5 người đóng góp hàng đầu cho sự nóng lên toàn cầu năm 2022

Khi trái đất nóng dần lên

19/09/2016 22:04:00 Xem cỡ chữ: A+ A-

5 người đóng góp hàng đầu cho sự nóng lên toàn cầu năm 2022
5 người đóng góp hàng đầu cho sự nóng lên toàn cầu năm 2022
5 người đóng góp hàng đầu cho sự nóng lên toàn cầu năm 2022
5 người đóng góp hàng đầu cho sự nóng lên toàn cầu năm 2022

Theo báo cáo của Ủy ban Liên chính phủ của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (IPCC)về các hiện tượng thời tiết cực đoan nhấn mạnh sự nóng lên toàn cầu rất có thể làm tăng số ngày và đêm lạnh đồng thời cũng làm giảm số ngày và đêm ấm trên toàn cầu. Nhiều bộ phận dân cư thế giới đang phải sống bên bờ vực của các thảm họa vì các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng tăng về tần số và cường độ ở nhiều khu vực trên toàn cầu. Chỉ cần sự tăng nhỏ về tần số hoặc cường độ các hiện tượng này vượt ngưỡng hoặc vượt điểm giới hạn của cơ sở hạ tầng cũng có thể gây thiệt hại vô cùng nghiêm trọng cho hệ thống cơ sở hạ tầng hiện hành.

Khi trái đất nóng dần lên

Ấm lên toàn cầu hay hâm nóng toàn cầu là hiện tượng nhiệt độ trung bình của không khí và các đại dương trên Trái Đất tăng lên theo các quan sát trong các thập kỷ gần đây. Trong thế kỉ 20, nhiệt độ trung bình của không khí gần mặt đất đã tăng 0,6 ± 0,2 °C (1,1 ± 0,4 °F). Theo báo cáo của Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA), nhiệt độ trung bình của Trái đất ở cuối thế kỉ 19 đã tăng +0,8 °C và thế kỉ 20 tăng 0,6 ± 0,2 °C. Các dự án mô hình khí hậu của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) chỉ ra rằng nhiệt độ bề mặt Trái Đất sẽ có thể tăng 1,1 đến 6,4 °C trong suốt thế kỷ 21. Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) nghiên cứu sự gia tăng nồng độ khí nhà kính sinh ra từ các hoạt động của con người như đốt nhiên liệu hóa thạch và phá rừng làm cho nhiệt độ Trái Đất tăng lên kể từ giữa thế kỷ 20. IPCC cũng nghiên cứu sự biến đổi các hiện tượng tự nhiên như bức xạ mặt trời và núi lửa gây ra phần lớn hiện tượng ấm lên từ giai đoạn tiền công nghiệp đến năm 1950 và có sự ảnh hưởng lạnh đi sau đó. Các kết luận cơ bản đã được chứng thực bởi hơn 45 tổ chức khoa học và viện hàn lâm khoa học, bao gồm tất cả các viện hàn lâm của các nước công nghiệp hàng đầu.

5 người đóng góp hàng đầu cho sự nóng lên toàn cầu năm 2022

Hiện tượng ấm lên được dự đoán sẽ diễn ra mạnh nhất ở Bắc Cực.

Các dự án thiết lập mô hình khí hậu được tóm tắt trong báo cáo gần đây nhất của IPCC chỉ ra rằng nhiệt độ bề mặt Trái Đất sẽ có thể tăng 1,1 đến 6,4 °C (2,0 đến 11,5 °F) trong suốt thế kỷ 21.  Các yếu tố không chắc chắn trong tính toán này tăng lên khi khi các mô hình sử dụng nồng độ các khí nhà kính có độ chính xác khác nhau và sử dụng các thông số ước tính khác nhau về lượng phát thải khí nhà kính tương lai. Các yếu tố không chắc chắn khác bao gồm sự ấm dần lên và các biến đổi liên quan sẽ khác nhau giữa các khu vực trên toàn thế giới. Hầu hết các nghiên cứu tập trung trong giai đoạn đến năm 2100. Tuy nhiên, sự ấm dần lên sẽ tiếp tục diễn ra sau năm 2100 cả trong trường hợp ngừng phát thải khí nhà kính, đều này là do nhiệt dung riêng của đại dương lớn và carbon dioxide tồn tại lâu trong khí quyển. 
Nhiệt độ toàn cầu tăng sẽ làm mực nước biển dâng lên và làm biến đổi lượng giáng thủy, có thể bao gồm cả sự mở rộng của các sa mạc vùng cận nhiệt đới. Hiện tượng ấm lên được dự đoán sẽ diễn ra mạnh nhất ở Bắc Cực.

Các rủi ro không chỉ kéo dài trong vài thập kỷ tới mà còn nhiều năm nữa. Như vậy, thế hệ tương lai sẽ hứng chịu hậu quả nghiêm trọng nhất từ biến đổi khí hậu. Trong vòng 25 tới 30 năm tới, các nhà khoa học nói khí hậu vẫn duy trì như hiện nay, dù trái đất dần nóng lên.

Lượng mưa sẽ lớn hơn ở nhiều nơi trên thế giới, nhưng trong các giai đoạn chuyển tiếp, khí hậu sẽ nóng và khô hơn. Số lượng các cơn bão và siêu bão có thể giảm, nhưng chúng sẽ hút năng lượng từ bề mặt đại dương – nơi có nền nhiệt nóng hơn. Do đó, cường độ các cơn bão sẽ mạnh hơn so với quá khứ. Lũ lụt ở các vùng ven biển sẽ diễn ra thường xuyên hơn và gây thiệt hại.

Về lâu dài, nếu lượng khí thải tiếp tục tăng và không được kiểm soát, các rủi ro sẽ càng nghiêm trọng. Giới khoa học lo ngại, tác động từ khí hậu sẽ trở thành nhân tố gây bất ổn ở các nước, tạo ra làn sóng người tị nạn hay cuộc đại tuyệt chủng lần thứ 6 của thực vật và động vật, làm tan băng ở hai cực khiến mực nước biển tăng cao đủ để khiến các thành phố ven biển chìm trong nước.

Tất cả những mối nguy này có thể xảy ra trong hàng trăm thậm chí hàng nghìn năm nữa. Điều đó có nghĩa chúng ta đang có thêm thời gian điều chỉnh tình hình. Tuy nhiên, các chuyên gia không thể loại trừ những thay đổi bất ngờ như sự sụp đổ của ngành nông nghiệp – khiến xã hội rơi vào tình trạng hỗn loạn sớm hơn.

Các nỗ lực mạnh mẽ của con người nhằm giảm lượng khí thải có thể giảm các rủi ro này hay ít nhất làm chậm hiệu ứng. Tuy nhiên, đã quá muộn để chúng ta loại bỏ hoàn toàn mọi rủi ro, theo New York Times.

Phải làm gì để hạn chế khi trái đất đang nóng lên

5 người đóng góp hàng đầu cho sự nóng lên toàn cầu năm 2022

Tình trạng ấm lên toàn cầu dường như là nguyên nhân gây nên tình trạng hỗn loạn ở nhiều khu vực.

Chúng ta có nhiều cách đơn giản để giảm lượng khí thải carbon (nguyên nhân chính làm gia tăng hiệu ứng nhà kính) và phần lớn các cách đó đều giúp bạn tiết kiệm tiền. Bạn có thể tạo một lỗ thông trên mái nhà để tiết kiệm điện, cài đặt một thiết bị nhiệt thông minh, dùng các loại bóng đèn có công suất thấp, tắt đèn khi không sử dụng, di chuyển bằng các phương tiện công cộng thay vì xe hơi, giảm chất thải từ thực phẩm và ăn ít thịt.

Có lẽ việc lớn nhất mà mỗi cá nhân có thể làm là hạn chế di chuyển bay. Chỉ cần một hoặc hai chuyến bay được cắt giảm mỗi năm có thể giảm lượng khí thải so với tất cả các phương tiện khác cộng lại. Ngoài ra, bạn cũng có thể tham gia các dự án bảo vệ rừng hay giảm phát thải khí nhà kính…

Các công nghệ phát thải thấp, như xe điện đang được cải tiến để đưa vào sử dụng phổ biến. Các tập đoàn hàng đầu thế giới đưa ra những lời hứa táo bạo để dần chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo và ngăn chặn nạn phá rừng. Trên thế giới, nhiều khu vực và thành phố cam kết thực hiện vượt mức các mục tiêu do chính phủ đặt ra.

Các nhà khoa học cho rằng một số kịch bản tốt nhất mà họ có thể tưởng tượng được là: trái đất ít nhạy cảm với khí nhà kính; thực vật và động vật có thể thích ứng với các thay đổi không không thể tránh khỏi; con người có thể kiểm soát lượng phát thải trong tầm kiểm soát; những đột phá lớn về công nghệ có thể giúp con người hạn chế lượng phát thải và thích nghi với biến đổi khí hậu.

Tuy nhiên, thật không may, các nhà khoa học cho rằng khả năng các kịch bản này xảy ra là không cao. Trái đất sẽ dễ chịu tác động của khí nhà kính. Tình trạng ấm lên toàn cầu dường như là nguyên nhân gây nên tình trạng hỗn loạn ở nhiều khu vực.

Theo quan điểm của các chuyên gia, trông cậy vào một kịch bản lạc quan mà không có kế hoạch thực tế là điều nguy hiểm. Cách duy nhất để hạn chế rủi ro là giảm lượng phát thải.

Khi nhiều công ty, chính phủ và các nhà nghiên cứu đang tập trung tìm hiểu về vấn đề biến đổi khí hậu, các tiến bộ công nghệ đang dần được cải thiện. Tuy nhiên, ngay cả những chuyên gia lạc quan về các giải pháp công nghệ cũng cảnh báo những nỗ lực hiện nay của thế giới là chưa đủ. Chi tiêu cho nghiên cứu nông nghiệp đang bị gián đoạn, dù tình trạng biến đổi khí hậu khiến những rủi ro về lương thực ngày càng tăng. Trong khi đó, cựu chủ tịch tập đoàn Microsoft Bill Gates nói rằng, kỳ vọng về điều kỳ diệu trong công nghệ không phải là phương thức chiến lược để giải quyết biến đổi khí hậu.

Mực nước biển sẽ tăng tới mức nào?
Mực nước ở đại dương đang tăng khoảng 0,3 m mỗi thập kỷ. Điều này gây tác động nghiêm trọng tới các đường bờ biển, buộc các nước và nhiều tổ chức chi hàng chục tỷ USD để chống xói mòn. Tuy nhiên, khi tỷ lệ này tiếp tục tăng, nó sẽ khiến tình hình khó kiểm soát, theo nhận định của các chuyên gia.

Nếu sự phát thải vẫn không được kiểm soát, nhiệt độ bề mặt trái đất có thể sớm giống như kỷ nguyên Pliocen, khi băng tan và mực nước ở đại dương sẽ tăng cao hơn so với mức hiện nay khoảng 24 m.

Một nghiên cứu gần đây cho thấy việc đốt cháy tất cả nhiên liệu hóa thạch trong lòng đất sẽ khiến băng ở Bắc Cực tan hoàn toàn và đẩy nước biển đạt gần 49 m vào một thời điểm không xác định. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng ở đây không phải là mực nước đại dương sẽ tăng bao nhiêu mà nó tốc độ của nó sẽ như thế nào.

Thông tin từ các nghiên cứu về lịch sử trái đất cho thấy, mực nước ở đại dương có thể tăng khoảng 0,3 m mỗi thập kỷ. Đây được coi là trường hợp xấu nhất. Ngay cả khi tỷ lệ chỉ là một nửa cũng khiến xã hội loài người rơi vào khủng hoảng. Thậm chí khi mức độ tăng chậm hơn, nhiều thành phố trên thế giới vẫn sẽ bị lũ cuốn trôi.

Nghiên cứu cho thấy việc cắt giảm số lượng lớn khí thải có thể làm chậm tiến trình này. Con người sẽ có thời gian thích ứng với đường bờ biển bị thay đổi.

Vai trò của công tác dự báo

Trái đất nhạy cảm với khí nhà kính là kết luận được đưa ra với nhiều bằng chứng khoa học. Ví dụ, theo vật lý cơ bản, sự gia tăng khối lượng đá carbon dioxide (CO2) sản sinh nhiều nhiệt. Điều này được phát hiện vào thế kỷ 19. Ngay cả khi máy tính không đưa ra dự báo, rất nhiều bằng chứng cho thấy các nhà khoa học có thể lý giải về vấn đề này.

Theo các nghiên cứu khí hậu, lượng CO2 trong không khí dao động tự nhiên và mỗi khi lượng khí này tăng lên, trái đất cũng nóng dần, băng tan chảy và mực nước ở các đại dương cũng tăng cao. Trong khi đó, máy tính chỉ có thể đưa ra các dự đoán về khí hậu trong tương lai, nhưng không thể chính xác tuyệt đối.

Thời tiết cực đoan liên quan tới biến đổi khí hậu?

Giới khoa học đã công bố bằng chứng cho thấy khí hậu ấm lên đang tạo ra các sóng nhiệt thường xuyên và dữ dội hơn. Nó cũng khiến các cơn bão nghiêm trọng hơn, lũ lụt tại các vùng ven biển đang ngày càng tồi tệ khi mức nước ở các đại dương tăng cao do lượng khí phát thải của con người. Tình trạng nóng lên của toàn cầu khiến hạn hán tại Trung Đông và California (Mỹ) nghiêm trọng hơn.

Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khác, mối liên hệ giữa tình trạng ấm lên của trái đất và các hiện tượng tự nhiên là không chắc chắn hoặc gây tranh cãi. Điều này một phần do thiếu các dữ liệu lịch sử.

Một yếu tố khác là nhận thức của con người về biến đổi khí hậu đang thay đổi nhanh chóng nhờ Internet. Công cụ này giúp chúng ta ý thức hơn về các thảm họa thời tiết ở những khu vực xa xôi. Trên các phương tiện truyền thông xã hội, mọi người thường cho rằng, mọi thảm họa tự nhiên đều liên quan tới biến đổi khí hậu. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, chúng ta không có bằng chứng khoa học để chứng minh.

Giới khoa học từng cảnh báo từ những năm 1980 rằng các chính sách nghiêm ngặt về môi trường là cần thiết nhằm hạn chế lượng phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, cảnh báo này không được lưu tâm và lượng khí nhà kính trong khí quyển đã lớn tới mức "nguy hiểm tiềm tàng".

Đây là vấn đề nhân loại đã nhận thấy và tìm hướng giải quyết cách đây vài chục năm. Nhưng đến nay những biện pháp mà nhân loại đưa ra để giải quyết vấn đề nói trên vẫn chưa đem lại kết quả, mặc dầu có hẳn một nghị định thư được thông qua với sự tham gia của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có những nước đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho khí hậu toàn cầu nóng lên. Một khi mà các nước lớn do những quyền lợi về kinh tế của mình mà không thực hiện theo đúng những gì mà Nghị định thư Kyoto đã đề ra là cắt giảm phần lớn lượng khí gây hiệu ứng nhà kính, thì các nước đang phát triển- những nước đang và sẽ đóng góp vào quá trình làm nóng lên của khí hậu toàn cầu vì những yêu cầu phát triển cũng như phải đuổi kịp sự phát triển chung thế giới (phát triển ở đây gần như là phát triển không bền vững) mà gần như phớt lờ đi những gì mà nhân loại cho rằng vấn đề cấp bách. Như vậy, nếu ngay từ bây giờ con người không có những giải pháp và nhưng kế hoạch mang tính thực tế và nghiêm khắc hơn thì vấn đề được nêu ra ở trên khó mà giải quyết được.

Các bài khác

  • Tác động của biến đổi khí hậu đối với nghành nông nghiệp (19/09/2016)
  • Hội nghị cấp cao ASEM về Quản lý và Giảm nhẹ rủi ro thiên tai: Sáng tạo công nghệ vì phát triển bền vững tự cường (17/09/2016)
  • Tuyên Quang nỗ lực thực hiện Chiến lược quốc gia phòng chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020. (13/09/2016)
  • Quy chế xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển (13/09/2016)
  • Tuyên Quang chủ động phòng chống thiên tai (13/09/2016)
  • Khó dự báo chính xác lũ quét, sạt lở đất (13/09/2016)
  • Xuất hiện siêu bão Meranti giật trên cấp 17 (13/09/2016)
  • Áp thấp nhiệt đới khả năng mạnh lên thành bão mạnh cấp 8 (12/09/2016)
  • Miễn giảm học phí cho học sinh ở địa phương bị thiên tai (08/09/2016)
  • Tìm hiểu về động đất (06/09/2016)

Xem thêm »

Trách nhiệm lịch sử đối với biến đổi khí hậu là trung tâm của các cuộc tranh luận về công lý khí hậu.

Lịch sử quan trọng bởi vì lượng carbon dioxide (CO2) tích lũy phát ra kể từ khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp gắn chặt với 1.2C của sự nóng lên đã xảy ra.

Tổng cộng, con người đã bơm khoảng 2.500 tỷ tấn CO2 (GTCO2) vào khí quyển kể từ năm 1850, để lại ít hơn 500GTCO2 ngân sách carbon còn lại để ở dưới 1,5C.

Điều này có nghĩa là, vào cuối năm 2021, thế giới sẽ tập thể bị đốt cháy thông qua 86% ngân sách carbon cho xác suất 50-50 ở mức dưới 1,5C, hoặc 89% ngân sách cho khả năng hai phần ba.

Trong bài viết này, carbon tóm tắt về trách nhiệm quốc gia về khí thải CO2 lịch sử từ 1850-2021, cập nhật phân tích được công bố vào năm 2019.

Lần đầu tiên, phân tích bao gồm khí thải CO2 từ việc sử dụng đất và lâm nghiệp, ngoài ra còn có những thứ từ nhiên liệu hóa thạch, làm thay đổi đáng kể top 10.

Ở vị trí đầu tiên trên bảng xếp hạng, Hoa Kỳ đã phát hành hơn 509GTCO2 kể từ năm 1850 và chịu trách nhiệm cho tỷ lệ phát thải lịch sử lớn nhất, phân tích tóm tắt carbon, với & NBSP; khoảng 20% ​​tổng số toàn cầu.

Các chương trình video, theo quốc gia được xếp hạng, phát thải CO2 tích lũy từ nhiên liệu hóa thạch, sử dụng đất và lâm nghiệp, 1850-2021 (triệu tấn). Dưới cùng bên phải, ngân sách carbon còn lại để hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5C (cơ hội 50-50). Hoạt hình của Tom Prater cho Carbon Brief.

Trung Quốc là một thứ hai tương đối xa, với 11%, tiếp theo là Nga (7%), Brazil (5%) và Indonesia (4%). Cặp thứ hai là một trong số 10 người phát lịch lịch sử lớn nhất, do CO2 từ vùng đất của họ.

Trong khi đó, các quốc gia châu Âu thời hậu thuộc địa lớn, như Đức và Vương quốc Anh, chiếm 4% và 3% tổng số toàn cầu, tương ứng, không bao gồm khí thải ở nước ngoài dưới sự cai trị của thuộc địa.

Các tổng số quốc gia này dựa trên lượng khí thải CO2 lãnh thổ, phản ánh nơi diễn ra khí thải. Ngoài ra, phân tích xem xét tác động của kế toán phát thải dựa trên tiêu dùng để phản ánh thương mại trong hàng hóa và dịch vụ sử dụng nhiều carbon. Các tài khoản như vậy chỉ có sẵn trong những thập kỷ gần đây, mặc dù thương mại sẽ ảnh hưởng đến tổng số quốc gia trong suốt lịch sử hiện đại.

Phân tích sau đó khám phá các số liệu liên quan đến dân số, nơi những người như Trung Quốc và Ấn Độ rơi xuống bảng xếp hạng. Đáng chú ý, bảng xếp hạng bình quân đầu người phụ thuộc mạnh vào phương pháp được sử dụng và-không giống như khí thải tích lũy, tổng thể & nbsp;-những con số này không liên quan trực tiếp đến sự nóng lên.

Cuối cùng, bài viết này trình bày một lời giải thích chi tiết về dữ liệu đằng sau phân tích, nơi nó đến từ và cách nó được kết hợp với nhau, bao gồm các giả định, sự không chắc chắn và biên giới thay đổi.

  • Tại sao CO2 tích lũy quan trọng
  • Trách nhiệm quốc gia về khí thải lịch sử
  • Phát thải tiêu thụ tích lũy
  • Phát thải bình quân đầu người tích lũy
  • Phương pháp: Dữ liệu hóa thạch
  • Phương pháp: đường cơ sở công nghiệp
  • Phương pháp: Thay đổi biên giới
  • Phương pháp: Phát thải sử dụng đất

Tại sao CO2 tích lũy quan trọng

Trách nhiệm quốc gia về khí thải lịch sử

Phát thải tiêu thụ tích lũy

Phát thải bình quân đầu người tích lũy

Phương pháp: Dữ liệu hóa thạch

Phương pháp: đường cơ sở công nghiệp

Phương pháp: Thay đổi biên giới

Phương pháp: Phát thải sử dụng đất

Biểu đồ dưới đây cho thấy lượng khí thải CO2 toàn cầu đã tăng nhanh như thế nào trong 70 năm qua. Nó cũng nhấn mạnh sự phân chia giữa khí thải CO2 từ nhiên liệu hóa thạch và xi măng, được thể hiện bằng màu xám, so với các loại từ sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp (lulucf, màu xanh lá cây).

5 người đóng góp hàng đầu cho sự nóng lên toàn cầu năm 2022

Phát thải CO2 toàn cầu hàng năm từ nhiên liệu hóa thạch và xi măng (màu xám đen) cũng như từ sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp (xanh), 1850-2021, hàng tỷ tấn. Nguồn: Phân tích ngắn gọn về carbon về các số liệu từ Dự án Carbon toàn cầu, CDIAC, Thế giới của chúng tôi về Dữ liệu, Giám sát Carbon, Houghton và Nassikas (2017) và Hansis et al (2015). Biểu đồ bằng carbon ngắn bằng cách sử dụng cao su.

Ở cấp độ toàn cầu, khí thải từ việc sử dụng đất và lâm nghiệp vẫn tương đối nhất quán trong hai thế kỷ qua. Chúng lên tới khoảng 3GTCO2 vào năm 1850 và đứng ở khoảng 6GTCO2 ngày nay, mặc dù có những thay đổi lớn trong các mô hình phá rừng theo khu vực theo thời gian.

.

Ngược lại, lượng khí thải nhiên liệu hóa thạch đã tăng gấp đôi trong 30 năm qua, tăng gấp bốn lần trong 60 năm qua và tăng gần mười hai lần trong thế kỷ qua. 0,2GTCO2 được phát hành trong năm 1850 lên chỉ một nửa một phần trăm của khoảng 37GTCO2 có khả năng được phát ra vào năm 2021.

Tuy nhiên, trong khi phần lớn lượng khí thải CO2 ngày nay là từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch, hoạt động của con người, như nạn phá rừng, đã đóng góp đáng kể cho tổng số tích lũy.

Thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp đã thêm một số 786GTCO2 trong thời gian 1850-2021, lên tới gần một phần ba tổng tích lũy, với hai phần ba còn lại (1.718GTCO2) từ nhiên liệu hóa thạch và xi măng.

Về mặt giao trách nhiệm quốc gia cho sự nóng lên hiện tại, do đó không thể bỏ qua sự đóng góp quan trọng từ khí thải CO2 do thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp.

Được kết hợp với nhau, lượng khí thải tích lũy trong khoảng thời gian từ 1850-2021 cộng thêm 86% ngân sách carbon cho cơ hội thậm chí ở dưới 1,5C, hoặc 89% ngân sách cho cơ hội hai phần ba.

Khi khí thải tăng lên, ngân sách carbon đã được sử dụng với tốc độ tăng tốc, với tổng số tích lũy kể từ năm 1850 đã được phát hành chỉ trong 40 năm qua.

Từ đầu năm 2022, ngân sách 1,5c còn lại (xác suất 50%) sẽ được sử dụng trong vòng 10 năm, nếu lượng khí thải hàng năm vẫn ở mức hiện tại & NBSP;-và ngân sách cho khả năng hai phần ba ở lại dưới 1,5c sẽ kéo dài. bảy năm.

Trách nhiệm quốc gia về khí thải lịch sử

Câu hỏi về việc ai là người chịu trách nhiệm sử dụng ngân sách carbon rõ ràng là rất quan trọng trong bối cảnh các cuộc tranh luận về công lý khí hậu. Nó nói lên trách nhiệm đối phó với tác động của biến đổi khí hậu cho đến nay - cũng như những người nên làm nhiều nhất để ngăn chặn sự nóng lên hơn nữa.

Tuy nhiên, việc gán trách nhiệm là không đơn giản. Phân tích Carbon Brief, chủ yếu xem xét phát thải lãnh thổ quốc gia tích lũy, vì đây là cách mà dữ liệu có sẵn được trình bày.

(Phương pháp thay thế được thảo luận thêm về bài viết.)

Nói một cách lỏng lẻo, việc phân bổ quốc gia tích lũy mang lại trách nhiệm cho người Hồi giáo đối với khí thải lịch sử cho quốc gia thời hiện đại chiếm lãnh thổ phát ra trong quá khứ. Rõ ràng, thay đổi quyền sở hữu lãnh thổ và sự thống nhất và giải thể các quốc gia làm phức tạp các vấn đề (xem bên dưới).

Trên cơ sở này-và bao gồm tất cả các nguồn CO2 của con người-hoạt hình ở trên cho thấy lần đầu tiên các quốc gia chịu trách nhiệm nhiều nhất về khí thải lịch sử khi chúng tích lũy trong giai đoạn 1850-2021.

Mỗi thanh, được đánh dấu bằng một lá cờ quốc gia đương đại, đại diện cho một quốc gia phát thải tích lũy theo thời gian và được mã hóa màu bởi các khu vực trên thế giới, theo bản đồ ở góc trên bên phải.

Năm và quy mô của ngân sách carbon còn lại cho 1,5C vì nó được sử dụng hết thời gian được chỉ định ở góc dưới bên phải.

Lịch sử phát thải CO2 quốc gia cũng là một lịch sử phát triển. Trong khi các vị trí thay đổi trong bảng xếp hạng liên quan đến vô số yếu tố, một số chủ đề rộng xuất hiện.

Trong những thập kỷ đầu của dòng thời gian, lượng khí thải CO2 toàn cầu bị chi phối bởi sự thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp và điều này được phản ánh trong top 10 thể hiện trong hoạt hình.

Trong giai đoạn này, những người phát ra lớn nhất chủ yếu là các quốc gia rộng lớn về mặt địa lý cắt giảm rừng ôn đới của họ cho đất nông nghiệp và cho nhiên liệu, như Mỹ, Nga và Trung Quốc.

Ví dụ, ở Mỹ, một làn sóng những người định cư lan rộng khắp lục địa từ đông sang tây, theo số phận của họ định mệnh của họ và dọn dẹp đất đai để canh tác khi họ đi.

Đồng thời, một số quốc gia châu Âu (phần lớn đã dọn sạch đất của họ để canh tác trước năm 1850) bắt đầu tăng bảng xếp hạng vì họ đang ở trong công nghiệp hóa đất, bao gồm Pháp, Đức và-& NBSP; trên tất cả & NBSP; - nước Anh.

Mặc dù các quốc gia này đã giảm đáng kể lượng khí thải của họ trong những thập kỷ gần đây, nhưng chúng vẫn là một trong những người đóng góp quan trọng nhất cho sự nóng lên lịch sử ngày nay.

Các quốc gia rừng nhiệt đới Brazil và Indonesia cũng bị phá hủy vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 bởi những người định cư trồng cao su, thuốc lá và các loại cây trồng khác. Nhưng nạn phá rừng đã bắt đầu một cách nghiêm túc từ khoảng năm 1950, bao gồm cả việc chăn nuôi gia súc, khai thác gỗ và dầu cọ.

Hoa Kỳ vẫn ở vị trí đầu tiên cho lượng khí thải CO2 tích lũy trong suốt thời gian, vì sự phát triển của nó tiếp tục đầu tiên với việc sử dụng than rộng rãi, sau đó với sự ra đời của chiếc xe máy.

Đến cuối năm 2021, Hoa Kỳ sẽ phát ra hơn 509GTCO2 kể từ năm 1850. Ở mức 20,3% tổng số toàn cầu, đây là cổ phiếu lớn nhất và được liên kết với khoảng 0,2C cho đến nay.

Điều này được thể hiện trong bảng xếp hạng dưới đây, cũng phá vỡ tổng số lượng phát thải của mỗi quốc gia thành phát thải từ việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch (màu xám) hoặc từ thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp (màu xanh lá cây).

5 người đóng góp hàng đầu cho sự nóng lên toàn cầu năm 2022

20 người đóng góp lớn nhất cho khí thải CO2 tích lũy 1850-2021, hàng tỷ tấn, chia thành các phép trừ từ nhiên liệu hóa thạch và xi măng (màu xám) cũng như sử dụng đất và lâm nghiệp (màu xanh lá cây). Nguồn: Phân tích ngắn gọn về carbon về các số liệu từ Dự án Carbon toàn cầu, CDIAC, Thế giới của chúng tôi về Dữ liệu, Giám sát Carbon, Houghton và Nassikas (2017) và Hansis et al (2015). Biểu đồ bằng carbon ngắn bằng cách sử dụng cao su.

Ở vị trí thứ hai là Trung Quốc, với 11,4% lượng khí thải CO2 tích lũy cho đến nay và khoảng 0,1C nóng lên. Trong khi Trung Quốc đã có lượng khí thải liên quan đến đất cao trong suốt, sự bùng nổ kinh tế của nó nhanh chóng, từ năm 2000 là nguyên nhân chính của vị trí hiện tại của nó.

(Xem phương pháp để biết thêm thông tin về việc sử dụng than tiền công nghiệp của Trung Quốc.)

Phân tích chuyên gia trực tiếp đến hộp thư đến của bạn.

Nhận một vòng của tất cả các bài viết và giấy tờ quan trọng được chọn bằng carbon tóm tắt qua email. Tìm hiểu thêm về các bản tin của chúng tôi ở đây. Bằng cách nhập địa chỉ email của bạn, bạn đồng ý cho dữ liệu của bạn được xử lý theo Chính sách bảo mật của chúng tôi.
By entering your email address you agree for your data to be handled in accordance with our Privacy Policy.

Dữ liệu của bạn sẽ được xử lý theo Chính sách bảo mật của chúng tôi.

Sản lượng CO2 của Trung Quốc đã tăng gấp ba lần kể từ năm 2000, vượt qua Hoa Kỳ để trở thành người phát sóng hàng năm lớn nhất thế giới, chịu trách nhiệm cho khoảng một phần tư tổng số hàng năm hiện tại.

Nga đứng thứ ba, với khoảng 6,9%lượng khí thải CO2 tích lũy toàn cầu, tiếp theo là Brazil (4,5%) và Indonesia (4,1%). Đáng chú ý, biểu đồ ở trên cho thấy cặp thứ hai nằm trong top 10 phần lớn là kết quả của sự phát thải của họ từ nạn phá rừng, mặc dù có tổng số tương đối thấp từ việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch.

Đức, ở vị trí thứ sáu với 3,5% lượng khí thải tích lũy nhờ vào ngành công nghiệp năng lượng chống than, minh họa cách một số quốc gia của các ngành đất đai đã trở thành chìm CO2 tích lũy thay vì các nguồn, vì cây đã trở lại các khu vực bị phá hoại trước đó.

(Lưu ý rằng dữ liệu được sử dụng cho bài viết này dựa trên phương pháp khoa học để chiếm phát thải sử dụng đất, khác với dữ liệu được sử dụng trong hàng tồn kho chính thức được gửi cho Liên Hợp Quốc. Sự khác biệt, liên quan đến những gì được tính là một người Nguồn khác so với nguồn tự nhiên, hoặc bồn rửa CO2, đã được khám phá trong một bài viết của khách mời viết tắt carbon được xuất bản vào đầu năm nay.)

Ấn Độ ở vị trí thứ bảy trong bảng xếp hạng, với 3,4% tổng số tích lũy-ngay trên Vương quốc Anh, trên 3,0% & nbsp;-& nbsp; do đóng góp cao hơn từ thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp.

Nhật Bản trên 2,7% và Canada, với 2,6%, đóng cửa 10 người đóng góp lớn nhất cho khí thải lịch sử. Khí thải vận tải quốc tế từ hàng không và vận chuyển, hầu như luôn bị loại trừ khỏi hàng tồn kho và mục tiêu quốc gia, sẽ xếp thứ 11 trong danh sách, nếu được xem là một quốc gia trên mạng.

Phát thải tiêu thụ tích lũy

Một lập luận phổ biến trong các cuộc trò chuyện công lý khí hậu là một số quốc gia đã giảm lượng khí thải lãnh thổ của họ tại nhà, nhưng tiếp tục dựa vào hàng hóa carbon cao được nhập khẩu từ nước ngoài.

Các tài khoản phát thải dựa trên tiêu dùng mang lại trách nhiệm hoàn toàn cho những người sử dụng các sản phẩm và dịch vụ được cung cấp năng lượng hóa thạch, có xu hướng giảm tổng số cho các nhà xuất khẩu chính, như Trung Quốc.

Có những thách thức thực tế để thu thập các tài khoản như vậy, dựa trên các bảng thương mại chi tiết. Do đó, chúng chỉ có sẵn trong những năm kể từ năm 1990, mặc dù thương mại quốc tế về các sản phẩm sử dụng nhiều carbon đã diễn ra trong suốt lịch sử hiện đại.

Mặc dù có những hạn chế này, có thể kiểm tra tác động của CO2 được giao dịch đối với các quốc gia phát thải tích lũy, như thể hiện trong biểu đồ dưới đây. Các thanh màu xám cho thấy lượng khí thải quốc gia tích lũy trên cơ sở lãnh thổ, với các khối màu xám nhạt cho thấy CO2 liên quan đến xuất khẩu và các khối màu đỏ đại diện cho khí thải được nhúng trong hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu.

Đáng chú ý, 19 quốc gia hàng đầu theo lượng phát thải tiêu thụ tích lũy của họ giống như 19 quốc gia trên cơ sở lãnh thổ - & NBSP; và không có vị trí thay đổi nào trong số 10 thay đổi hàng đầu trong bảng xếp hạng. Điều này mặc dù một số quốc gia hiện có dấu chân CO2 lớn hơn nhiều so với tổng lãnh thổ của họ.

5 người đóng góp hàng đầu cho sự nóng lên toàn cầu năm 2022

20 người đóng góp lớn nhất cho khí thải CO2 dựa trên tiêu dùng tích lũy 1850-2021, hàng tỷ tấn. Các thanh màu xám hiển thị khí thải trên cơ sở lãnh thổ với CO2 xuất khẩu được hiển thị bằng màu xám nhạt và nhập khẩu được hiển thị màu đỏ. Nguồn: Phân tích ngắn gọn về carbon về các số liệu từ Dự án Carbon toàn cầu, CDIAC, Thế giới của chúng tôi về Dữ liệu, Giám sát Carbon, Houghton và Nassikas (2017) và Hansis et al (2015). Biểu đồ bằng carbon ngắn bằng cách sử dụng cao su.

Mặc dù các bảng xếp hạng chính không thay đổi do sử dụng tài khoản phát thải dựa trên tiêu dùng, nhưng sự thay đổi không thêm vào phần trách nhiệm được trao cho các quốc gia giàu có. & NBSP;

Hoa Kỳ và Nhật Bản mỗi người đạt được 0,3 điểm phần trăm của tổng tích lũy toàn cầu, trong khi Đức và Vương quốc Anh thêm 0,2 điểm mỗi điểm, trong khi cổ phiếu của Trung Quốc giảm 1,1 điểm và Nga Lừa 0,5.

Lưu ý rằng kế toán tiêu thụ được sử dụng ở đây chỉ bao gồm CO2 từ nhiên liệu hóa thạch và xi măng, do đó, tổng số tích lũy của Brazil và Indonesia hầu như không thay đổi.

Cũng lưu ý rằng sự không có sẵn của các tài khoản dựa trên tiêu dùng trước năm 1990 có nghĩa là thương mại sử dụng nhiều carbon trước đó bị loại khỏi phân tích. Vương quốc Anh, với tư cách là hội thảo ban đầu của thế giới trên thế kỷ 19, đã xuất khẩu khối lượng lớn hàng hóa sử dụng nhiều năng lượng và carbon.

Các quốc gia công nghiệp hóa khác, chẳng hạn như Hoa Kỳ và Đức, đã làm như vậy, chơi, như một bài báo năm 2017 đặt nó, một vai trò tương tự như Trung Quốc ngày nay:

Ngày nay, Trung Quốc thường được coi là hội thảo của thế giới, sản xuất một lượng lớn hàng tiêu dùng giá rẻ cho người khác. Một thế kỷ trước Anh và Đức (cùng với Hoa Kỳ) đóng một vai trò tương tự cả cho châu Âu và toàn cầu.

Vào năm 1890, gần 20% sử dụng năng lượng của Vương quốc Anh liên quan đến hàng hóa xuất khẩu, có nghĩa là một tỷ lệ tương tự của lượng khí thải CO2 của nó sẽ được phân bổ ở nước ngoài trên cơ sở kế toán tiêu dùng.

Tuy nhiên, kế toán dựa trên tiêu dùng vẫn không giải quyết đầy đủ câu hỏi về trách nhiệm về khí thải, tuy nhiên, cho rằng cả hai bên của mối quan hệ thương mại có khả năng đạt được về tài chính.

Trong bối cảnh hiện đại, chỉ có một mặt của mối quan hệ đó có chủ quyền hoàn toàn đối với các hoạt động phát ngôn CO2 liên quan & nbsp;-mặc dù đó sẽ là một câu chuyện khác dưới sự cai trị của thuộc địa lịch sử.

Cách tiếp cận thứ ba là làm cho các nhà sản xuất nhiên liệu hóa thạch chịu trách nhiệm cho CO2 được phát hành khi than, dầu hoặc khí đốt của họ bị đốt cháy. Ý tưởng này thường được đề cập liên quan đến phát thải phạm vi 3 của các công ty dầu mỏ, & NBSP; hoặc khi thảo luận về các nhà xuất khẩu nhiên liệu hóa thạch lớn, như Úc.

Tuy nhiên, khí thải quốc gia trên cơ sở sản xuất hiện không có sẵn và mà không có kế toán cẩn thận, điều này có thể có nguy cơ tính toán gấp đôi CO2 được sản xuất ở một nơi và được sử dụng ở nơi khác.

Phát thải bình quân đầu người tích lũy

Ý tưởng về trách nhiệm quốc gia có các vấn đề khác, bao gồm quy mô không đồng đều, sự giàu có và cường độ carbon của dân số ngày nay, cũng như của các thế hệ trước.

Những vấn đề này áp dụng cả trong và giữa các quốc gia. Hơn nữa, chính các quốc gia có phần cấu trúc của con người có phần tùy tiện, do tai nạn lịch sử, địa lý và chính trị. Với biên giới thay thế, xếp hạng các trách nhiệm lịch sử có thể trông rất khác nhau.

Một cách để cố gắng gỡ rối điều này là bình thường hóa các đóng góp của các quốc gia đối với khí thải CO2 tích lũy theo dân số tương đối của họ.

Không giống như khí thải lịch sử tích lũy, liên quan trực tiếp đến sự nóng lên hiện tại, các số liệu trên đầu người này không liên quan ngay đến khí hậu, Giáo sư Pierre Friedlingstein, chủ tịch mô hình hóa học của các hệ thống khí hậu tại Đại học Exeter giải thích. Anh ấy nói với Carbon Brief:

Những gì quan trọng đối với bầu khí quyển và khí hậu là khí thải CO2 tích lũy. Mặc dù lượng khí thải bình quân đầu người tích lũy rất thú vị, nhưng chúng không nên được hiểu là cổ phần của quốc gia vì họ không liên quan trực tiếp đến khí hậu. Bạn sẽ phải nhân nó với dân số đất nước để tạo ra liên kết đó với sự nóng lên.

Một cách khác để suy nghĩ về điều này là lưu ý rằng các quốc gia nhỏ có lượng khí thải bình quân đầu người cao vẫn tương đối không quan trọng để làm nóng tổng thể. Vì lý do này, bảng dưới đây không bao gồm các quốc gia có dân số ngày nay thấp hơn 1 triệu người. (Điều này loại bỏ những người như Luxembourg, Guyana, Belize và Brunei.)

Phân tích Carbon Brief cho bài viết này tiếp cận câu hỏi về kế toán cho quy mô dân số tương đối theo hai cách khác nhau.

Cách tiếp cận đầu tiên đưa một quốc gia phát thải tích lũy trong mỗi năm và chia nó cho số lượng người sống trong nước vào thời điểm đó, hoàn toàn giao trách nhiệm cho quá khứ cho những người còn sống ngày nay. Bảng, bên dưới bên trái, cho thấy 20 quốc gia hàng đầu trên cơ sở này, tính đến năm 2021.

Cách tiếp cận thứ hai có lượng khí thải trên đầu người của một quốc gia mỗi năm và thêm chúng theo thời gian, với kết quả, vào năm 2021, được hiển thị trong bảng, bên dưới bên phải. Điều này cho trọng lượng tương đương với lượng khí thải bình quân đầu người của các quần thể trong quá khứ và ngày nay.

Rank  Country  Phát thải tích lũy trên mỗi dân số vào năm 2021, TCO2 & NBSP; Rank  Country  Phát thải bình quân đầu người tích lũy, TCO2 & NBSP; 
1 Canada1,751 1 New Zealand5,764
2 Hoa Kỳ1,547 2 Canada4,772
3 New Zealand1,394 3 Hoa Kỳ4,013
4 Hoa Kỳ1,388 4 Hoa Kỳ3,820
5 Estonia1,187 5 Châu Úc3,382
6 Trinidad và Tobago1,181 6 Argentina3,340
7 Nga1,121 7 Qatar2,764
8 Kazakhstan1,100 8 Gabon2,342
9 Vương quốc Anh1,059 9 Malaysia2,276
10 nước Đức1,053 10 Cộng hòa Congo2,187
11 nước Bỉ1,052 11 Nicaragua2,111
12 Phần Lan1,016 12 Nga2,067
13 New Zealand962 13 Hoa Kỳ1,966
14 Estonia961 14 Châu Úc1,948
15 Trinidad và Tobago922 15 Argentina1,943
16 Nga899 16 Qatar1,932
17 Argentina792 17 Nga1,881
18 Qatar781 18 Kazakhstan1,855
19 Gabon776 19 Estonia1,842
20 Nicaragua732 20 Phần Lan1,834

Paraguay

Séc

Zambia

Belarus

Panama

Ukraine

Côte d'Ivoire

Litva

Costa Rica

Bolivia

Đan mạch

Các quốc gia khác trong danh sách này là kết quả của khí thải từ nạn phá rừng bao gồm Gabon, Malaysia và Cộng hòa Congo, cũng như một số quốc gia Nam Mỹ.

Về việc gán trách nhiệm của người Hồi giáo đối với các phát thải này, điều này một lần nữa đặt ra những câu hỏi khó liên quan đến thực dân và việc khai thác tài nguyên thiên nhiên của những người định cư nước ngoài.

Phương pháp: Dữ liệu hóa thạch

Các nhà khoa học đã đưa ra ước tính về khí thải CO2 toàn cầu trong hơn một thế kỷ, với nhà địa hóa học Thụy Điển Arvid Högbom thực hiện những gì được cho là nỗ lực sớm nhất vào năm 1894.

Trong bản dịch của Robbie Andrew, nhà nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Khí hậu Quốc tế (Cicero) ở Na Uy, Högbom mô tả cách anh đưa ra ước tính của mình:

Sản xuất than cứng toàn cầu hiện tại có số lượng tròn 500m tấn mỗi năm, hoặc 1 tấn mỗi km2 bề mặt Trái đất. Biến đổi thành CO2 Lượng than này đại diện cho khoảng một phần ba trong tổng số CO2 của Air Air.

Theo Andrew, công việc của Högbom, ngụ ý khí thải CO2 toàn cầu từ việc đốt than khoảng 1,8GTCO2 vào năm 1890. Mặc dù rõ ràng là khá gần đúng, nhưng nỗ lực đầu tiên này gần với ước tính phát thải đương đại từ than vào thời điểm đó, khoảng 1.3GTCO2.

5 người đóng góp hàng đầu cho sự nóng lên toàn cầu năm 2022
Trích từ một g högbom (1894). Bản dịch: Sản xuất than cứng toàn cầu hiện tại có số lượng tròn 500m tấn mỗi năm, hoặc 1 tấn mỗi km2 bề mặt Trái đất. Biến đổi thành CO2, lượng than này đại diện cho khoảng một phần ba của tổng số Air Air CO2, bởi Robbie Andrew.

Bài báo của Högbom đã giúp truyền cảm hứng cho tác phẩm bán kết năm 1896 của Svante Arrhenis, lần đầu tiên dự đoán rằng việc thay đổi mức CO2 trong khí quyển có thể làm thay đổi đáng kể nhiệt độ Trái đất.

Trong những năm qua, các nhà khoa học đã phát triển một số lần ước tính khí thải CO2 từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch và, mặc dù chúng không phù hợp hoàn hảo, họ đồng ý trong một vài phần trăm.

Dữ liệu cho bài viết này được rút ra từ một danh sách dài các nguồn. Đầu tiên là các ước tính về khí thải CO2 lịch sử quốc gia từ nhiên liệu hóa thạch và sản xuất xi măng, được phát triển bởi Trung tâm phân tích thông tin carbon dioxide (CDIAC) ở Mỹ và được điều chỉnh bởi Dự án Carbon toàn cầu. & NBSP;

Các số liệu CDIAC, hiện được duy trì và cập nhật bởi Trung tâm Năng lượng Appalachian tại Đại học bang Appalachian, được điều hành từ năm 1750 cho đến ngày nay.

Các ước tính Fossil CO2 lịch sử dựa trên một phương pháp được phát triển vào năm 1984 và từ đó đã được tinh chỉnh. Theo thuật ngữ rộng, nó sử dụng các hồ sơ về sản xuất, thương mại và sử dụng nhiên liệu hóa thạch, cũng như các ước tính về lượng CO2 được giải phóng khi một trọng lượng nhất định của than, dầu hoặc khí đốt bị đốt cháy.

Về mặt khái niệm, đây là cách mà Högbom đưa ra ước tính đầu tiên về khí thải CO2 toàn cầu & NBSP; - và một phiên bản tinh vi hơn của phương pháp này vẫn được sử dụng để ước tính khí thải đương đại ngày nay.

Gregg Marland, một trong những tác giả chính của CDiac Timeseres, người đã làm việc trên các số liệu trong nhiều thập kỷ, nói với Carbon Brief:

Tôi nghĩ rằng hầu hết mọi người không đánh giá cao rằng lượng khí thải CO2 hiếm khi được đo ở bất cứ đâu, nhưng được ước tính từ dữ liệu tốt nhất có sẵn về lượng nhiên liệu hóa thạch được sản xuất và những gì chúng tôi làm với nó.

Andrew viết:

Vì khí thải CO2 hóa thạch có liên quan chủ yếu đến năng lượng, đây là một nhóm hàng hóa được theo dõi chặt chẽ với vai trò quan trọng của nó trong hoạt động kinh tế, có rất nhiều dữ liệu cơ bản có thể được sử dụng để ước tính khí thải.

Nhìn chung, Marland nói: Chúng tôi khá thoải mái với các ước tính cơ bản về khí thải CO2 toàn cầu, nhưng sự không chắc chắn có thể khá lớn đối với một số quốc gia riêng lẻ ở giai đoạn đầu của bộ dữ liệu. Anh ấy nói với Carbon Brief:

Đây là dữ liệu về việc sử dụng và xử lý nhiên liệu hóa thạch trở lại vào năm 1751. Dữ liệu thực hiện một số xử lý và chúng không hoàn hảo, nhưng chúng cho phép một lịch sử khá tốt, việc xây dựng các ước tính trong những năm đầu được tạo điều kiện bởi hai sự thật: sớm Trên đó, chỉ có một vài quốc gia đốt nhiên liệu hóa thạch và tốc độ tăng trưởng là phần lớn lượng khí thải toàn cầu đã có trong những thập kỷ gần đây nhất.

Một câu hỏi rõ ràng phát sinh từ dữ liệu là tại sao Trung Quốc, với dân số khoảng 400 triệu người ngay cả vào năm 1850, nên được ghi nhận là không có khí thải do đốt nhiên liệu hóa thạch cho đến khoảng thế kỷ 20.

Trung Quốc được cho là đã sử dụng than trong hàng ngàn năm, với một tài khoản cho thấy họ đã đốt hàng trăm ngàn tấn mỗi năm để làm sắt vào đầu thế kỷ 11.

Tuy nhiên, việc sử dụng than được cho là được địa phương hóa cao do chi phí vận chuyển cao, và một số trung tâm sắt đã sụp đổ sau cuộc xâm lược của người Mông Cổ. Trung Quốc vẫn chủ yếu phụ thuộc vào nhiên liệu gỗ, gây ra nạn phá rừng rộng rãi. Trong một bài viết năm 2004, nhà sử học năng lượng Vaclav Smil viết:

Vào năm 1900, một số quốc gia châu Âu gần như hoàn toàn được cung cấp năng lượng bởi than - & nbsp; nhưng sử dụng năng lượng ở nông thôn Trung Quốc trong năm cuối của triều đại Thanh (1911) khác với tiểu bang chiếm ưu thế ở vùng nông thôn Trung Quốc 100 hoặc 500 năm trước. "

Than than [sử dụng ở Trung Quốc] rất khó để định lượng trước năm 1900, lưu ý một cơ sở dữ liệu khác về sử dụng năng lượng lịch sử trên khắp thế giới, được biên soạn bởi Giáo sư Paolo Malanima và được tổ chức bởi Trung tâm Lịch sử và Kinh tế tại Đại học Harvard. Tuy nhiên, dữ liệu này hỗ trợ các số liệu được đưa ra bởi CDIAC.

Marland nói với Carbon Brief:

Có vẻ như tôi không có khả năng sử dụng than lớn [ở Trung Quốc] không được đại diện trong một số dữ liệu lịch sử mà chúng tôi đã sử dụng.

Phương pháp: đường cơ sở công nghiệp

Phân tích của Carbon Brief cho bài viết này bắt đầu vào năm 1850, bởi vì điều này trùng với định nghĩa IPCC về giai đoạn cơ sở tiền công nghiệp năm 1850-1900 và vì dữ liệu về khí thải quốc gia từ việc sử dụng đất và lâm nghiệp không có sẵn trước năm 1850 (xem bên dưới).

Theo các số liệu CDIAC, chỉ có một số ít các quốc gia phát ra CO2 đáng kể từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch trước năm 1850 & nbsp;-và nhiều người đã có tổng số không đáng kể cho đến thế kỷ 20.

Do đó, bắt đầu từ năm 1850, không bao gồm chỉ 3,8GTCO2 lượng khí thải nhiên liệu hóa thạch được giải phóng trong thế kỷ từ 1750-1850, khoảng 0,2% tổng số phát ra trong toàn bộ giai đoạn 1750-2021.

Trong tổng số trước năm 1850, gần ba phần tư & nbsp; (2.8GTCO2) là từ Vương quốc Anh. Việc mở rộng phân tích trở lại đến năm 1750 sẽ bổ sung 0,1 điểm phần trăm vào tỷ lệ phát thải tích lũy toàn cầu của Vương quốc Anh.

Tác phẩm CDIAC cũng được sử dụng trong các thời gian lịch sử được công bố bởi Dự án Carbon toàn cầu (GCP), được thế giới của chúng ta trong dữ liệu (OWID) tổng hợp thông tin hữu ích khác. Phân tích Carbon Brief, lấy dữ liệu phát thải hóa thạch cho đến năm 2019 từ phần tổng hợp OWID.

Phân tích sau đó ước tính khí thải vào năm 2020 và 2021 bằng cách sử dụng các số liệu gần thời gian thực được công bố bởi Carbon Monitor. Điều này cung cấp dữ liệu cho các nền kinh tế lớn và phần còn lại của thế giới trong tổng hợp.

Số liệu cho năm 2020 áp dụng thay đổi tỷ lệ phần trăm hàng năm từ Màn hình carbon lên tổng số 2019 từ GCP tính bằng tấn. Cách tiếp cận cho năm 2021 là như nhau, nhưng sử dụng thay đổi tỷ lệ phần trăm hàng năm cho đến nay. Tại thời điểm viết, dữ liệu theo dõi carbon đã chạy đến cuối tháng 7 năm 2021.

Dữ liệu cho khí thải Fossil CO2 từ giao thông quốc tế được báo cáo riêng bởi GCP và được thu thập từ trang web cá nhân của Robbie Andrew, một trong những cộng tác viên của dự án. Carbon Brief giả định phát thải giao thông quốc tế đã giảm một nửa vào năm 2020 trước khi trở lại mức 2019.

GCP thông qua thế giới của chúng tôi trong dữ liệu cũng là nguồn tài khoản phát thải dựa trên tiêu dùng, chạy từ năm 1990 trở đi. Dữ liệu dân số đến từ thế giới của chúng ta về dữ liệu và Gapminder.

Phương pháp: Thay đổi biên giới

Thay đổi lãnh thổ và sự thống nhất hoặc tan rã của các thực thể quốc gia đưa ra một vấn đề cụ thể cho sự phân chia khí thải lịch sử. Khi có thể, dữ liệu CDIAC giải thích cho việc thay đổi ranh giới quốc gia theo thời gian, mặc dù đây là một điều rất khó khăn, Marland nói.

Ví dụ, trách nhiệm về khí thải từ khu vực chuyển đổi alsace-lorraine giàu than và khoáng sản giữa Pháp và Đức, theo biên giới đương đại.

Tương tự, lượng khí thải từ khu vực hiện hình thành Pakistan được báo cáo theo tổng số Ấn Độ trước khi phân vùng đất nước vào năm 1947, với việc Bangladesh chia tách xa hơn từ Pakistan vào năm 1971.

Marland nói với Carbon Brief:

Có vẻ như tôi không có khả năng sử dụng than lớn [ở Trung Quốc] không được đại diện trong một số dữ liệu lịch sử mà chúng tôi đã sử dụng.

Phương pháp: đường cơ sở công nghiệp

5 người đóng góp hàng đầu cho sự nóng lên toàn cầu năm 2022
Phân tích của Carbon Brief cho bài viết này bắt đầu vào năm 1850, bởi vì điều này trùng với định nghĩa IPCC về giai đoạn cơ sở tiền công nghiệp năm 1850-1900 và vì dữ liệu về khí thải quốc gia từ việc sử dụng đất và lâm nghiệp không có sẵn trước năm 1850 (xem bên dưới).

Theo các số liệu CDIAC, chỉ có một số ít các quốc gia phát ra CO2 đáng kể từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch trước năm 1850 & nbsp;-và nhiều người đã có tổng số không đáng kể cho đến thế kỷ 20.

Do đó, bắt đầu từ năm 1850, không bao gồm chỉ 3,8GTCO2 lượng khí thải nhiên liệu hóa thạch được giải phóng trong thế kỷ từ 1750-1850, khoảng 0,2% tổng số phát ra trong toàn bộ giai đoạn 1750-2021.

GCP sử dụng cách tiếp cận tương tự với các quốc gia trong Liên Xô cũ, trong khi CDIAC báo cáo dữ liệu cho Liên Xô từ 1830-1991 và cho các quốc gia độc lập sau đó.

Đây rõ ràng là một cách tiếp cận thô thiển, thêm vào các nguồn không chắc chắn khác trong dữ liệu-và do đó, bảng xếp hạng tương đối của các quốc gia này không nên được giải thích quá mức.

Tuy nhiên, để theo dõi lượng khí thải tích lũy theo thời gian, phân tích của Carbon Brief, sử dụng báo cáo GCP về khí thải quốc gia, thay vì các định nghĩa quốc gia thay đổi được sử dụng bởi CDIAC.

Phương pháp: Phát thải sử dụng đất

Ước tính khí thải CO2 quốc gia từ sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp (LULUCF) là trung bình của hai nguồn dữ liệu, cụ thể là Houghton và Nassikas (2017, sau đây là HN HN) và Hansis et al (2015, Blue Blue).

Các phiên bản cập nhật của các bộ dữ liệu này, bao gồm 1850-2019 và sử dụng nhãn quốc gia hài hòa, đã được chia sẻ với một trong những tác giả, Giáo sư Julia Pongratz, giám đốc Khoa Địa lý tại Đại học Ludwig-Maximillians Munich.

Cả hai bộ dữ liệu đều xuất phát từ các mô hình sổ sách kế toán của người Hồi giáo, theo thuật ngữ đơn giản, ghi lại những thay đổi trong đất và cổ phiếu carbon trên mặt đất theo thời gian, dựa trên mức độ thay đổi sử dụng đất.

Richard Houghton, nhà khoa học cao cấp danh dự tại Trung tâm nghiên cứu khí hậu Woodwell và là tác giả chính của HN Timeseries, giải thích khái niệm về Carbon Brief:

Chúng tôi tính toán lượng khí thải hàng năm từ thay đổi sử dụng đất với mô hình sổ sách và hai loại dữ liệu. Loại đầu tiên tái tạo các khu vực của đất trồng trọt, đồng cỏ, rừng và các vùng đất khác. Loại dữ liệu thứ hai là dữ liệu carbon. Bao nhiêu carbon trong thảm thực vật và đất của các loại hệ sinh thái khác nhau và làm thế nào để các cổ phiếu đó thay đổi do sự thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp?

Dựa trên các tài liệu khoa học rộng lớn hơn, các nhà nghiên cứu cho biết mô hình mất bao nhiêu carbon hoặc thu được khi sử dụng đất thay đổi do hoạt động của con người, Houghton nói:

Mô hình kế toán dựa trên việc biết những thay đổi hàng năm trong kho lượng carbon của một ha đất trải qua một số loại quản lý hoặc sử dụng đất, ví dụ, dọn sạch một khu rừng cho đất trồng trọt hoặc trồng rừng trên vùng đất mở. Những dữ liệu về cổ phiếu carbon và những thay đổi của chúng từ quản lý được lấy từ văn học sinh thái và lâm nghiệp.

Hai bộ dữ liệu LULUCF chứa sự khác biệt đáng kể ở cấp độ toàn cầu và quốc gia, được khám phá trong một bài báo chung gần đây được xuất bản bởi hai nhóm.

Các yếu tố chính bao gồm việc sử dụng dữ liệu sử dụng đất cơ bản khác nhau và HN tổng hợp điều này ở cấp quốc gia, trong khi màu xanh là không gian rõ ràng. Điều này cho phép màu xanh theo dõi canh tác thay đổi có thể ảnh hưởng đến kho lượng carbon trên một khu vực rộng hơn, ngay cả khi diện tích ròng của đất nông nghiệp vẫn giữ nguyên.

5 người đóng góp hàng đầu cho sự nóng lên toàn cầu năm 2022
Một nhóm Bullock chở các khúc gỗ trong một khu rừng Kauri ở Matakohe, New Zealand, Đảo Bắc, khoảng năm 1900. Tín dụng: Hình ảnh Lakeview / Kho ảnh của Alamy.

Các mô hình cũng khác nhau trong ước tính của họ về cổ phiếu carbon cho từng loại sử dụng đất, cũng như trong việc xử lý tỷ lệ cổ phiếu nhanh chóng phân hủy.

Để mang lại chuỗi thời gian này hoàn toàn được cập nhật cho năm 2021, Carbon ngắn gọn giả định phát thải sử dụng đất trong những năm gần đây nhất không thay đổi kể từ ước tính gần đây nhất.

Như với các ước tính của khí thải Fossil CO2, độ không đảm bảo trong các số liệu LULUCF tăng thêm thời gian. Houghton nói với Carbon Brief:

Rõ ràng, kết quả không chắc chắn từ dữ liệu không đầy đủ và các giả định chúng tôi sử dụng để điền vào các phần bị thiếu. Sự không chắc chắn tăng lên khi chúng ta quay ngược thời gian, nhưng tỷ lệ thay đổi sử dụng đất thường thấp hơn trong quá khứ so với 60 năm qua.

Pongratz nói rằng sự không chắc chắn tổng thể trong việc sử dụng đất toàn cầu và khí thải lâm nghiệp có khoảng cộng hoặc trừ 2.5GTCO2 mỗi năm, đây là một phạm vi tương tự như đối với nhiên liệu hóa thạch. Tuy nhiên, độ không đảm bảo này lớn hơn nhiều trong các điều khoản tương đối, ở mức ± 50% tổng số LULUCF ước tính.

Mặc dù mức độ không chắc chắn trong việc sử dụng đất và khí thải lâm nghiệp đã giảm đáng kể trong vài năm qua, Pongratz nói:

Một phần không chắc chắn nhất của ngân sách carbon nhân tạo, nhưng giờ đây có các khía cạnh chính trị quan trọng với các cuộc thảo luận xung quanh việc loại bỏ CO2.

Một bộ dữ liệu thứ ba về khí thải LULUCF, thời gian của Oscar Oscar, được tính trung bình cùng với HN và Blue để phân tích ngân sách carbon toàn cầu hàng năm.

Tuy nhiên, Oscar được báo cáo ở cấp khu vực chứ không phải cấp quốc gia, vì vậy không được sử dụng trong phân tích khí thải lịch sử quốc gia của Carbon Brief. Pongratz cho carbon tóm tắt dữ liệu Oscar thường ở giữa hai loạt khác. Tổng số toàn cầu tích lũy cho lulucf được sử dụng bởi carbon ngắn gọn khác với trung bình ba chiều được sử dụng bởi GCP dưới 2%.

Mặc dù phân tích carbon Brief Brief bắt đầu vào năm 1850, như với nhiên liệu hóa thạch, ngày này không loại trừ một số lượng khí thải CO2 liên quan đến thay đổi sử dụng đất tiền công nghiệp, chủ yếu là giải phóng mặt bằng rừng.

Pongratz là tác giả dẫn đầu trên một bài báo năm 2012 khám phá khí thải thay đổi sử dụng đất trong khu vực trong giai đoạn tiền công nghiệp 1.000 năm từ 800-1850.

Ở châu Âu, nghiên cứu này cho thấy một xung lượng phát thải lớn do giải phóng mặt bằng rộng rãi cho đến khi cái chết đen, sau đó là một làn sóng nạn phá rừng trong thời kỳ Phục hưng.

Tuy nhiên, điều thú vị là điều đó cho thấy khí thải thay đổi sử dụng đất toàn cầu nói chung bị chi phối bởi Trung Quốc và Nam Á, một khu vực chủ yếu được tạo thành từ Ấn Độ.

Bài viết kết luận rằng lượng khí thải CO2 tiền công nghiệp làm tăng tỷ lệ nóng lên của châu Á về mức độ nóng lên hiện tại với 2-3 điểm phần trăm, đồng thời giảm tỷ lệ Bắc Mỹ và Châu Âu bằng một số tiền tương tự.

5 nguyên nhân hàng đầu của sự nóng lên toàn cầu là gì?

Nguyên nhân của biến đổi khí hậu..
Khí nhà kính bẫy nhiệt và khí hậu của trái đất. ....
Khí nhà kính. ....
Độ phản xạ hoặc hấp thụ năng lượng của mặt trời. ....
Thay đổi trong quỹ đạo và vòng quay của Trái đất. ....
Biến thể trong hoạt động mặt trời. ....
Thay đổi độ phản xạ của trái đất. ....
Hoạt động núi lửa..

Ai là người gây ô nhiễm nóng lên hàng đầu toàn cầu?

10 người gây ô nhiễm hàng đầu..
Trung Quốc, với hơn 10.065 triệu tấn CO2 được phát hành ..
Hoa Kỳ, với 5.416 triệu tấn CO2 ..
Ấn Độ, với 2.654 triệu tấn CO2 ..
Nga, với 1.711 triệu tấn CO2 ..
Nhật Bản, 1.162 triệu tấn CO2 ..
Đức, 759 triệu tấn CO2 ..
Iran, 720 triệu tấn CO2 ..

10 người đóng góp hàng đầu cho sự nóng lên toàn cầu là gì?

10 nguyên nhân hàng đầu của sự nóng lên toàn cầu..
Waste..
Nhà máy điện.....
Khoan dầu.....
Vận chuyển và phương tiện.....
Chủ nghĩa tiêu dùng.....
Nông nghiệp.....
Công nghiệp hóa.Công nghiệp hóa có hại theo nhiều cách khác nhau.....
Đánh bắt quá mức.Cá là một trong những nguồn protein chính của con người và rất nhiều thế giới hiện đang dựa vào ngành công nghiệp này.....

Ai là người phát ra hàng đầu lớn nhất của khí nhà kính?

Trung Quốc.Trung Quốc là chất phát lớn nhất của khí carbon dioxide trên thế giới, với 10.668 triệu tấn được phát ra vào năm 2020. ....
Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là bộ phát CO2 lớn thứ hai, với 4.713 triệu tấn khí thải carbon dioxide vào năm 2020. ....
Ấn Độ.....
Nga.....
Japan..