Vị dự tăng cường công tác quản lý nhà nước

Tăng cường công tác quản lý chất lượng hàng dự trữ quốc gia

Vấn đề chất lượng sản phẩm hàng hóa là vấn đề được toàn xã hội quan tâm. Với ngành Dự trữ Quốc gia, công tác quản lý chất lượng hàng dự trữ quốc gia luôn là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng hàng đầu trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác quản lý chất lượng hàng dự trữ quốc gia, nhất là sau khi Luật Dự trữ quốc gia có hiệu lực thi hành [01/7/2013], Tổng cục Dự trữ Nhà nước đã xây dựng, hoàn thiện và trình Bộ Tài chính ban hành các Thông tư hướng dẫn về quản lý chất lượng hàng dự trữ quốc gia.

Bên cạnh đó, các bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia cũng đã tích cực phối hợp với Bộ Tài chính [Tổng cục Dự trữ Nhà nước] triển khai xây dựng cơ chế chính sách quản lý chất lượng hàng dự trữ quốc gia; trong đó tập trung xây dựng hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, định mức kinh tế - kỹ thuật đối với hàng dự trữ quốc gia làm cơ sở để quản lý chất lượng hàng dự trữ quốc gia như Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Công thương.

Trong những năm gần đây, các bộ, ngành đã phối hợp với Bộ Tài chính để xây dựng và ban hành được 20 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, 10 định mức kinh tế - kỹ thuật cho một số mặt hàng dự trữ quốc gia.

Trong đó: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng đã triển khai rất tốt như: Xây dựng, điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật và quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với một số mặt hàng; Bộ Công thương xây dựng hoàn thiện quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và định mức kinh tế - kỹ thuật đối với vật liệu nổ công nghiệp; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn xây dựng hoàn thiện hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật đối với hạt giống rau, lúa, ngô dự trữ quốc gia và đang tập trung triển khai xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.

Về công nghệ bảo quản hàng dự trữ quốc gia, một số bộ, ngành đã áp dụng những công nghệ bảo quản tiên tiến như: Sử dụng túi bảo quản hàng dự trữ quốc gia nhằm cách ly được sự tác động của môi trường [Bộ Quốc phòng]; bảo quản hàng dự trữ quốc gia trong môi trường lạnh [Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Quốc phòng]; ứng dụng công nghệ bảo quản tiên tiến để nâng cao chất lượng hàng dự trữ quốc gia [Bộ Công thương, Bộ Tài chính].

Trong thời gian tới, để tăng cường công tác quản lý chất lượng hàng dự trữ quốc gia tại các bộ, ngành, Bộ Tài chính [Tổng cục Dự trữ Nhà nước] với vai trò quản lý nhà nước về dự trữ quốc gia sẽ đôn đốc, phối hợp với các bộ, ngành để tập trung triển khai xây dựng hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quản lý chất lượng hàng dự trữ quốc gia; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra về chất lượng hàng dự trữ quốc gia.

Tích cực nghiên cứu khoa học, đưa ra sáng kiến từ thực tiễn công việc

Trong thời gian qua, ngành Dự trữ quốc gia đã phối hợp với các đơn vị trong và ngoài ngành tổ chức triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học. Theo thống kê, từ năm 2011 đến nay, Tổng cục Dự trữ Nhà nước đã phê duyệt 34 đề tài cấp cơ sở, trong đó đã nghiên cứu xây dựng hoàn thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các mặt hàng dự trữ quốc gia do Bộ Tài chính trực tiếp quản lý; hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với hàng dự trữ quốc gia do các bộ, ngành quản lý nhằm nâng cao vai trò quản lý Nhà nước về dự trữ quốc gia của Tổng cục Dự trữ Nhà nước.

Phần lớn các đề tài nghiên cứu khoa học sau khi nghiệm thu đều được triển khai trong Ngành, nhất là công nghệ bảo quản lương thực: Điển hình là việc triển khai áp dụng công nghệ bảo quản có sử dụng chất khử O2, công nghệ bảo quản thóc dự trữ quốc gia trong điều kiện áp suất thấp được thử nghiệm thành công và triển khai áp dụng trong toàn Tổng cục Dự trữ Nhà nước, mở ra hướng đi mới cho công tác bảo quản lương thực, chuyển đổi hoàn toàn công nghệ bảo quản thoáng phụ thuộc điều kiện môi trường sang bảo quản kín, giúp các đơn vị hoàn toàn chủ động được trong quá trình bảo quản.

Công nghệ này đã đem lại hiệu quả cao như: Làm giảm tối đa công lao động nặng nhọc, độc hại của thủ kho bảo quản [không phải cào đảo, loại bỏ lượng hóa chất dùng để cho phòng diệt côn trùng], giảm tỷ lệ hao hụt so với định mức, kéo dài thời gian bảo quản, tiết kiệm chi phí và nâng cao giá trị thương phẩm của lương thực.

Bên cạnh đó, Tổng cục Dự trữ Nhà nước đã triển khai thử nghiệm công nghệ bảo quản mới do nước ngoài chuyển giao đối với thóc [công nghệ bảo quản lạnh], tại 02 dự án kho thí điểm Mông Hóa [Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Hà Nội] và Hòa Vang [Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Đà Nẵng], theo chu kỳ bảo quản là 03 năm để đánh giá sự phù hợp, hiệu quả kinh tế của công nghệ chuyển giao này và có định hướng về thiết kế hệ thống kho và điều chỉnh công nghệ bảo quản cho phù hợp.

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học luôn được Bộ Tài chính, Tổng cục Dự trữ Nhà nước quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ chế, về nguồn lực, về điều kiện thí nghiệm để các đề tài nghiên cứu triển khai thực hiện, đáp ứng các yêu cầu mục tiêu đặt ra. Các đề tài nghiên cứu của ngành Dự trữ quốc gia chủ yếu là khoa học ứng dụng, do vậy kinh nghiệm của cán bộ tích lũy trong triển khai nhiệm vụ và sự chủ động về điều kiện nghiên cứu là yếu tố tích cực đóng góp vào sự thành công của các đề tài.

Vì vậy, lực lượng cán bộ tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học rất đa dạng, có sự tham gia tích cực của cán bộ kỹ thuật thuộc Tổng cục Dự trữ Nhà nước, các Cục Dự trữ Nhà nước khu vực, các nghiên cứu viên của các viện, trường và cơ quan quản lý Nhà nước bên ngoài. Các kết quả nghiên cứu khoa học được triển khai trực tiếp trong Ngành nên có điều kiện theo dõi, kiểm định và đánh giá kết quả nghiên cứu sau khi nghiệm thu.

Tiếp tục hiện đại hóa công nghệ bảo quản hàng dự trữ

Trong thời gian tới, Bộ Tài chính [Tổng cục Dự trữ Nhà nước] sẽ tăng cường công tác nghiên cứu khoa học; tiếp cận, tìm kiếm, áp dụng công nghệ bảo quản tiên tiến của các nước trong khu vực nhằm hiện đại hóa công nghệ bảo quản, phù hợp với điều kiện khí hậu và kinh tế - xã hội của Việt Nam nhằm bảo đảm chất lượng hàng dự trữ quốc gia và nâng cao hiệu quả công tác bảo quản.

Trước hết, tăng cường thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực đặc thù như: i] Ứng dụng công nghệ bảo quản tiên tiến với mục tiêu kéo dài thời hạn lưu kho, giảm tỷ lệ hao hụt, bảo đảm chất lượng hàng hóa, nâng cao giá trị thương phẩm; ii] Hoàn thiện công nghệ bảo quản hiện hành đối với hàng dự trữ quốc gia, chú trọng với mặt hàng lương thực dự trữ quốc gia;

iii] Đánh giá sự phù hợp và khả năng triển khai công nghệ bảo quản thóc mới; iv] Xác định thời gian lưu kho [thời gian tối đa từ lúc nhập đến lúc xuất] bảo quản hàng dự trữ quốc gia đối với từng mặt hàng; v] Hoàn chỉnh hệ thống Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, định mức kinh tế - kỹ thuật hàng dự trữ quốc gia, phù hợp hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế.

Các bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia cần chỉ đạo các đơn vị tiếp tục hoàn thiện công nghệ bảo quản, cách ly tối đa sự tác động của môi trường, hạn chế sử dụng các vật liệu, thuốc bảo vệ thực vật có ảnh hưởng xấu đến môi trường.

Thứ hai, trong tổ chức hoạt động nghiên cứu Khoa học và Công nghệ, tạo điều kiện để cán bộ nghiên cứu các đề tài khoa học quản lý, bảo quản hàng dự trữ quốc gia ở cấp cao hơn, mở rộng các hình thức hợp tác trong hoạt động nghiên cứu khoa học để các sản phẩm nghiên cứu khoa học có chất lượng và ứng dụng sâu rộng. Đặc biệt, sẽ tăng cường áp dụng thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học gắn liền với chất lượng hàng dự trữ quốc gia trong quá trình nhập kho và bảo quản.

Đối với cán bộ khoa học kỹ thuật, Tổng cục Dự trữ Nhà nước sẽ có chính sách hỗ trợ cán bộ Khoa học và Công nghệ đi đào tạo nâng cao kiến thực chuyên môn và kỹ năng nghiên cứu ứng dụng. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, trao đổi, chuyển giao về khoa học và công nghệ với một số nước. Các đơn vị tạo điều kiện để cán bộ kỹ thuật, cán bộ làm khoa học được học tập, giao lưu trao đổi kinh nghiệm, khảo sát thực tế việc triển khai, ứng dụng khoa học công nghệ nói chung, công nghệ bảo quản nói riêng.

Với truyền thống 60 năm của ngành dự trữ quốc gia, các cán bộ công chức của ngành Dự trữ quốc gia đang thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao với mong muốn được đóng góp nhiều hơn nữa cho ngành Dự trữ quốc gia bằng việc tăng cường công tác quản lý chất lượng, những sáng kiến khoa học tiêu biểu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng hàng dự trữ quốc gia phục vụ các mục tiêu của Ngành.

Tăng cường công tác thống kê Nhà nước.

Chỉ thị nêu rõ: Trong những năm qua, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về thống kê ngày càng được tăng cường. Hoạt động thống kê Nhà nước từng bước được thực hiện nhịp nhàng, đồng bộ giữa Cơ quan Thống kê Trung ương với thống kê bộ, ngành và địa phương. Hệ thống tổ chức thống kê được kiện toàn từ Trung ương đến địa phương theo hướng chuyên môn hóa. Thể chế pháp lý về thống kê được hoàn thiện bảo đảm cơ sở pháp lý cho thống kê hoạt động và phát triển, đặc biệt khi Quốc hội khóa XV thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều và Phụ lục Danh mục chỉ tiêu thống kê quốc gia của Luật Thống kê. Chất lượng thông tin thống kê ngày càng được nâng cao và bảo đảm thông tin phục vụ kịp thời yêu cầu của các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các ngành và địa phương trong công tác hoạch định, điều hành chính sách vĩ mô, thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước và giải quyết những vấn đề đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội. Hợp tác quốc tế về thống kê được đẩy mạnh, từng bước vững chắc áp dụng các tiêu chuẩn thống kê quốc tế. Phần lớn thông tin thống kê được biên soạn theo chuẩn mực thống kê quốc tế và được các tổ chức quốc tế công nhận, sử dụng. Công tác chuyển đổi số trong hoạt động thống kê được quan tâm thực hiện.

Tuy nhiên, trước nhu cầu thông tin thống kê ngày càng lớn với yêu cầu chất lượng cao, tần suất nhanh, tập trung nhiều vào các chỉ tiêu phản ánh chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế, kinh tế số, phát triển bền vững, công tác thống kê Nhà nước vẫn còn những hạn chế, tồn tại như: Nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác thống kê còn thấp, nhận thức về công tác thống kê của người đứng đầu các cấp chính quyền chưa được coi trọng, chưa đúng tầm; số liệu thống kê chưa thống nhất về phạm vi, chưa kịp thời; công tác phân tích, sử dụng số liệu thống kê chưa đạt hiệu quả cao; việc bố trí nhân lực làm công tác thống kê còn hạn chế về số lượng và chất lượng; sự phối hợp trong việc kết nối, chia sẻ dữ liệu hành chính giữa Cơ quan Thống kê Trung ương với bộ, ngành thực hiện chưa hiệu quả; một số bộ, ngành và địa phương chưa thực sự quan tâm đến công tác thống kê và sử dụng thông tin thống kê do Tổng cục Thống kê công bố trong chỉ đạo, điều hành; thời gian xử lý, tổng hợp, báo cáo kết quả một số cuộc điều tra còn kéo dài.

Để khắc phục những hạn chế, tồn tại nêu trên và tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thống kê Nhà nước, bảo đảm thông tin thống kê đầy đủ, toàn diện, khách quan, trung thực, chính xác, kịp thời, thường xuyên, liên tục, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác thống kê trong toàn bộ hệ thống chính trị, đặc biệt là người đứng đầu ở các cấp chính quyền, địa phương.

Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê bộ, ngành

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ xây dựng, hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê bộ, ngành; triển khai hiệu quả các nhiệm vụ được phân công trong Chiến lược phát triển Thống kê Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Từng bộ, ngành theo lộ trình xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện cho từng năm đối với mỗi hoạt động cụ thể; nâng cao hiệu quả phối hợp công tác trong hoạt động thống kê giữa các bộ, ngành với Cơ quan Thống kê Trung ương, giữa bộ, ngành với địa phương trong việc sản xuất, cung cấp, phổ biến và chia sẻ thông tin thống kê nhằm thiết lập hệ thống thông tin thống kê quốc gia đồng bộ, thống nhất, thông suốt và hiệu quả giữa hệ thống thống kê tập trung với thống kê bộ, ngành, địa phương.

Thực hiện nghiêm túc việc cung cấp số liệu định kỳ cho Cơ quan Thống kê Trung ương để kịp thời biên soạn số liệu, báo cáo kinh tế - xã hội hằng tháng, hằng quý, hằng năm phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; đẩy mạnh cung cấp, chia sẻ dữ liệu hành chính giữa bộ, ngành với Cơ quan Thống kê Trung ương nhằm khai thác hiệu quả dữ liệu hành chính cho mục đích thống kê Nhà nước; xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ việc khai thác và và chia sẻ dữ liệu thống kê trong từng bộ, ngành cũng như kết nối giữa các bộ, ngành, địa phương với hệ thống thống kê tập trung.

Nâng cao chất lượng và chuyển đổi số hoạt động thống kê

Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành: Nghị định quy định nội dung chỉ tiêu thống kê quốc gia và quy trình biên soạn chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước [GDP], tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương [GRDP] trong tháng 5 năm 2022; Nghị định quy định chi tiết nội dung chế độ báo cáo thống kê cấp quốc gia trong tháng 12 năm 2022; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Chương trình điều tra thống kê quốc gia trong tháng 6 năm 2022; Quyết định ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã trong tháng 7 năm 2022; cập nhật và hoàn thiện các hình thức thu thập thông tin đầu vào, đặc biệt chú trọng đến việc khai thác, sử dụng thông tin thống kê từ dữ liệu hành chính, dữ liệu từ hồ sơ đăng ký hành chính từ các bộ, ngành và địa phương; đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu các hình thức thu thập thông tin mới như dữ liệu lớn, dữ liệu mở,...

Rút ngắn thời gian thu thập, tổng hợp, biên soạn các chỉ tiêu thống kê nhằm cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đổi mới các hình thức công bố, phổ biến thông tin thống kê.

Tiếp tục nâng cao chất lượng thông tin thống kê, cập nhật kịp thời các thông tin, kịch bản tăng trưởng kinh tế, lạm phát, đặc biệt là công tác phân tích dự báo, phân tích chuyên sâu về mô hình tăng trưởng, hoạt động kinh tế mới để phục vụ kịp thời, hiệu quả hơn trong công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương.

Đẩy nhanh quá trình ứng dụng kỹ thuật số vào công tác thống kê; triển khai đồng bộ tư liệu hóa và chuyển đổi số trong hoạt động thống kê; xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu thống kê quốc gia tập trung, đồng bộ về thông tin thống kê từ trung ương đến địa phương; xây dựng hệ thống báo cáo điện tử thống nhất từ trung ương đến địa phương, từ sở, ban, ngành cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện đến thống kê tập trung cấp tỉnh, cấp huyện, trong đó tập trung vào các chỉ tiêu có tần suất nhanh [tháng, quý].

Đẩy mạnh việc khai thác, sử dụng dữ liệu hành chính cho mục đích thống kê, trong đó tập trung khai thác các dữ liệu liên quan đến thu, chi ngân sách, thuế, xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hộ kinh doanh cá thể, đăng ký về cấp phép đầu tư, cấp phép xây dựng, dữ liệu quốc gia về dân cư,...; tập trung nghiên cứu phương pháp thống kê mới hiện đại; đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng trong hoạt động thống kê bảo đảm Thống kê Việt Nam áp dụng theo các tiêu chuẩn, chuẩn mực thống kê quốc tế.

Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ động thu thập, tổng hợp, biên soạn các chỉ tiêu thống kê phục vụ quản lý điều hành trên địa bàn; thống nhất sử dụng số liệu thống kê Nhà nước do cơ quan thống kê công bố; chỉ đạo các sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân quận, huyện phối hợp chặt chẽ với Cục Thống kê để tổ chức tốt các hoạt động thống kê trên địa bàn như: Tích cực chia sẻ dữ liệu, cung cấp thông tin hành chính cho ngành Thống kê; nghiêm túc thực hiện chế độ báo cáo thống kê định kỳ, đúng biểu mẫu, thời gian theo quy định; phối hợp thực hiện các cuộc điều tra thống kê nhằm nâng cao chất lượng số liệu thống kê phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo địa phương,... Tiếp tục củng cố nhân lực làm thống kê tại sở, ban, ngành, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã đáp ứng yêu cầu, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của sở, ban, ngành và chức danh công chức thống kê chuyên trách thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã.

Vũ Phương Nhi


Video liên quan

Chủ Đề