Văn học dân gian gồm mấy thể loại

Câu trả lời đúng nhất: Văn học dân gian có 12 thể loại: Thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, truyện thơ, chèo.

Để biết được chi tiết hơn về các thể loại của văn học dân gian. Mời các bạn cùng Top lời giải tìm hiểu phần nội dung kiến thức sau!

1. Văn học dân gian là gì?

Văn học dân gian Việt Namlà những sáng tác nghệ thuật ngôn từ được hình thành và phát triển bởi nhiều tầng lớp nhân dân từ thời công xã nguyên thủy. Trải qua hàng ngàn thời kỳ lịch sử, thể loại này được lưu truyền và giữ gìn qua nhiều thế hệ cho tới ngày nay bằng hình thức truyền miệng.

Văn học dân gian được đúc kết từ chính sinh hoạt thường ngày và kinh nghiệm sống của tập thể nhân dân. Qua đó, thể hiện rõ nhận thức, tâm tư, tình cảm của con người về đời sống lao động cũng như đời sống cộng đồng.

Tác giả của văn học dân gian trải rộng từ nông dân lao động đến thành phần tri thức với cùng chung mục đích phục vụ cho đời sống sinh hoạt và sản xuất nhằm giảm gánh âu lo, cải thiện đời sống tinh thần vui vẻ, sinh động hơn.

>>> Xem thêm: Văn học dân gian ra đời khi nào?

2. Các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian

- Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng:

Nói văn học dân gian là những sáng tác nghệ thuật ngôn từ bởi vì, ngôn từ là chất liệu xây dựng tác phẩm, hình tượng; là phương tiện chủ yếu bộc lộ tư tưởng tình cảm, nhận thức ở tất cả các thê’ loại văn học dân gian.

Văn học dân gian ra đời khi xã hội chưa có'chữ viết. Cho nên truyền miệng hiển nhiên trở thành phương thức lưu truyền chủ yếu của loại hình văn học này. Nhưng ngay cả khi xã hội có chữ viết, văn học dân gian vẫn tiếp tục được sáng tác và truyền miệng. Vậy, có thể nói, truyền miệng là một đặc trưng nổi bật của văn học dân gia.

Thực chất của quá trình truyền miệng là sự ghi nhớ theo kiểu nhập tâm và phổ biến bằng miệng cho người khác. Văn học dân gian khi được phổ biến lại, đã thông qua lãng kính chủ quan của nhiều người nên thường được sáng tạo thêm. Văn học dân gian thường được truyền miệng theo không gian [từ vùng này qua vùng khác], hoặc theo thời gian [từ đời trước đến đời sau].

Quá trình truyền miệng thường được thực hiện thông qua diễn xướng. Có nhiều hình thức diễn xướng dân gian: kể nói, hát, diễn,...

- Văn học dân gian là kết quả của quá trình sáng tác tập thể:

Quá trình sáng tác tập thể: Cá nhân khởi xướng - tập thể hưởng ứng [tham gia cùng sáng tạo hoặc tiếp nhận] cùng tu bổ, sửa chữa, thêm bớt cho phong phú, hoàn thiện.

Trong khi tham gia lao động sản xuất, mọi người thường có những câu ca hay những câu chuyện hay kể cho cả một tập thể nghe. Đã có những câu hò hay những điệu nhạc reo vang, nó trở thành những tác phẩm vẻ vang trong thời kì lịch sử .

=> Tính truyền miệng và tính tập thể trở thành đặc trưng cơ bản, chi phối, xuyên suốt quá trình sáng tạo và lưu truyền tác phẩm văn học dân gian, thể hiện sự gắn bó mật thiết của văn học dân gian và các sinh hoạt trong đời sống cộng đồng.

-Văn học dân gian gắn bó và phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng:

Văn học dân gian ra đời chủ yếu từ các sinh hoạt cộng đồng, ví dụ hoạt động vui chơi ca hát tập thể, hội hè,đình đám,... Trong những sinh hoạt này, tác phẩm vãn học dân gian thường phối hợp hoạt động, tạo nhịp điệu cho hoạt động [những bài hò: hò chèo thuyền, hò đánh cá,...]. Nội dung và hình thức của tác phẩm văn học dân gian chịu sự chi phối của môi trường sinh hoạt vãn hoá.

Văn học dân gian có thể tác động trở lại cuộc sống bằng cách tạo ra không khí để kích thích hoạt động, gợi cảm hứng cho người trong cuộc [ví dụ những câu chuyện cười được kể trong lao động giúp tạo ra sự sảng khoái, giảm bớt sự mệt nhọc trong công việc].

3. Văn học dân gian có những thể loại nào?

* Văn học dân gian có 12 thể loại: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, câu đố, ca dao, vè, truyện thơ, chèo.

- Thần thoại:Nhằm kể lại sự tích các vị thần sáng tạo thế giới tự nhiên và văn hóa, phản ánh nhận thức của con người thời cổ đại về nguồn gốc của thế giới và đời sống con người

Ví dụ: Trần Trụ trời, Lạc Long Quân – Âu Cơ…

- Sử thi:chỉ những tác phẩm theo thể tự sự, có nội dung hàm chứa những bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời sống nhân dân với nhân vật trung tâm là những anh hùng, dũng sĩ đại diện cho một thế giới nào đó.

Ví dụ: Sử thi Đăm Săn [dân tộc Êđê], Đẻ đất đẻ nước [dân tộc Mường]…

- Truyền thuyết:là những truyện kể truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại.

Ví dụ: An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy ; Thánh Gióng….

- Truyện cổ tích:là một thể loại văn học được tự sự dân gian sáng tác có xu thế hư cấu, bao gồm cổ tích thần kỳ, cổ tích thế sự, cổ tích phiêu lưu và cổ tích loài vật. Đây là loại truyện ngắn, chủ yếu kể về các nhân vật dân gian hư cấu, như tiên, yêu tinh, thần tiên… và thường là có phép thuật, hay bùa mê.

Ví dụ: Tấm Cám, Sọ Dừa, Sự tích trầu cau…

- Truyện ngụ ngôn:là truyện kể dân gian bằng văn xuôi hay bằng thơ, mượn chuyện về loài vật, đồ vật, cây cỏ... làm ẩn dụ, hoặc chính chuyện con người để nói bóng gió, kín đáo chuyện đời, chuyện người, nhằm nêu lên bài học luân lí.

Ví dụ: Con hổ, con trâu và người đi cày, Cáo mượn oai hùm, Rùa và thỏ…

- Truyện cười:là một lĩnh vực truyện kể dân gian rộng lớn, đa dạng, phức tạp bao gồm những hình thức được gọi bằng những danh từ khác nhau có tác dụng gây cười, lấy tiếng cười để khen chê và mua vui,giải trí

Ví dụ: Đẽo cày giữa đường, Làm theo vợ dặn, Sang cả mình con…

- Tục ngữ:là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ truyền. ...

Ví dụ: Kiến tha lâu đầy tổ

Khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen.

- Câu đố:là thể loại văn học dân gian phản ánh sự vật hiện tượng theo lối nói chệch. Khi sáng tạo câu đố, người ta tìm đặc trưng và chức năng của từng vật cá biệt và sau đó phản ánh thông qua sự so sánh, hình tượng hóa.

Ví dụ: Mình bằng hạt đỗ ăn giỗ cả làng [câu đố về con ruồi]

Nhà xanh mà đóng khố xanh/Tra đỗ, trồng hành, thả lợn vào trong [chiếc bánh chưng].

- Ca dao:là thơ ca dân gian Việt Nam được truyền miệng dưới dạng những câu hát không theo một điệu nhất định, thường phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ, dễ thuộc.

Ví dụ:

“Trên trời có đám mây xanh

Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng

Ước gì anh lấy được nàng

Để anh mua gạch Bát Tràng về xây

Xây dọc, rồi lại xây ngang

Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân’’.

- Vè:Vè là thể loại tự sự dân gian, có hình thức văn vần, giàu tính thời sự, phản ánh kịp thời các sự kiện xảy ra trong làng, trong nước, qua đó thể hiện thái độ khen chê của dân gian đối với các sự kiện đó.

Ví dụ:

+ Vè đánh bạc:“Nghe vẻ nghe ve/ nghe vè đánh bạc/ đầu hôm xao xác/bạc tốt như tiên/ đến khuya không tiền/ bạc như chím cú/ cái đầu sù sụ/ con mắt trỏm lơ/ hình đi phất phơ/ như con chó đói/ chân đi cà khói/ dạo xóm dạo làng/ quần rách lang thang/ lồng tay mà túm ”.

+ Vè chửa hoang:“ Xem thử nó giống ai/ cái đầu nó giống ông cai/ cái lưng ông xã, cái vai ông trùm ”.

- Truyện thơ:được sáng tác bằng chữ Nôm và phần lớn được viết theo thể lục bát- thể thơ quen thuộc nhất với quần chúng.

Ví dụ: Phạm Công – Cúc Hoa ; Tống Trân – Cúc Hoa ; Tiễn dặn người yêu….

- Chèo:là một loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền Việt Nam. Chèo phát triển mạnh ở phía bắc Việt Nam.

Ví dụ: Thị Mầu lên chùa

-----------------------------

Qua bài viết trên đây của Top lời giải đã giúp các bạn tìm hiểu Văn học dân gian có những thể loại nào?. Mong rằng các bạn sẽ có thêm nhiều kiến thức bổ ích về văn học dân gian, chúc các bạn hoàn thành tốt bài thi của mình và đạt kết quả cao. Cảm ơn bạn đã đọc bài viết!

Câu 2 [Trang 19 – SGK]  Văn học dân gian Việt Nam có những thể loại nào?Hãy định nghĩa ngắn gọn và nêu ví dụ theo từng thể loại.


 Các thể loại và đặc trưng từng thể loại của văn học dân gian:

  • Thần thoại: Nhằm kể lại sự tích các vị thần sáng tạo thế giới tự nhiên và văn hóa, phản ánh nhận thức của con người thời cổ đại về nguồn gốc của thế giới và đời sống con người
    • Ví dụ: Trần Trụ trời, Lạc Long Quân – Âu Cơ…
  • Truyền thuyết: là những truyện kể truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại.
    • Ví dụ: An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy ; Thánh Gióng….
  • Sử thi: chỉ những tác phẩm theo thể tự sự, có nội dung hàm chứa những bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời sống nhân dân với nhân vật trung tâm là những anh hùng, dũng sĩ đại diện cho một thế giới nào đó.
    • Ví dụ: Sử thi Đăm Săn [dân tộc Êđê], Đẻ đất đẻ nước [dân tộc Mường]…
  • Truyện cổ tích: là một thể loại văn học được tự sự dân gian sáng tác có xu thế hư cấu, bao gồm cổ tích thần kỳ, cổ tích thế sự, cổ tích phiêu lưu và cổ tích loài vật. Đây là loại truyện ngắn, chủ yếu kể về các nhân vật dân gian hư cấu, như tiên, yêu tinh, thần tiên… và thường là có phép thuật, hay bùa mê.
    • Ví dụ: Tấm Cám, Sọ Dừa, Sự tích trầu cau…
  • Truyện ngụ ngôn: là truyện kể dân gian bằng văn xuôi hay bằng thơ, mượn chuyện về loài vật, đồ vật, cây cỏ... làm ẩn dụ, hoặc chính chuyện con người để nói bóng gió, kín đáo chuyện đời, chuyện người, nhằm nêu lên bài học luân lí.
    • Ví dụ: Con hổ, con trâu và người đi cày, Cáo mượn oai hùm, Rùa và thỏ…
  • Truyện cười: là một lĩnh vực truyện kể dân gian rộng lớn, đa dạng, phức tạp bao gồm những hình thức được gọi bằng những danh từ khác nhau có tác dụng gây cười, lấy tiếng cười để khen chê và mua vui,giải trí
    • Ví dụ: Đẽo cày giữa đường, Làm theo vợ dặn, Sang cả mình con…
  • Tục ngữ: là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ truyền. ...
    • Ví dụ: Kiến tha lâu đầy tổ

                               Khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen.

  • Câu đố: là thể loại văn học dân gian phản ánh sự vật hiện tượng theo lối nói chệch. Khi sáng tạo câu đố, người ta tìm đặc trưng và chức năng của từng vật cá biệt và sau đó phản ánh thông qua sự so sánh, hình tượng hóa.
    • Ví dụ: Mình bằng hạt đỗ ăn giỗ cả làng [câu đố về con ruồi]

                              Nhà xanh mà đóng khố xanh/Tra đỗ, trồng hành, thả lợn vào trong [chiếc bánh chưng].

  •  Ca dao: là thơ ca dân gian Việt Nam được truyền miệng dưới dạng những câu hát không theo một điệu nhất định, thường phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ, dễ thuộc.

“Trên trời có đám mây xanh

Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng 

 Ước gì anh lấy được nàng

Để anh mua gạch Bát Tràng về xây

Xây dọc, rồi lại xây ngang

Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân’’.

  • Vè: Vè là thể loại tự sự dân gian, có hình thức văn vần, giàu tính thời sự, phản ánh kịp thời các sự kiện xảy ra trong làng, trong nước, qua đó thể hiện thái độ khen chê của dân gian đối với các sự kiện đó.

                  Vè đánh bạc: “Nghe vẻ nghe ve/ nghe vè đánh bạc/ đầu hôm xao xác/bạc tốt như tiên/ đến khuya không tiền/ bạc như chím cú/ cái đầu sù sụ/ con mắt trỏm lơ/ hình đi phất phơ/ như con chó đói/ chân đi cà khói/ dạo xóm dạo làng/ quần rách lang thang/ lồng tay mà túm ”.

                 Vè chửa hoang: “ Xem thử nó giống ai/ cái đầu nó giống ông cai/ cái lưng ông xã, cái vai ông trùm ”. 

  • Truyện thơ: được sáng tác bằng chữ Nôm và phần lớn được viết theo thể lục bát- thể thơ quen thuộc nhất với quần chúng. 
    • Ví dụ: Phạm Công – Cúc Hoa ; Tống Trân – Cúc Hoa ; Tiễn dặn người yêu….
  • Chèo: là một loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền Việt Nam. Chèo phát triển mạnh ở phía bắc Việt Nam.


Trắc nghiệm ngữ văn 10: bài Khái quát văn học dân gian Việt Nam

Video liên quan

Chủ Đề