặng nề, sản xuất nhỏ còn phổ biến, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu.

+ Miền Nam: hậu của 30 năm chiến tranh [1945 – 1975] hết sức nặng nề; những tàn dư của chế độ thực dân mới còn rất lớn; sản xuất nhỏ là phổ biến.

– Nhiệm vụ đặt ra: Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước, khắc phục hậu quả của chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội ở hai miền Nam, Bắc.

II. Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước [1975 – 1976]

1. Chủ trương của Đảng

– Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, Tổ quốc Việt Nam được thống nhất về mặt lãnh thổ. Nguyện vọng của nhân dân cả nước là sớm có một nhà nước chung, một cơ quan quyền lực chung.

– Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng [9/1975] đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.

2. Quá trình thống nhất

– Từ ngày 15 đến ngày 21/11/1975, Hội nghị hiệp thương chính trị giữa hai đoàn đại biểu hai miền Nam, Bắc họp tài Sài Gòn, nhất trí về chủ trương, biện pháp thống nhất đất nước về mặt nhà nước.

– Ngày 25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung [Quốc hội Khoá VI] được tiến hành trong cả nước với hơn 23 triệu cử tri đi bỏ phiếu, bầu ra 492 đại biểu.

– Từ ngày 24/6 đến ngày 3/7/1976, Quốc hội Khoá VI, Kì họp thứ nhất đã:

+ Thông qua chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước Việt Nam thống nhất.

+ Đặt tên nước là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc huy mang dòng chữ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kì là cờ đỏ sao vàng năm cánh, Quốc ca là bài Tiến quân ca; Thủ đô Hà Nội. Thành phố Sài Gòn – Gia Định được đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh.

+ Bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của đất nước, bầu Ban dự thảo Hiến pháp.

– Ngày 31/7/1977, Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam đã thống nhất thành Mặt trận tổ quốc Việt Nam.

– Ngày 18/12/1980, Hiến pháp mới đã được Quốc hội Khoá VI thông qua. Đây là bản hiến pháp thứ ba của nước Việt Nam mới, bản hiến pháp đầu tiên của thời kì cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

3. Ý nghĩa

+ Thể hiện ý chí, nguyện vọng của cả dân tộc Việt Nam là xây dựng một nước Việt Nam thống nhất, độc lập và xã hội chủ nghĩa.

+ Tạo cơ sở để hoàn thành thống nhất đất nước trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội.

+ Tạo điều kiện phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước để xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, tăng cường khả năng quốc phòng – an ninh và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới.

III. Đất nước trên đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội [1986 – 2000]

1. Đường lối đổi mới của Đảng

a. Hoàn cảnh lịch sử

Trải qua 10 năm thực hiện hai kế hoạch 5 năm [1976 – 1980 và 1981 – 1985], Việt Nam đạt được những kết quả nhất định trên cả hai phương diện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, song cũng gặp nhiều khó khăn. Đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế – xã hội, do “sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”. Để khắc phục sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, phải tiến hành công cuộc đổi mới.

Những thay đổi của tình hình thế giới và quan hệ giữa các nước do tác động của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật trở thành xu thế thế giới, đặt ra yêu cầu phải đổi mới.

Cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khi các nước này đang tiến hành công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới, sửa chữa sai lầm, khuyết điiểm. Tình hình đó cũng đòi hỏi Đảng và Nhà Việt Nam phải tiến hành đổi mới.

Như vậy, đổi mới là yêu cầu cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời là vấn đề phù hợp với xu thế chung của thời đại.

b. Đường lối đổi mới

– Đường lối đổi mới của Đảng được đề ra từ Đại hội VI [12/1986], được bổ sung và phát triển qua các Đại hội tiếp theo [Đại hội VII [6 /1991], Đại hội VIII [6/1996], Đại hội IX [4/2001], Đại hội X [4/2006], Đại hội XI [4-2011].

– Quan điểm đổi mới:

+ Không phải là thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả với hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.

+ Đổi mới toàn diện và đồng bộ, từ kinh tế và chính trị đến tổ chức, tư tưởng, văn hoá.

+ Đổi mới kinh tế đi đôi với đổi mới về chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trung tâm.

– Nội dung đường lối đổi mới

+ Mục tiêu: Dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “xây lại dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, “xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.

+ Về kinh tế:

Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với một cơ cấu hợp lí, một nền kinh tế phát triển theo những quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời chịu sự chi phối bởi bản chất và những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội.

Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp, quyền bình đẳng của các thành phần kinh tế; khuyến khích mọi thành phần kinh tế sản xuất, kinh doanh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

Cải tạo quan hệ sản xuất, cải tạo đi đôi với sử dụng, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Đây là nhiệm vụ thường xuyên trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Xoá bỏ cơ chế quản lí kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Quản lí nền kinh tế không phải bằng những mệnh lệnh hành chính, mà bằng những biện pháp kinh tế, khuyến khích lợi ích vật chất.

Thực hiện nhiều hình thức phân phối, chủ yếu là phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.

Thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng sự phân công lao động và hợp tác kinh tế quốc tế, tích cực khai thác nguồn vốn, công nghệ và thị trường.

+ Về chính trị:

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới.

Thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.

Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi lực lượng dân tộc, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, vì hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Chủ động hội nhập quốc tế. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới.

2. Thành tựu bước đầu của sự nghiệp đổi mới [trong thời gian 1986 – 2000]

a. Về kinh tế:

– Việc thực hiện Ba chương trình kinh tế lớn [lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu] trong 10 năm 1986 – 1996 đạt được những kết quả quan trọng:

+ Về lương thực – thực phẩm, từ chỗ thiếu ăn, đến năm 1990, Việt Nam đã vươn lên đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu. Năm 1988 đạt 19,5 triệu tấn, năm 1989 đạt 21,4 triệu tấn.

+ Hàng tiêu dùng trên thị trường dồi dào, đa dạng về mẫu mã, chất lượng ngày càng nâng cao, lưu thông thuận lợi, một số mặt hàng sản xuất trong nước đã hoàn toàn thay thế hàng nhập khẩu.

+ Kinh tế đối ngoại ngày càng mở rộng, hàng xuất khẩu ngày càng tăng, từng bước tiến tới cân bằng giữa xuất và nhập khẩu.

– Đến năm 1996, đất nước đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế – xã hội. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã căn bản hoàn thành; chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm phấn đấu đến năm 2020 căn bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

+ Nền kinh tế tăng trưởng nhanh [tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân trong 5 năm 1991 – 1995 là 8,2%; trong năm 1996 – 2000 là 7%.

+ Cơ cấu các ngành kinh tế từng bước dịch chuyển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; từng bước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước.

+ Kiềm chế được lạm phát.

+ Hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển. Năm 1990, lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo, vươn lên hàng những nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Đến năm 2000, Việt Nam có quan hệ mậu dịch với trên 100 nước và vùng lãnh thổ. Tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng từng bước mở rộng đầu tư ra các nước trên thế giới.

+ Những khó khăn – yếu kém: Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, năng xuất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp; lạm phát vẫn ở mức cao; tình trạng tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn; sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn gia tăng…

b. Về chính trị – xã hội

– Tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng – an ninh được tăng cường. Bước đầu thực hiện dân chủ hoá và công khai hoá các hoạt động xã hội.

– Đã giải quyết ngày càng tốt hơn các vấn đề xã hội như lao động và việc làm, xoá đói giảm nghèo, phát triển sự nghiệp văn hoá, y tế, giáo dục, khoa học – công nghệ, thể dục thể thao… Tỉ lệ đói nghèo trên cả nước 1995 là 20%, năm 2000 còn 10% đến 2005 chỉ còn 7%.

– Mở rộng quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận; bình thường hoá và phát triển quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Hoa Kì…; chủ động hội nhập quốc tế, tham gia các tổ chức quốc tế: ASEAN, APEC, WTO… Việt Nam tham gia tích cực vào các hoạt động của cộng đồng quốc tế. Đến năm 2000, Việt Nam có quan hệ với 140 nước trên thế giới, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ.

c. Ý nghĩa

– Những thành tựu của 15 năm đổi mới [1986 – 2000] chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp, được đông đảo quần chúng nhs ủng hộ.

– Việc mở rộng quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững môi trường hoà bình, tạo thêm nhiều thuận lợi để đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội với nhịp độ nhanh hơn.

– Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi và thành công, Việt Nam cũng đứng trước nhiều khó khăn, thử thách, đòi hỏi sự nỗ lực vươn lên tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ và tiến kịp thời đai.

C. Các dạng câu hỏi ôn tập

Câu 1. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước [1975], nước Việt Nam có những thuận lợi và khó khăn gì?

Câu 2. Tóm tắt hoàn cảnh lịch sử, tiến trình và ý nghĩa việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước ở Việt Nam [1975-1976].

Câu 3. Vì sao Việt Nam cần tién hành đổi mới? Nêu nội dung cơ bản đường lối đổi mới của Đảng về kinh tế và chính trị.

Câu 4. Khái quát những thành tựu cơ bản, hạn chế và ý nghĩa trong 15 năm đầu [1986- 2000] của công cuộc đổi mới đất nước.

Video liên quan

Chủ Đề