Ví dụ về quốc hữu hóa ở Việt Nam

Quốc hữu hóa được hiểu là việc một quốc gia tước quyền sở hữu tài sản [công cụ và tư liệu sản xuất, ruộng đất, hầm mỏ, xí nghiệp, ngân hàng, phương tiện giao thông…] của một cá nhân hoặc một tổ chức để chuyển tài sản đó thuộc quyền sở hữu quốc gia. Trong một số trường hợp nhất định, tài sản bị quốc hữu hóa là các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài, và hậu quả sẽ có những vấn đề pháp lý phát sinh vượt quá thẩm quyền của tòa án địa phương hay quốc gia quy định. Như vậy, quốc hữu hóa là việc đưa các tài sản [động sản và bất động sản] từ sở hữu tư nhân thành sở hữu nhà nước. Đây là một quyết định đơn phương quyền lực của nhà nước đối với các tài sản. Việc quốc hữu hóa có thể kèm theo đền bù kinh phí đối với tư nhân.

Ta có thể hiểu đơn giản, quốc hữu hóa là việc chuyển giao công cụ, tư liệu sản xuất, ruộng đất, hầm mỏ, xí nghiệp, ngân hàng, phương tiện giao thông thuộc sở hữu tư nhân sang sở hữu nhà nước mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu nhằm thực hiện các biện pháp cải cách kinh tế xã hội.

Quốc hữu hóa là một trong những biện pháp cải cách kinh tế xã hộ không phải là biện pháp trừng phạt riêng lẻ, thực hiện với nhiều chủ thể.

Quốc hữu hóa là việc chuyển quyền sở hữu tài sản của một hoặc một số cá nhân hoặc một hoặc một số tổ chức thành tài sản công [tài sản thuộc quyền sở hữu của quốc gia]. Cá nhân và tổ chức có tài sản bị quốc hữu hóa có thể là công dân hoặc pháp nhân của nước thực hiện việc quốc hữu hóa hoặc có thể là công dân hoặc pháp nhân của một nước khác.

Quốc hữu hóa được luật pháp quốc tế thừa nhận là hành động bảo vệ chủ quyền xác đáng và phù hợp với điều kiện việc bồi thường cho chủ sở hữu cũ được tiến hành một cách công bằng và nhanh chóng. Trong trường hợp nước tiến hành quốc hữu hóa không thực hiện việc bồi thường hoặc việc bồi thường không đáp ứng được các điều kiện trên, hành động quốc hữu hóa lúc đó được hiểu là tịch thu hoặc sung công.

Như vậy, quốc hữu hóa là một hành vi biểu hiện quyền lực của Nhà nước và dựa trên ý chí độc lập của Nhà nước tiến hành quốc hữu hóa. Việc chuyển dịch sở hữu trên cơ sở đạo luật quốc hữu hóa khác với việc chuyển dịch quyền sở hữu trong dân sự ở chỗ: việc chuyển dịch quyền sở hữu trong đạo luật quốc hữu hóa mang tính chất cưỡng chế và không cần có sự thỏa thuận giữa các chủ thể thuộc đối tượng điều chỉnh của đạo luật quốc hữu hóa. Phạm vi tài sản bị quốc hữu hóa thông thường được quy định cụ thể ngay trong các đạo luật về quốc hữu hóa. Các tài sản đều có thể trở thành đối tượng điều chỉnh của các đạo luật quốc hữu hóa bất luận tài sản đó thuộc về ai, của công dân và pháp nhân nước sở tại hay của người nước ngoài.

2. Những lý do dẫn tới việc quốc hữu hóa:

Thực tiễn cho thấy có nhiều nguyên nhân dẫn tới việc quốc hữu hóa nổi bật là những nguyên nhân sau:

– Hoàn cảnh lịch sử: Ở Áo sau Chiến tranh thế giới thứ hai tất cả các tài sản của người Đức bất kể tư hay công từ các kỹ nghệ nhiên liệu thô trở thành tài sản công của nước Áo.

– Khi một số công ty, tập đoàn lớn ở các nước phát triển đang lâm vào tình trạng phá sản. Nếu các công ty đó phá sản, nó sẽ có ảnh hưởng vô cùng lớn tới nền kinh tế quốc gia [đặc biệt là các ngân hàng], bởi vậy, Nhà nước có thể tiến hành quốc hữu hóa để cứu vớt các công ty đó, tránh những hậu quả khôn lường về sau.

– Quốc hữu hóa góp phần để Nhà nước ngăn ngừa tình trạng độc quyền tư nhân.

– Đối với các nước đang phát triển, có nguồn tài nguyên dồi dào, việc chính phủ quốc hữu hóa một số ngành công nghiệp quan trọng có ý nghĩa to lớn với nền kinh tế quốc dân là rất cần thiết để tránh việc các nước giàu có đầu tư vào để khai thác tài nguyên dẫn đến nền kinh tế bị phụ thuộc.

– Quốc hữu hóa những ngành kinh tế quan trọng như ngân hàng, hầm mỏ, kỹ nghệ sắt, thép, hệ thống giao thông xe lửa. Đằng sau những quyết định này là ý tưởng, nhà nước phải sở hữu những công ty này để có thể điều hành nền kinh tế một cách hiệu quả. Hoặc cố ý đập tan những thế lực chính trị của các cá nhân có được nhờ thế lực kinh tế. Quốc hữu hóa cũng có thể xảy ra vì lo sợ là những ngành quan trọng bị rơi vào tay những tập đoàn ngoại quốc.

– Ngoài ra, quốc hữu hóa đôi khi là trường hợp của sự trả đũa về chính trị khi bang giao giữa các quốc gia liên quan. Trong trường hợp này là quốc gia nhận vốn đầu tư với quốc gia của nhà đầu tư không được tốt đẹp.

Và dù với bất cứ lý do nào khi quốc hữu hóa thì chúng ta thường phải chấp nhận những thiệt hại, vì các hãng nhà nước thường làm việc không hiệu quả bằng các hãng tư nhân. Một điều quan trọng nữa là phải bồi thường cho các chủ cũ như thế nào cũng là một vấn đề quan trọng cần được quy định cụ thể.

3. Hiệu lực của đạo luật quốc hữu hóa:

Đa số các quốc gia đều thừa nhận là hiệu lực của đạo luật quốc hữu hóa mang tính trị ngoại lãnh thổ: vượt ra phạm vi quốc gia: vượt ra phạm vi lãnh thổ.

Đạo luật quốc hữu hóa do quốc gia ban hành không chỉ có hiệu lực đối với tài sản là đối tượng của quốc hữu hóa nằm trên lãnh thổ nước mình mà ngay cả tài sản đó nằm ở lãnh thổ nước ngoài.

Trong thực tiễn các quốc gia nước ngoài chỉ trả lại tài sản là đổi tượng của đạo luật quốc hữu hóa trong trường hợp vào thời điểm đạo luật quốc hữu hóa có hiệu lực thì tài sản vẫn đang nằm trên lãnh thổ quốc gia tiến hành quốc hữu hóa. Vì một lí do nào đó tài sản đó bị đem ra nước ngoài thì quốc gia đó sẽ trả lại.

4. Vấn đề quốc hữu hóa của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:

Vấn đề quốc hữu hóa được Nhà nước quy định cụ thể lần đầu tại Điều 23 và Điều 25 của Hiến pháp 1992 [sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001] và kế thừa, phát triển ở Hiến pháp 2013. Các luật chuyên ngành cũng có những quy định cụ thể về vấn đề quốc hữu hóa.

Ta có thể thấy, vấn đề quốc hữu hóa trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam không được áp dụng mà Nhà nước chỉ quy định về vấn đề trưng mua, trưng dụng. Như vậy, Nhà nước ta trên cơ sở tôn trọng quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân, tổ chức, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của người dân, giữ vững ổn định về kinh tế cũng như chế độ chính trị.

Kết quả của quốc hữu hóa trong lĩnh vực kinh tế luôn mang tính hai mặt: vừa mang lại lợi ích kinh tế cho Nhà nước nhưng đồng thời lại hạn chế “niềm tin” của các cá nhân, tổ chức khi đầu tư kinh doanh tại Việt Nam do quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của họ có thể bị xâm phạm, với quy định về trưng mua, trưng dụng, tổ chức, cá nhân sẽ được bồi thường khi Nhà nước thực hiện việc trưng dụng tài sản thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân đó. Tính hai mặt của lợi ích kinh tế sẽ dẫn đến những hậu quả về chính trị. Chính vì vậy, quy định về vấn đề quốc hữu hóa là một trong những vấn đề khá “nhạy cảm” và cần được quan tâm. Quy định về vấn đề quốc hữu hóa là sự thể hiện những quan điểm, chính sách của Nhà nước Việt Nam về ổn định và phát triển nền kinh tế nói riêng cũng như ổn định và phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội nói chung

Nền kinh tế ở Việt Nam vừa mang những đặc tính chung của nền kinh tế thị trường, lại vừa mang tính đặc thù là định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện qua một trong những đặc điểm sau: chế độ sở hữu công về tư liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Hiện nay Nhà nước ta lại có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh, ban hành các văn bản hướng dẫn chuyển đổi sở hữu công ty nhà nước nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác trở thành đồng chủ sở hữu của các công ty này, chứ không tiến hành quốc hữu hóa các doanh nghiệp để hình thành nên chế độ sở hữu công của chủ nghĩa xã hội.

Ta có thể thấy, quan điểm về vấn đề quốc hữu hóa nói riêng và chế độ sở hữu công cộng nói chung ở Việt Nam hiện nay đã thể hiện quan điểm về đường lối xây dựng đất nước trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam được xây dựng mang một màu sắc đặc biệt, bởi nó gắn với định hướng xã hội chủ nghĩa tức là mục tiêu hàng đầu là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở đó cải thiện từng bước đời sống nhân dân.

Như vậy, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là đòn bẩy để giúp phát triển kinh tế nhanh chóng và bền vững, là phương tiện quan trọng để thực hiện xã hội hóa xã hội chủ nghĩa nền sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, quy định ở nước ta hiện nay về vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, đa hình thức sở hữu chứ không thừa nhận quốc hữu hóa để sở hữu nhà nước giữ địa vị độc tôn không hề mâu thuẫn với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì quá độ.

Ghi chú: Bài viết được gửi tặng hoặc được sưu tầm, biên tập với mục đích tuyên truyền pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm bản quyền vui lòng gửi thông báo cho chúng tôi, kèm theo tài liệu chứng minh vi phạm qua Email: ; Đồng thời, chúng tôi cũng rất mong nhận được tài liệu tặng từ quý bạn đọc qua Email: . Xin cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm tới Viện Pháp luật Ứng dụng VIệt Nam.

Quốc hữu hóa [tiếng Anh: Nationalization] là việc đưa các tài sản [động sản và bất động sản] từ sở hữu tư nhân thành sở hữu nhà nước.[1]
Đây là quyết định đơn phương quyền lực của nhà nước đối với các tài sản. Việc quốc hữu hóa có thể kèm theo đền bù kinh phí [tiếng Anh: Expropriation], hoặc không đền bù gì cả, lúc đó còn gọi là tịch thu hay sung công [tiếng Anh: confiscation].[1].
Ngược lại, quá trình chuyển đổi sở hữu từ khu vực công sang khu vực tư gọi là tư nhân hóa[2].

Lý do

Những lý do đưa tới việc quốc hữu hóa thì rất đa dạng:

  • Hoàn cảnh lịch sử ngoại lệ: Ở Áo sau Chiến tranh thế giới thứ hai tất cả các tài sản của người Đức bất bất kể tư hay công từ các kỹ nghệ nhiên liệu thô trở thành tài sản công của nước Áo.
  • Quốc hữu hóa vì tình trạng khủng hoảng kinh tế, khi chính phủ trở thành chủ nhân của công ty tư, mà nếu không có sự can thiệp của nhà nước sẽ bị phá sản.
  • Quốc hữu hóa để ngăn ngừa tình trạng độc quyền tư nhân.
  • Quốc hữu hóa những ngành kinh tế quan trọng như ngân hàng, hầm mỏ, kỹ nghệ sắt, thép, hệ thống giao thông xe lửa. Đằng sau những quyết định này là ý tưởng, nhà nước phải sở hữu những công ty này để có thể điều hành nền kinh tế một cách hiệu quả. [Thí dụ, các ngân hàng nhà nước có thể cho mượn tiền với lãi rẻ để khuyến khích một số đầu tư nào đó]. Hoặc cố ý đập tan những thế lực chính trị của các cá nhân có được nhờ thế lực kinh tế. Quốc hữu hóa cũng có thể xảy ra vì lo sợ là những ngành quan trọng bị rơi vào tay những tập đoàn ngoại quốc.

Dù với lý do nào khi quốc hữu hóa người ta thường phải chấp nhận những thiệt hại, vì các hãng nhà nước thường làm việc không hiệu quả bằng các hãng tư nhân. Một điều quan trọng nữa là phải bồi thường cho các chủ cũ như thế nào.[3]

Hoàn cảnh

Thảm họa môi trường

Sau Thảm họa hạt nhân Fukushima, Nhật Bản quốc hữu hóa công ty điện lực TEPCO. Giải thích cho quyết định quốc hữu hóa, chính phủ Nhật Bản cho rằng "việc này sẽ giúp TEPCO cung cấp điện ổn định và tránh những rắc rối có thể xảy ra trong quá trình tẩy rửa chất phóng xạ và bồi thường cho các thiệt hại của sự cố hạt nhân".[4],[5].

Khủng hoảng kinh tế

Việc quốc hữu hóa hay quốc hữu hóa bán phần là một dụng cụ chính trị trong những tình trạng ngoại lệ được thi hành để làm ổn định khi nền kinh tế bị khủng hoảng như Khủng hoảng tài chính 2007–2008. [6] Nó đưa đến việc quốc hữu hóa như trường hợp hãng chế tạo xe hơi General Motors[7],[8][9], nghiệp đoàn bảo hiểm American International Group [10] [cả hai hãng đều là của Mỹ], nhà băng bất động sản Hypo Real Estate [11] [Deutschland], nhà băng Bankia của Tây Ban Nha [2012].[12],[13]
Tại Việt Nam TS Lê Xuân Nghĩa, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, tại cuộc hội thảo "Ngân hàng Việt Nam - bức tranh toàn cảnh 2012 và khuyến nghị" cho là cách tốt nhất trong giai đoạn tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trong việc xử lý nợ xấu là quốc hữu hóa các ngân hàng yếu kém không thể tự khắc phục được.[14]

Độc quyền tự nhiên

Các ngành thuộc về độc quyền tự nhiên như các công ty cung cấp điện, nước, hoặc các phương tiện giao thông như xe lửa thường đã được các nước quốc hữu hóa, để có thể bảo đảm cung cấp cho mọi người tiêu thụ, nhưng hiện thời các nước lại có khuynh hướng tư nhân hóa các công ty đó, vì các công ty tư nhân làm việc hiệu quả, và ít tốn kém hơn.

  • Canada đã quốc hữu hóa các công ty đường sắt trong năm 1918 sau khi những công ty này bị phá sản trong suốt và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và thành lập Đường sắt Quốc gia Canada. Tuy nhiên từ năm 1995 họ lại tư nhân hóa công ty này.
  • Hãng hàng không Air France của Pháp bị quốc hữu hóa sau Chiến tranh thế giới thứ hai vào năm 1945, và được tư nhân hóa vào năm 1998 sau một thời gian thua lỗ triền miên.
  • Đặc biệt ở Anh quốc cũng vì lý do nêu trên dưới thời Margaret Thatcher nhiều công ty quốc doanh trở thành tư nhân: British Airways quốc hữu hóa năm 1939, tư nhân hóa 1987, British Steel đổi từ quốc doanh từ năm 1967 sang tư nhân 1988.

Chủ nghĩa Xã hội

Những người theo chủ nghĩa xã hội đã coi việc quốc hữu hóa là những biện pháp để xóa bỏ ra bất công xã hội, phân hóa giàu nghèo, chế độ đẳng cấp, nạn bóc lột lao động, lối sống thực dụng, và tha hoá con người.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Karl Marx và Friedrich Engels kêu gọi quốc hữu hóa tất cả các phương tiện sản xuất.[15]
Karl Marx và Friedrich Engels đòi hỏi trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ngoài ra:[16]

  • Tập trung tín dụng vào tay nhà nước thông qua một ngân hàng quốc gia với tư bản của nhà nước và ngân hàng này sẽ nắm độc quyền hoàn toàn.
  • Tập trung tất cả các phương tiện vận tải vào trong tay nhà nước.
  • Tăng thêm số công xưởng nhà nước và công cụ sản xuất; khai khẩn đất đai để cấy cầy và cải tạo ruộng đất trong một kế hoạch chung.

Trong cuộc Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam đất đai của các địa chủ bị tịch thu và được phân phát cho các tá điền. Tuy nhiên quyền tư hữu của nông dân chỉ là tạm thời vì sau đó năm 1958, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản quyết định rằng tập thể hóa là mục tiêu phát triển nông thôn.[17] Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1959 kế tiếp hợp thức hóa chính sách đó và xóa bỏ quyền sở hữu ruộng đất tư nhân và thay vào đó là quyền sở hữu tập thể.[18] Đất đai dần tập trung vào tay Nhà nước qua việc thành lập những hợp tác xã do chính phủ quản lý. Nhà nông bị ép buộc gia nhập hợp tác xã nên đến năm 1960, 86% dân quê ở Miền Bắc đã vào hợp tác xã. Số liệu đó tăng lên thành 95,5% vào năm 1970.[17] Khi Hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 1980 được soạn ra thì quyền tư hữu ruộng đất của nông dân hoàn toàn biến mất, quyền sở hữu đất trên toàn cõi đất nước thuộc về toàn dân và Nhà nước thay mặt quản lý.[19]

Chú thích

  1. ^ a b “Vì sao Venezuela có thể quốc hữu hóa các công ty nước ngoài?”. Tuổi trẻ. 23 tháng 5 năm 2009.
  2. ^ “QUÁ TRÌNH TƯ NHÂN HÓA: NGUYÊN NHÂN VÀ PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN”. TTPLDS. 8 tháng 12 năm 2008.
  3. ^ “Verstaatlichung, academic universal lexikon”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |= [trợ giúp]
  4. ^ “Nhật Bản quốc hữu hóa công ty điện lực TEPCO”. VOV. 31 tháng 7 năm 2012.[liên kết hỏng]
  5. ^ “Japans Regierung verstaatlicht Fukushima-Betreiber Tepco”. Handelsblatt. 29 tháng 4 năm 2012.
  6. ^ Es gibt nur einen Weg: Staatsgeld für Banken, 19. Januar 2012
  7. ^ "Notverstaatlichung" bei General Motors…”. Investors inside. 27 tháng 4 năm 2009.
  8. ^ “General Motors”. Wiki Việt.
  9. ^ “GM phá sản, Vidamco tuyên bố không thay đổi hoạt động”. VOV. 3 tháng 6 năm 2009.[liên kết hỏng]
  10. ^ “American International Group”. Wiki tiếng Anh.
  11. ^ Hypo Real Estate, Wiki Đức
  12. ^ Bankia Bank, Wiki Đức, Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2013, truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2013
  13. ^ “Ngân hàng yếu kém thì nên quốc hữu hóa?”. Công lý. 28 tháng 12 năm 2012.
  14. ^ “Bơm 24 tỉ USD quốc hữu hóa Ngân hàng Bankia”. Tuổi trẻ. 26 tháng 5 năm 2012.
  15. ^ Manifest der Kommunistischen Partei, Marx-Engels-Werke 4: 481
  16. ^ [1] Kommunistisches Manifest
  17. ^ a b Trần Thị Quế. Vietnam's Agriculture: The Challenges and Achievements. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 1998. Tr 12-27.
  18. ^ “Ownership regimes in Vietnam”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2013.
  19. ^ Development of Propert Law in Cambodia, Vietnam and China[liên kết hỏng]

Tham khảo

  • Volkseigentum [tiếng Đức]
  • Spiegel Online: „Wenn der Staat zum Banker wird" 10.10.2008
  • "Es muss Schluss sein" Interview mit Hans-Werner Sinn Lưu trữ 2014-04-07 tại Wayback Machine Welt-online, 15.09.2011
  • When Governments Take Over Industries in Trouble NYT, 21.01.2009

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Quốc_hữu_hóa&oldid=68371041”

Video liên quan

Chủ Đề