100 mẫu hip hop hàng đầu năm 2022

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Nội dung chính Show

  • Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]
  • Thành phần thực hiện[sửa | sửa mã nguồn]
  • Xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]
  • Chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]
  • Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
  • Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
  • Nguồn[sửa | sửa mã nguồn]
  • Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
  • 20 bài hát R & B hàng đầu ngay bây giờ là gì?
  • 10 bài hát hàng đầu hiện nay là gì?
  • Bài hát nào là số 1 trên Billboard 2022?
  • Bài hát R & B số 1 2022 là gì?

"Like a Prayer"Đĩa đơn của Madonna
từ album Like a PrayerMặt BPhát hànhĐịnh dạngThu âmThể loạiThời lượngHãng đĩaSáng tácSản xuấtThứ tự đĩa đơn của MadonnaVideo âm nhạc

"Act of Contrition"
3 tháng 3 năm 1989
  • 7"
  • 12"
  • cassette
  • CD
1988
Pop rock
5:19
  • Sire
  • Warner Bros.
  • Madonna
  • Patrick Leonard
  • Madonna
  • Leonard
"Spotlight"
[1988]
"Like a Prayer"
[1989]
"Express Yourself"
[1989]
"Like a Prayer" trên YouTube

"Like a Prayer" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Madonna nằm trong album phòng thu thứ tư của cô cùng tên [1989]. Nó được phát hành vào ngày 3 tháng 3 năm 1989 như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album bởi Sire Records và Warner Bros. Records. Bài hát được đồng viết lời và sản xuất bởi Madonna với Patrick Leonard, trong đó thể hiện tư tưởng nghệ thuật và cá nhân mới trong quá trình sáng tác của cô, đồng thời bày tỏ mong muốn tiếp cận những đối tượng nghe nhạc trưởng thành hơn so với những tác phẩm dance-pop trước đây của nữ ca sĩ. "Like a Prayer" là một bản pop rock kết hợp với những yếu tố của nhạc phúc âm mang nội dung đề cập đến một cô gái trẻ luôn tràn đầy niềm tin về Đức Chúa Trời, người luôn được cô nhìn nhận như hình mẫu nam lý tưởng duy nhất trong đời. Ngoài ra, nó còn bao gồm một dàn hợp xướng tham gia góp giọng nền, giúp làm nổi bật giá trị tinh thần của bài hát, và tiếng guitar rock mang tính chất ưu tối và huyền bí. Theo tiết lộ của Madonna, "Like a Prayer" được lấy cảm hứng từ Công giáo, và có nhiều ý nghĩa ám chỉ kép về tình dục lẫn tôn giáo.

Sau khi phát hành, nó nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao giai điệu đơn giản nhưng bắt tai của nó cũng như sự thay đổi trong âm nhạc của nữ ca sĩ. Ngoài ra, bài hát còn lọt vào danh sách những tác phẩm xuất sắc nhất mọi thời đại bởi nhiều tổ chức và ấn phẩm âm nhạc, bao gồm vị trí thứ 306 trong danh sách 500 Bài hát xuất sắc nhất mọi thời đại của Rolling Stone. "Like a Prayer" cũng gặt hái những thành công ngoài sức tưởng tượng về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Úc, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Ireland, Ý, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh, và lọt vào top 2 ở tất cả những quốc gia còn lại, bao gồm những thị trường lớn như Áo, Pháp, Đức và Hà Lan. Tại Hoa Kỳ, nó đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 trong ba tuần liên tiếp, trở thành đĩa đơn quán quân thứ bảy của Madonna tại đây. Tính đến nay, "Like a Prayer" đã bán được hơn 6 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại.

Video ca nhạc cho "Like a Prayer" được đạo diễn bởi Mary Lambert, trong đó Madonna được mời làm nhân chứng cho một vụ ám sát bởi nhóm Người da trắng thượng đẳng, trong đó một người đàn ông da màu bị cáo buộc giết người. Nó đã vấp phải những chỉ trích kịch liệt từ Tòa Thánh Vatican cũng như nhiều tổ chức tôn giáo và nhóm người xem bởi một số hình ảnh như cây thánh giá bị đốt cháy và ẩn dụ về việc yêu đương với một vị thánh da màu. Họ cũng quyết định tẩy chay những sản phẩm nước giải khát của hãng Pepsi, công ty đã sử dụng bài hát trong quảng cáo hợp tác giữa họ và Madonna. Ngay sau đó, Pepsi phải quyết định hủy bỏ hợp đồng tài trợ với nữ ca sĩ, và chấp nhận đền bù giá trị hợp đồng đã ký. Tuy nhiên, nó đã nhận được hai đề cử tại giải Video âm nhạc của MTV năm 1989 cho Video của năm và Bình chọn của người xem, và chiến thắng một giải sau. Kể từ khi phát hành, "Like a Prayer" đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp của Madonna, trong đó giới chuyên môn bắt đầu nhìn nhận cô như là một nghệ sĩ chứ không đơn thuần là một ngôi sao nhạc pop.

Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đĩa 7" tại Hoa Kỳ[1]
  1. "Like a Prayer" [bản 7"] – 5:19
  2. "Act of Contrition" – 2:19
  • Đĩa CD 3" tại Nhật[2]
  1. A. "Like a Prayer" [bản 7" fade] – 5:07
  2. B. "Act of Contrition" – 2:19
  • Đĩa 12" tại Hoa Kỳ[3]
  1. "Like a Prayer" [12" Dance phối] – 7:50
  2. "Like a Prayer" [12" phối lại] – 7:21
  3. "Like a Prayer" [Churchapella] – 6:14
  4. "Like a Prayer" [12" Club] – 6:35
  5. "Like a Prayer" [7" phối lại] – 5:41
  6. "Act of Contrition" – 2:19
  • Đĩa 12" tại Anh quốc[4]
  1. A. "Like a Prayer" [12" Dance phối] – 7:50
  2. B1. "Like a Prayer" [Churchapella] – 6:14
  3. B2. "Like a Prayer" [bản 7" chỉnh sửa] – 5:41
  • Đĩa mở rộng Remixed Prayers tại Nhật[5]
  1. "Like a Prayer" [12" Dance phối] – 7:50
  2. "Like a Prayer" [12" phối] – 7:21
  3. "Like a Prayer" [Churchapella] – 6:05
  4. "Like a Prayer" [12" Club] – 6:35
  5. "Like a Prayer" [7" phối lại] – 5:41
  6. "Express Yourself" [Non-Stop Express phối] – 7:57
  7. "Express Yourself" [Stop & Go Dubs] – 10:49
  8. "Express Yourself" [Local phối] – 6:26

Thành phần thực hiện[sửa | sửa mã nguồn]

Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của Like a Prayer, Sire Records.[6]

  • Madonna – hát chính, hát nền, viết lời, sản xuất
  • Patrick Leonard – viết lời, sản xuất, lập trình
  • The Andraé Crouch Choir – hát nền
  • Bill Meyers – lập trình
  • Bruce Gaitsch – guitar mộc
  • Chester Kamen – guitar
  • Chuck Findley – lập trình, kèn đồng
  • Dann Huff – guitar
  • David Williams – guitar bass
  • Dick Hyde – kèn đồng
  • Donna De Lory – hát nền
  • Niki Haris – hát nền
  • Geary Lanier – clavinet
  • Guy Pratt – lập trình trống, bass
  • Paulinho da Costa – bộ gõ
  • Herb Ritts – nhiếp ảnh gia
  • Christopher Ciccone – thiết kế bìa
  • Bob Ludwig – master
  • Bill Bottrell – phối khí
  • Shep Pettibone – hỗ trợ sản xuất, phối lại, kỹ sư âm thanh
  • Michael Hutchinson – kỹ sư phối lại
  • Dave Way – hỗ trợ kỹ sư
  • Fred McFarlane – lập trình
  • Junior Vasquez – kỹ sư âm thanh
  • Bill Bottrell – hỗ trợ sản xuất, phối lại
  • Prince – guitar

Xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Danh sách đĩa đơn bán chạy nhất thế giới
  • Danh sách đĩa đơn quán quân Hot 100 năm 1989 [Mỹ]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Like a Prayer [US 7-inch Single liner notes]. Madonna. Sire Records. 1989. PROMO 348.Quản lý CS1: khác [liên kết]
  2. ^ Like a Prayer [Japanese 3-inch Single liner notes]. Madonna. Sire Records. 1989. 10SW-21.Quản lý CS1: khác [liên kết]
  3. ^ Like a Prayer [US 12-inch Single liner notes]. Madonna. Sire Records. 1989. 124790.Quản lý CS1: khác [liên kết]
  4. ^ Like a Prayer [UK 12-inch Single liner notes]. Madonna. Sire Records. 1989. 5441.Quản lý CS1: khác [liên kết]
  5. ^ Remixed Prayers -mini album- [Japanese CD Single liner notes]. Madonna. Sire Records. 1989. 09P3-6147.Quản lý CS1: khác [liên kết]
  6. ^ Like a Prayer [LP, Vinyl, CD]. Madonna. Sire Records. WEA Records Pvt. Ltd. 1989. 9 25844-1.Quản lý CS1: khác [liên kết]
  7. ^ "Australian-charts.com – Madonna – Like a Prayer". ARIA Top 50 Singles. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  8. ^ "Austriancharts.at – Madonna – Like a Prayer" [bằng tiếng Đức]. Ö3 Austria Top 40. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  9. ^ "Ultratop.be – Madonna – Like a Prayer" [bằng tiếng Hà Lan]. Ultratop 50. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  10. ^ “RPM 100 Singles”. RPM. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2017.
  11. ^ “RPM 20 Dance Singles”. RPM. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2017.
  12. ^ “Top 3 Denmark” [PDF]. Music & Media. 1 tháng 4 năm 1989. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2018.
  13. ^ “Hits of the World: European Hot 100 Singles”. Billboard. 98 [10]: 57. 28 tháng 3 năm 1989. ISSN 0006-2510.
  14. ^ Nyman 2005, tr. 90
  15. ^ "Lescharts.com – Madonna – Like a Prayer" [bằng tiếng Pháp]. Les classement single. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  16. ^ “Madonna - Like a Prayer” [bằng tiếng Đức]. GfK Entertainment. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2017.
  17. ^ "The Irish Charts – Search Results – Like a Prayer". Irish Singles Chart. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  18. ^ Bản mẫu:Chú thích webb
  19. ^ “ライク・ア・ヴァージ Japanese Singles Chart” [bằng tiếng Nhật]. Oricon. 11 tháng 2 năm 1985. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2010.
  20. ^ "Nederlandse Top 40 – Madonna" [bằng tiếng Hà Lan]. Dutch Top 40. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  21. ^ "Dutchcharts.nl – Madonna – Like a Prayer" [bằng tiếng Hà Lan]. Single Top 100. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  22. ^ "Charts.nz – Madonna – Like a Prayer". Top 40 Singles. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  23. ^ "Norwegiancharts.com – Madonna – Like a Prayer". VG-lista. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  24. ^ “Top 30 Poland”. LP3. 29 tháng 4 năm 1989. Bản gốc [PDF] lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2018.
  25. ^ “Top 3 Portugal” [PDF]. Music & Media. 15 tháng 4 năm 1989. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2018.
  26. ^ a b Salaverri 2005, tr. 344
  27. ^ "Swedishcharts.com – Madonna – Like a Prayer". Singles Top 100. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  28. ^ "Swisscharts.com – Madonna – Like a Prayer". Swiss Singles Chart. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  29. ^ "Madonna: Artist Chart History". Official Charts Company. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  30. ^ "Madonna Chart History [Hot 100]". Billboard. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  31. ^ "Madonna Chart History [Adult Contemporary]". Billboard. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  32. ^ "Madonna Chart History [Dance Club Songs]". Billboard. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  33. ^ "Madonna Chart History [Hot R&B/Hip-Hop Songs]". Billboard. Truy cập 9 tháng 5 năm 2016.
  34. ^ “ARIA Charts - End Of Year Charts - Top 50 Singles 1989”. ARIA. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2017.
  35. ^ “Alle Rechte Jahreshitparade 1989” [bằng tiếng Hà Lan]. Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2011.
  36. ^ “Jaaroverzichten 1989” [bằng tiếng Hà Lan]. Ultratop. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2017.
  37. ^ “Top 100 Singles of 1989”. RPM. RPM Library Archives. ngày 23 tháng 12 năm 1989. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2011.
  38. ^ “Top 25 Dance Singles of 1989”. RPM. ngày 23 tháng 12 năm 1989. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2017.
  39. ^ “Eurochart Hot 100 Singles 1989” [PDF]. Music & Media. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2017.
  40. ^ “TOP – 1989” [bằng tiếng Pháp]. Top-france.fr. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2017.
  41. ^ “Top 100 Single-Jahrescharts 1989” [bằng tiếng Đức]. GfK Entertainment. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2017.
  42. ^ “I singoli più venduti del 1989” [bằng tiếng Ý]. Hit Parade Italia. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2017.
  43. ^ a b “De Single Top 100 1989 Over” [PDF] [bằng tiếng Hà Lan]. Radio 538. MegaCharts. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2011.
  44. ^ “Jaaroverzichten - Single 1989” [bằng tiếng Hà Lan]. GfK Dutch Charts. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2017.
  45. ^ “Top Selling Singles of 1989”. RIANZ. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2017.
  46. ^ “Topp 20 Single Vår 1989” [bằng tiếng Na Uy]. VG-lista. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2017.
  47. ^ “Topp 20 Single Vinter 1989” [bằng tiếng Na Uy]. VG-lista. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2017.
  48. ^ “Swiss Year-end Charts 1989”. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2017.
  49. ^ “Year-End Charts '89 – Top 100 Singles”. Music Week. London, England: Spotlight Publications: 16. 3 tháng 3 năm 1990.
  50. ^ a b c “Year end Singles of 1989” [PDF]. Billboard. 23 tháng 12 năm 1989. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2011.
  51. ^ “Austriancharts.at – Bestenlisten – 80-er single” [bằng tiếng Đức]. Hung Medien.
  52. ^ “Billboard's Top Songs of the '80s: Page 1”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2019.
  53. ^ “Billboard Hot 100 60th Anniversary Interactive Chart”. Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2019.
  54. ^ Ryan, Gavin [2011]. Australia's Music Charts 1988–2010. Mt. Martha, VIC, Australia: Moonlight Publishing.
  55. ^ “France single certifications – Madonna – Like a Prayer” [bằng tiếng Pháp]. InfoDisc. Chọn Madonna và nhấn OK
  56. ^ “Les Singles en Argent:” [bằng tiếng Pháp]. Infodisc.fr. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013.
  57. ^ “Gold-/Platin-Datenbank [Madonna; 'Like a Prayer']” [bằng tiếng Đức]. Bundesverband Musikindustrie.
  58. ^ “Japan single certifications – Madonna – Like a Prayer” [bằng tiếng Nhật]. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Nhật Bản.
  59. ^ Oricon Album Chart Book: Complete Edition 1970–2005. Roppongi, Tokyo: Oricon Charts. 2006. ISBN 4-87131-077-9.
  60. ^ “New Zealand single certifications – Madonna – Like a Prayer”. Recorded Music NZ.
  61. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 1987−1998” [PDF] [bằng tiếng Thụy Điển]. IFPI Sweden. Bản gốc [PDF] lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2019.
  62. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Awards [Madonna; 'Like a Prayer']”. IFPI Switzerland. Hung Medien.
  63. ^ “Britain single certifications – Madonna – Like a Prayer” [bằng tiếng Anh]. British Phonographic Industry. Chọn singles trong bảng chọn Format. Chọn Gold trong nhóm lệnh Certification. Nhập Like a Prayer vào khung "Search BPI Awards" rồi nhấn Enter
  64. ^ Myers, Justin [24 tháng 4 năm 2019]. “Madonna's lead singles ranked”. Official Charts Company. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2019.
  65. ^ “American single certifications – Madonna – Like a Prayer” [bằng tiếng Anh]. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Single rồi nhấn Search

Nguồn[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bignell, James [2007]. Postmodern Media Culture. Aakar Books. ISBN 81-89833-16-2.
  • Bego, Mark [2000]. Madonna: Blonde Ambition. Cooper Square Press. ISBN 0-8154-1051-4.
  • Bronson, Fred [2003]. The Billboard Book of Number 1 Hits. Billboard books. ISBN 0-8230-7677-6.
  • Campbell, Michael [2008]. Popular Music in America: And the Beat Goes On. Cengage Learning. ISBN 0-495-50530-7.
  • Creswell, Toby [2006]. 1001 Songs: The Great Songs of All Time and the Artists, Stories and Secrets Behind Them. Thunder's Mouth Press. ISBN 1-56025-915-9.
  • Cross, Mary [2007]. Madonna: A Biography. Greenwood Publishing Group. ISBN 0-313-33811-6.
  • Dean, Maury [2003]. Rock 'n' Roll Gold Rush: A Singles Un-Cyclopedia. Algora Publishing. ISBN 0-87586-207-1.
  • Dirks, Nicholas B.; Eley, Geoff; Ortner, Sherry B. [1994]. Culture/power/history: a reader in contemporary social theory. Princeton University Press. ISBN 0-691-02102-3.
  • Dunn, Leslie C.; Jones, Nancy A. [1996]. Embodied Voices: Representing Female Vocality in Western Culture. Cambridge University Press. ISBN 0-521-58583-X.
  • Epstein, Heidi [2004]. Melting the Venusberg: A Feminist Theology of Music. Continuum International Publishing Group. ISBN 0-8264-1648-9.
  • Fouz-Hernández, Santiago; Jarman-Ivens, Freya [2004]. Madonna's Drowned Worlds. Ashgate Publishing, Ltd. ISBN 0-7546-3372-1.
  • Grant, Robert McQueen; Neupert, Kent E. [2003]. Cases in contemporary strategy analysis. Wiley-Blackwell. ISBN 1-4051-1180-1.
  • Guilbert, Georges-Claude [2002]. Madonna as Postmodern Myth: How One Star's Self-Construction Rewrites Sex, Gender, Hollywood and the American Dream. McFarland. ISBN 0-7864-1408-1.
  • Kent, David [1993]. Australian Chart Book 1970–1992. Australian Chart Book, St Ives, N.S.W. ISBN 0-646-11917-6.
  • Marcus, Judith [1999]. Surviving the Twentieth Century. Transaction Publishers. ISBN 1-56000-352-9.
  • Metz, Allen; Benson, Carol [1999]. The Madonna Companion: Two Decades of Commentary. Music Sales Group. ISBN 0-8256-7194-9.
  • O'Brien, Lucy [2007]. Madonna: Like an Icon. Bantam Press. ISBN 0-593-05547-0.
  • Rooksby, Rikky [2004]. The Complete Guide to the Music of Madonna. Omnibus Press. ISBN 0-7119-9883-3.
  • Rosen, Craig [1996]. The Billboard Book of Number One Albums: The Inside Story Behind Pop Music's Blockbuster Records. Billboard books. ISBN 978-0-8230-7586-7.
  • Shewey, Don; Ganz, Caryn [1997]. Madonna, the Rolling Stone Files: The Ultimate Compendium of Interviews, Articles, Facts, and Opinions from the Files of Rolling Stone. Hyperion Books. ISBN 978-0-7868-8154-3.
  • Taraborrelli, Randy J. [2002]. Madonna: An Intimate Biography. Simon and Schuster. ISBN 978-1-4165-8346-2.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Lời bài hát tại MetroLyrics
  • Cinquemani, Sal [ngày 3 tháng 3 năm 2014]. “Through the Years: Madonna's "Like a Prayer" at 25”. Slant. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.
  • Leland, John [tháng 6 năm 1989]. “Singles: "Like a Prayer"”. Spin. 5 [3]: 106. ISSN 0886-3032. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.

20 bài hát R & B hàng đầu ngay bây giờ là gì?

Danh sách phát R & B 2022 - Các bản hit R & B hàng đầu của ngày hôm nay [danh sách phát bài hát RNB mới]..

Tôi là cô gái đó.

Linh hồn xương đỏ ngôn ngữ cơ thể ..

The Look [feat. Kehlani] Ali Gatie, Kehlani ..

SuperstarUsher..

Nhựa ra khỏi Sofabeyoncé.

Jackie Brownbrent Faiyaz ..

Tôi xứng đáng-Rell ..

Pettychris Brown ..

10 bài hát hàng đầu hiện nay là gì?

HITS 2022 - Bài hát hàng đầu hôm nay..

Tôi tốt [màu xanh] David Guetta & Bebe Rexha.David Guetta & Bebe Rexha.....

Trái và phải [kỳ tích. Jung Kook] Charlie Puth & Jung Kook.....

Rùng mình.Ed Sheeran.Ed Sheeran.....

Bay lên.Dua lipa.Dua lipa.....

Không linh thiêng.Sam Smith & Kim Petras.....

Phương châm.Tiësto & Ava Max.....

Kẻ thua cuộc.Charlie Puth.....

2 Hãy được yêu [tôi đã sẵn sàng] Lizzo ..

Bài hát nào là số 1 trên Billboard 2022?

Tương lai có Drake và Tems, Chờ đợi cho bạn ”Wait for U

Bài hát R & B số 1 2022 là gì?

"Chúng ta có vấn đề gì không?"Do We Have a Problem?"

Stevie Nicks ‘‘ Edge of Seventeen, Lou Reed ‘Đi bộ trên The Wild Side, và Abba‘ Gimme!Gimme!Gimme![Một người đàn ông sau nửa đêm] Tất cả đều có điểm chung?

Tất cả ba bài hát đã nhận được một hợp đồng thuê mới trong nhiều thập kỷ sau khi phát hành đầu tiên, khi chúng được lấy mẫu trong các bài hát hit của các nghệ sĩ khác.Đứa trẻ Destiny, đã biến đoạn riff guitar ‘Edge of Seventeen, thành một R & B Belter [‘ Bootylicy, trong khi một bộ lạc có tên Quest đã làm lại các nhạc cụ Lou Reed, tạo ra đèn LED gọi và trả lời huyền thoại Tôi có thể đá không?Và Madonna đã ôm lấy ABBA, Pure Pop - sử dụng phần mở đầu của ‘Gimme!

Việc sử dụng các mẫu đã ảnh hưởng đến âm nhạc trên toàn phổ-từ pop đến điện tử và hip-hop-với những nhịp điệu và giai điệu mượn này thường trở nên lớn hơn các bài hát mà họ & nbsp;lấy mẫu.Mặc dù vậy, hãy để hy vọng các nghệ sĩ gốc aren điên, mặc dù - bắt chước là hình thức tâng bốc cao nhất.

Ở đây chúng tôi chạy qua âm nhạc sử dụng tốt nhất của các mẫu.

M.I.A.- Máy bay giấy [2008]

Những gì nó lấy mẫu: Cuộc đụng độ - ‘thẳng đến địa ngụcThe Clash – ‘Straight to Hell’

Máy bay giấy của M.I.A. là nhạc sĩ đột phá của người Anh.Được sản xuất và đồng sáng tác với Diplo, nó tập trung vào một bài hát nội suy của bài hát năm 1982 ‘Straight to Hell, mượn giai điệu mở đầu của Hulking và biến nó thành đoạn riff đặc biệt, lặp đi lặp lại mà nghe thấy trong suốt.Bộ đôi này dễ dàng pha trộn sóng mới của mẫu Clash, với hip-hop của M.I.A..

Tất nhiên, bit tốt nhất: Tất nhiên, hiệu ứng âm thanh của súng và máy tính tiền.Nhấp bấm Nhấp vào Kerching!The gunshot and cash register sound effect, of course. Click-click kerching!

Sugar Hill Gang - ‘Rapper từ Delight, [1979]

Những gì nó lấy mẫu: Chic - ‘Thời gian tốtChic – ‘Good Times’

Bộ ba hip-hop người Mỹ Sugar Hill Gang Gang ‘Rapper, Delight, đã nội suy các bassline sải bước từ Chic tựa Disco Banger‘ Good Times.Được phát hành vào năm 1979, đây được cho là bài hát đã đưa hip-hop đến với dòng chính, với ‘rapper Hồi Delight, leo lên các bảng xếp hạng trên toàn thế giới.Sau khi phát hành Chic, Nile Rodgers và Bernard Edwards đã cố gắng kiện hãng thu âm nhóm - Sugar Hill Records - cho bản quyền, nhưng cuối cùng đã giải quyết với một khoản tín dụng sáng tác.

Bit tốt nhất: Dòng mở đầu-Tôi đã nói một hip-hop, hippie the hippie / to the hip, hip hop bạn không dừng lại-là một tiếng tứ đầu vĩ đại nhất của hip-hop. The opening line – “I said a hip-hop, the hippie the hippie / To the hip, hip hop you don’t stop” – is hip-hop’s greatest tongue-twister.

Một bộ lạc tên là Quest - Tôi có thể đá nó không?

Những gì nó lấy mẫu: Lou Reed - ‘Đi bộ trên bên hoang dãLou Reed – ‘Walk On The Wild Side’

Thời gian đố một lần nữa: Điều gì liên kết nhà soạn nhạc cổ điển Sergei Prokofiev, phim truyền hình trẻ em Supered và Lou Reed, ‘Walk On the Wild Side đấm?Nó có một bộ lạc có tên là Quest, Classic Classic, tôi có thể đá nó không?Chủ yếu dựa trên clip Lou Reed, âm thanh, giai điệu thoải mái được cho là nhóm lớn nhất của nhóm hip-hop Mỹ, với đoạn điệp khúc gọi và phản hồi huyền thoại còn lại là biểu tượng 30 năm kể từ khi phát hành.Tất cả điều này thậm chí còn ấn tượng hơn khi bạn nhớ các thành viên ban nhạc chỉ mới 19 tuổi khi bài hát được phát hành!

Bit tốt nhất: Điệp khúc gọi và trả lời.Hãy thử và ngăn bạn trả lời "Tôi có thể đá nó không?"Với một Đấng toàn năng: Có Có Bạn có thể!The call-and-response chorus. Try and stop yourself answering “can I kick it?” with an almighty: “Yes you can!”

Beyoncé - ‘Crazy in Love, [2003]

Những gì nó lấy mẫu: Chi-Lites-Bạn có phải là người phụ nữ của tôi [nói với tôi như vậy]The Chi-Lites – ‘Are You My Woman [Tell Me So]’

Cuộc riff bằng đồng mở đầu của Beyoncé, ‘Crazy in Love, là biểu tượng.Cho dù nó gợi lên những hình ảnh về màn trình diễn Coachella năm 2018 của cô, nơi nó được chơi bởi một ban nhạc diễu hành lớn, hay video âm nhạc nơi Bey sải bước trên con đường bị bỏ hoang khi chồng Jay-Z rap, tiếng kèn mạnh đã trở thành một thứ gì đócho ca sĩ.Nhưng điều mà rất nhiều người không nhận ra là họ đã lấy mẫu từ bài hát Chi-Lites 1970 ‘Bạn là người phụ nữ của tôi [nói với tôi như vậy].Khi cô bắt đầu làm việc với nhà sản xuất Rich Harrison trong giai điệu, Beyoncé ban đầu nghi ngờ về việc sử dụng sự phô trương bằng đồng retro.Rất may, cô ấm lên với nó.

Bit hay nhất: Dàn hợp xướng đồ sộ - Không có gì hợp nhất một điệu nhảy đám cưới hơn là hát Beyonce: The massive chorus – nothing unites a wedding dancefloor more than Beyonce singing: “Your love’s cot me looking so crazy right now”

The Notorious B.I.G.- ‘Mo Money Mo vấn đề về vấn đề [1997]

Lấy từ: Diana Ross - ’Tôi sắp ra mắt Diana Ross – ‘I’m Coming Out’

Diana Ross, háo hức ‘Tôi đã ra mắt là năm phút của vũ trường.Được viết bởi các thành viên Chic Bernard Edwards và Nile Rodgers, đó là một thành công lớn cho ca sĩ.17 năm sau, nó cũng trở thành người chiến thắng cho Biggie, người đã chia lưới một mẫu ’Tôi đã ra mắt với Hip-Hop East Coast đặc biệt của anh ấy cho‘ Mo Money Mo vấn đề.Được phát hành sau đó, nó tăng vọt lên đỉnh của Billboard 100 [trong quá trình khiến anh trở thành nghệ sĩ duy nhất có hai đĩa đơn số một sau đó trên bảng xếp hạng] và được đề cử giải Grammy [cho màn trình diễn rap tốt nhất của một bộ đôi hoặc nhóm].Kết hợp The Jubilant Hook với sản xuất lái xe và giọng hát bóng bẩy, đó là một sự tái làm tuyệt vời cho giai điệu cổ điển của Ross.

Bit hay nhất: Câu hỏi mở đầu của câu thơ B.I.G.The opening couplet of B.I.G.’s verse, where he introduces himself and declares he’d never snitch in a brilliantly succinct way: “B-I-G P-O-P-P-A / No info for the DEA”

N.W.A.- Thể hiện bản thân [1988]

Lấy từ: Charles Wright & The Watts 103 Street Rhythm Band - ‘Thể hiện bản thân Charles Wright & the Watts 103rd Street Rhythm Band – ‘Express Yourself’

Được lấy từ album đầu tay của nhóm ‘Straight Outta Compton,‘ Thể hiện bản thân bạn thấy Tiến sĩ Dre.Rap qua mẫu của ban nhạc Funk và Soul của Mỹ Charles Wright & The Watts 103 Street Rhythm Band Song cùng tên.Anh ta than thở về những hạn chế và kiểm duyệt đặt ra các rapper, chế giễu các nghệ sĩ khác vì tránh chửi thề chỉ để lên đài phát thanh.Trớ trêu thay, sự thiếu thô tục trên ‘Thể hiện bản thân và cái móc hấp dẫn của nó có nghĩa là nó là một bài hát lý tưởng được phát trên sóng.

Bit tốt nhất: Trường hợp nhịp bị cắt ra khi Dre, rap rap ngay cả khi yella, làm cho nó trở thành một cappella / Tôi vẫn thể hiện Where the beat cuts out as Dre’s rapping “Even if Yella, makes it a cappella / I still express…”

Kanye West - ‘Máu trên lá [2013]

Lấy từ: Nina Simone, phiên bản năm 1965 của Billie Holiday từ ‘Frange Fruit, Nina Simone’s 1965 version of Billie Holiday’s ‘Strange Fruit’

Hãy tưởng tượng bài hát của bạn rất hay đến nỗi David Lynch muốn chỉ đạo một video âm nhạc cho nó.Đó là trường hợp với việc lấy mẫu Simone của Kanye ‘Máu trên lá.Sáu phút phồng rộp thấy Kanye rap về cách nổi tiếng có thể gây ra các mối quan hệ độc hại đối với việc sản xuất băng giá đi từ kỳ lạ, rút lại những lời giới thiệu về cao trào rung chuyển trái đất, nặng nề.Với chủ đề bài hát ban đầu - đó là một cuộc biểu tình sống động chống lại sự phân biệt chủng tộc và sự lỏng lẻo của người Mỹ da đen - & nbsp; việc sử dụng mẫu rất gây tranh cãi.Nhưng sau đó Kanye West không xa lạ gì với tranh cãi.

Bit tốt nhất: Khoảng một phút sau, trong đó bassline hulking đầu tiên dậm chân như một Kanye được điều chỉnh tự động nói: Vì vậy, hãy để Lôi tiếp tục với nó. About a minute in, where the hulking bassline first stomps in as an auto-tuned Kanye says: “So let’s get on with it”.

Hộp đen - ‘Đi xe về thời gian [1989]

Lấy từ: Loleatta Holloway - cảm giác tình yêu Loleatta Holloway – ‘Love Sensation’

Các nhà sản xuất đầy tham vọng - Nếu bạn lấy một thứ ra khỏi Black Box, cuối thập niên 80, việc bơm Eurodance ‘Đi xe về thời gian, đó là: Xóa các mẫu của bạn.Phiên bản gốc của bài hát đã sử dụng một mẫu không rõ ràng của Loleatta Holloway, ‘Tình yêu cảm giác, và sau khi các chủ sở hữu bài hát bắt đầu hành động pháp lý, ban nhạc đã hoảng loạn và phải ghi lại nó với một giọng ca phiên.May mắn thay, ca sĩ thay thế là một ngôi sao chờ đợi-vì giọng hát mới được cung cấp bởi một người Heather nhỏ của M, người đã nhảy lên đường đua như một ân huệ.

Bit hay nhất: Giọng hát hoang dã, gầm gừ tuyên bố, & nbsp; Bạn có thể là một cám dỗ nóng bỏng như vậy trong bản dựng lên hợp xướng. The wild, growling vocals that declare, “you’re such a Hot temptation” in the build up to the chorus.

Madonna - ‘treo lên [2005]

Lấy từ: Abba - Gimme!Gimme!Gimme![Một người đàn ông sau nửa đêm]' ABBA – ‘Gimme! Gimme! Gimme! [A Man After Midnight]’

Album thứ 10 của Madonna, ‘Confessions on a Dance Flound, đã xem vở nhạc kịch Chameleon Go Disco - đĩa đơn nổi bật‘ treo lên đã trở thành một trong những bài hát khiêu vũ lớn nhất của thập kỷ.Mượn phần giới thiệu công cụ từ ABBA, ‘Gimme!Gimme!Gimme!.Rất may, họ nói có.

Bit hay nhất: Sự pha trộn gọn gàng của các nhạc cụ mang tính biểu tượng của ABBA với nhịp đập hợp thời trang - đưa chúng ta đến một sàn nhảy càng sớm càng tốt!THe neat blend of ABBA’s iconic instrumentals with trendy house beats – get us to a dancefloor ASAP!

Beastie Boys - ‘Rhymin & Stealin xông [1986]

Lấy từ: Led Zeppelin - ‘Khi đê phá vỡ;Sabbath đen - Lá ngọt ngào;Cuộc đụng độ - Tôi đã chiến đấu với luật phápLed Zeppelin – ‘When the Levee Breaks’; Black Sabbath – ‘Sweet Leaf’; The Clash ­­– ‘I Fought the Law’

Có rất nhiều bài hát của Beastie Boys có thể được đưa vào đây, nhưng có một điều gì đó đặc biệt về ca khúc mở đầu trong lần ra mắt của họ ‘được cấp phép cho Ill.Sự sáng tạo tuyệt đối được thể hiện bởi nhóm New York trong suốt sự nghiệp của họ được tóm tắt trên 'Rhymin & Stealin', nơi họ kết hợp các dòng trống mang tính biểu tượng của John Bonham từ 'khi đê phá vỡ' với kim loại nặng núi lửa của Sabbath Black và thương hiệu riêng của họ về Hip-nhảy lò cò.

Bit Best: Khi Black Sabbath, Tony Tony Iommi, guitar solo từ ‘Sweet Leaf, lần đầu tiên chơi trống trong phần giới thiệu bài hát. when Black Sabbath’s Tony Iommi’s guitar solo from ‘Sweet Leaf’ first plays over the thudding drums in the song’s introduction.

Jay-Z và Kanye West-‘Otis xông [2011]

Lấy từ: Otis Redding - ‘Hãy thử một chút dịu dàng Otis Redding – ‘Try A Little Tenderness’

Quay trở lại khi Jay-Z và Kanye vẫn là bạn tốt nhất, họ đã đưa ra album hợp tác xuất sắc của họ ‘Xem The Throne hồi.Với đầy đủ những vị khách cao cấp, nó đã giành được bốn giải Grammy và sinh ra vô số đĩa đơn do đài phát thanh, bao gồm ‘Otis.Lấy mẫu phiên bản Otis Redding của Soul Soul ‘Hãy thử một chút dịu dàng, hai rapper huyền thoại trao đổi các quán bar trên cái móc đặc biệt.Nó là một trong những sự hợp tác tốt nhất của họ.Chúng tôi chỉ có thể hy vọng hai người họ sẽ tạo nên và phát hành ‘Xem Throne II, trong quá trình khóa.

Bit hay nhất: Việc mở câu thơ Jay-Z, nơi anh ấy tư thế: Hồi Uh, tôi đã phát minh ra các chai swag / poppin, Puttin, siêu mẫu trong cab cab.chúng ta không cùng ý kiến ​​với ai? The opening of Jay-Z’s verse where he postures: “Uh, I invented swag / Poppin’ bottles, puttin’ supermodels in the cab”. Who are we to disagree?

Destiny từ Child - ‘Bootylicy [2001]

Lấy từ: Stevie Nicks - ‘Edge of Seventeen Stevie Nicks – ‘Edge of Seventeen’

Trong khi chúng tôi sử dụng những người dân thường dành những chuyến bay dài, xem phim truyền hình mà chúng tôi đã thấy và vô tình ngủ với đầu của chúng tôi trên vai người lạ, Beyoncé sử dụng thời gian của mình trên bầu trời để viết những bài hát pop.Đó là trên một chuyến bay đường dài, Beyoncé bị cáo buộc đã có những ý tưởng đầu tiên cho nhóm cô gái của cô Destiny, Child Child Funk Fueled hit ‘Bootylicy.Nghe bài hát của Stevie Nicks, ‘Edge of Seventeen, giọng ca chính nghĩ về nó.Cũng như leo lên các bảng xếp hạng trên khắp thế giới, nó cũng phổ biến từ tiếng lóng của Bootylicy, nó đã được thêm vào từ điển tiếng Anh Oxford.

Bit tốt nhất: Kelly Kelly, bạn có thể xử lý việc này không?/ Michelle, bạn có thể xử lý việc này không?/ Beyoncé, bạn có thể xử lý việc này không?Cần chúng ta nói nhiều hơn? “Kelly, can you handle this? / Michelle, can you handle this? / Beyoncé, can you handle this?”. need we say more?

Daft Punk - ‘Harder, tốt hơn, nhanh hơn, mạnh hơn [2007]

Lấy từ: Edwin Birdsong - ‘Cola Chai Baby Edwin Birdsong – ‘Cola Bottle Baby’

Daft Punk đã lấy mẫu của nhạc sĩ Funk quá cố Edwin Birdsong, ‘Cola Chai Baby, trên một lát nhà điện tử của họ‘ Khó hơn, tốt hơn, nhanh hơn, mạnh mẽ hơn.Birdsong, người đã chết một cách buồn bã năm ngoái, đã giải thích vào năm 2017: Tôi đã ghi lại nó 30 năm trước và ở đây có một số người đến từ Pháp, tôi đã hỏi họ, 'Bạn tìm thấy âm nhạc ở đâu?' Và họ nói, 'Tôi đã trải qua các thùng rácVà nó xuất hiện.

Bit hay nhất: Giọng hát robot - tiếp tục, thừa nhận nó: Bạn đã cố gắng bắt chước chúng. the robotic vocals – go on, admit it: you’ve tried to imitate them.

Eminem - ‘Stan xông [2000]

Lấy từ: Dido - ‘Cảm ơn bạn Dido – ‘Thank You’

Ai đã nghĩ rằng Dido, Downtempo Folktronica và Eminem, rap khiêu khích sẽ là một trận đấu được thực hiện trên thiên đàng?Các nghệ sĩ đối diện Polar đã hợp tác cho bản phát hành EM, 2000 Stan Stan, đây có thể chỉ là một trong những bài hát hip-hop tuyệt vời nhất mọi thời đại.Với đoạn điệp khúc được rút ra từ một mẫu từ giai điệu 'cảm ơn' của Dido, những câu thơ nhìn thấy Eminem vẽ câu chuyện về đường ruột của Stanley, Stan Stan Mitchell, một người hâm mộ ám ảnh viết cho Eminem và dần dần trở nên ám ảnh và không ổn định khi The The The The The The The TheRapper không trả lời.Bài hát đã có một tác động đến mức tiêu đề của nó giờ đã trở thành một từ tiếng lóng cho một người mà một người hâm mộ ám ảnh của một thứ gì đó.

Bit hay nhất: Kể chuyện mạnh mẽ của Eminem, - nó có thể chỉ là tác phẩm hay nhất của rapper. Eminem’s powerful storytelling – it might just be the rapper’s best work.

The Chemical Brothers - ‘Block Rockin xông Beats [1997]

Lấy từ: Bernard Purdie - ‘Thay đổi;Trường học D - ‘Gucci một lần nữa;Thập tự quân - Well Well Well đã khô ráoBernard Purdie – ‘Changes’; Schoolly D – ‘Gucci Again’; The Crusaders – ‘The Well’s Gone Dry’

‘Block Rockin, Beats Beats sử dụng một tấn mẫu, nhưng đặc biệt nhất là trống phi nước đại của Bernard Purdie, sự lặp lại của Back Back với một trong những block Rockin.Với các mẫu này, anh em hóa học đã tạo ra một sự khàn khàn, giải nén thể loại năm phút của sự điên rồ điện tử.

Bit Best: The Wild Bassline - & NBSP; Nó vẫn là một trong những người đặc biệt nhất trong nhạc khiêu vũ của Anh. The wild bassline – it’s remained one of the most distinctive in British dance music.

Fatboy Slim - ‘Khen ngợi bạn [1999]

Lấy từ: Camille Yarbrough - ‘Hãy khen ngợi Camille Yarbrough – ‘Take Yo’ Praise’

Cái móc mang tính biểu tượng của chúng tôi đã đi một chặng đường dài, với nhau / qua thời kỳ khó khăn và điều tốt / tôi phải ăn mừng bạn, em yêu / Tôi phải khen ngợi bạn như tôi nên làm bây giờ đồng nghĩa với những khoảnh khắc hưng phấn trong đêm câu lạc bộhoặc lễ hội.Nó ban đầu là một mẫu được lấy từ khi bắt đầu ca sĩ người Mỹ Camille Yarbrough, ‘Hãy khen ngợi.Tuy nhiên, đây không phải là mẫu duy nhất trên đường đua, vì 'khen ngợi bạn' cũng sử dụng mẫu piano từ 'Balance & Corestsal' của Hoyt Axton và James B. Lansing Sound Inc.Thế giới nhỏ ' - mặc dù nó là một bài hát rất khác đã mở với Hook từ bài hát Disney

Bit hay nhất: Cách bài hát dần dần tích tụ trước khi nhịp đập trong khoảng một phút.The way the song gradually builds up before the beats kick in about a minute in.

Kendrick Lamar - Bitch don lồng giết tôi Vibe, [2012]

Lấy từ: Boom vỗ tay Cử nhân - ‘Tiden Flyver, Boom Clap Bachelors – ‘Tiden Flyver’

Được lấy từ lần ra mắt nhãn hiệu lớn của Lamar, ‘Bitch, don lồng giết tôi Vibe, một bài hát của nhóm điện tử Đan Mạch Boom Clap cử nhân, với các nhạc cụ thanh tao của họ xuất hiện trong toàn bộ bài hát.Thật thú vị, ban đầu nó có nghĩa là hợp tác với Lady Gaga, nhưng những đóng góp của cô sau đó đã bị cắt khỏi phiên bản cuối cùng do các vấn đề về thời gian.

Bit hay nhất: Giọng hát mạnh mẽ của Lamar. Lamar’s quietly powerful vocals.

Rihanna - ‘Công việc [2016]

Lấy từ: Alexander O hèNeal - ‘Nếu bạn ở đây tối nay, Alexander O’Neal – ‘If You Were Here Tonight’

Nhịp điệu đặc biệt từ Rihanna, ‘tác phẩm có thể nhận ra từ vài giây đầu tiên của bài hát, nhưng thực sự được làm việc xung quanh một mẫu.Nhà sản xuất của 'Work' Boi-1da muốn sử dụng nhịp điệu nhảy trong bài hát, vì vậy đã lấy mẫu năm 1998 'Sail Away' của Richie Stephens và Mikey 2000, mà chính nó đã nội suy bài hát Soul thập niên 80 'Nếu bạn ở đây tối nay' của Alexander O của Alexander O của Alexander O của Alexander'Neal.

Bit hay nhất: Điệp khúc đập mạnh - nó hấp dẫn hơn là phát ban, chỉ ít đau đớn hơn nhiều. the banging chorus – it’s catchier than a rash, only much less painful.

Stardust - Âm nhạc nghe hay hơn bạn [1998]

Lấy từ: Chaka Khan - ‘Số phận Chaka Khan – ‘Fate’

Chưa bao giờ nghe nói về nhóm nhà Pháp Stardust?Chà, bạn có thể không biết tên của họ nhưng bạn chắc chắn sẽ nhận ra bộ phụ năm 1998 của họ ‘Âm nhạc nghe hay hơn với bạn.Lấy mẫu Chaka Khan, quốc ca khiêu vũ vẫn là một mặt hàng chủ lực trong các bộ DJ kể từ lần đầu tiên nó bị loại bỏ, nhưng đó là bài hát duy nhất mà Stardust từng phát hành.Mặc dù bán được hơn hai triệu bản trên toàn thế giới, nhận được sự hoan nghênh quan trọng và biểu đồ ở các quốc gia trên toàn cầu, họ không bao giờ bỏ qua.Nhưng chúng tôi đoán nếu bạn phát hành một bài hát hay, bạn không thực sự cần.

Bit hay nhất: The Jangling Synths - chúng về cơ bản là hình ảnh thu nhỏ của nhạc khiêu vũ thập niên 90. The jangling synths – they’re basically the epitome of ‘90s dance music.

2PAC có sự tham gia của Tiến sĩ Dre và Roger Troutman - ‘California Love, [1996]

Lấy từ: Joe Cocker - ‘Người phụ nữ đến phụ nữ Joe Cocker – ‘Woman to Woman’

Sau khi 2PAC được ra tù vào năm 1995, anh ta đã phát hành ‘California Love, như là đĩa đơn trở lại của mình.Được sản xuất bởi Tiến sĩ Dre [người cũng cung cấp giọng hát của khách mời], nó đã lấy mẫu các nhạc cụ từ Joe Cocker, funk funked ‘Woman to Woman, hợp nhất với họ bằng cách nảy G-funk và hip-hop mạnh mẽ.Bài hát ướt đẫm mặt trời về cơ bản là nhạc nền hoàn hảo để lái xe xung quanh LA trong một chiếc mui trần đẹp mắt, từ trên xuống-nhưng may mắn thay, nó nghe có vẻ hay trong Fiat 500 của bạn.

Bit Best: Khai trương khi Roger Troutman hát robot, tiếng California California biết cách tiệc tùng.Nhận xuống! The opening when Roger Troutman robotically sings ,“California knows how to party”. Get down!

Nhịp Hip Hop được lấy mẫu nhiều nhất là gì?

Hãy bắt đầu với mẫu hip hop nổi tiếng nhất mọi thời đại.....
Ban đầu, Amen Break có nhịp độ lạc quan, nhưng có lẽ bạn đã nghe thấy nó chậm lại ..

Mẫu được sử dụng nhiều nhất trong hip hop là gì?

Theo Whosampled.com, các nghệ sĩ có ảnh hưởng nhất trong hip hop là:..
James Brown "" lấy mẫu 7.451 lần ..
Kẻ thù công cộng "" Đã lấy mẫu 2.912 lần ..
Bên cạnh "" lấy mẫu 2.329 lần ..
Run-DMC "" Đã lấy mẫu 2.046 lần ..
The Notorious B.I.G "" Đã lấy mẫu 1,718 lần ..
Kool & The Gang "" Đã lấy mẫu 1,564 lần ..
Jay Z "" Đã lấy mẫu 1,484 lần ..

Các gói mẫu tốt nhất cho hip hop là gì?

Top 100 gói mẫu hip-hop trên splice..
Âm thanh của Kshmr Vol.từ mối nối ..
Oliver: Gói mẫu công cụ điện.....
Oliver: Power Tools Gói mẫu III.....
Gói mẫu "Tôi đã phát minh ra Bẫy" của Southside Vol 1. ...
Boi-1da Soundkit: Âm thanh trần cho đầu của bạn.....
Beats phòng ngủ & lofi hip-hop.....
Decap - trống mà gõ vol.....
Bộ trống Travis Barker ..

Ai là rapper được lấy mẫu nhiều nhất?

1 James Brown đã lấy mẫu 8538 lần ..
2 Winstons đã lấy mẫu 5993 lần ..
3 Lyn Collins đã lấy mẫu 3576 lần ..
4 Kẻ thù công cộng đã lấy mẫu 3309 lần ..
5 Bên cạnh đã lấy mẫu 2623 lần ..
6 Run-DMC đã lấy mẫu 2372 lần ..
7 Dân gian truyền thống được lấy mẫu 2138 lần ..
8 The Notorious B.I.G.Đã lấy mẫu 2091 lần ..

Chủ Đề