Baài ca tri ân của nhạc sĩ từ nhiên là ai?

QĐND - Khi đã bước sang bên kia "sườn dốc" của cuộc đời, nhà thơ Bùi Văn Dung, tác giả lời các ca khúc "Gửi nắng cho em", "Con kênh ta đào" rất đỗi thân quen với công chúng, mới được sống những tháng ngày thảnh thơi trên quê hương xã Thượng Trưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.

Nhà thơ Bùi Văn Dung đến với thơ ca như duyên trời định. Năm 1962, ông tình nguyện nhập ngũ rồi trở thành lính pháo binh. Năm 1967, khi đang làm Chính trị viên đại đội, ông được điều động vào miền Nam rồi chiến đấu liên tục đến ngày thống nhất đất nước. Cùng ông xem lại một số tờ báo như: Sài Gòn Giải phóng, Nội san Tuổi trẻ [tiền thân của Báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay] ra những ngày cuối năm 1975, đầu năm 1976, chúng tôi thấy có khá nhiều bài thơ của tác giả ký tên: B Văn Dung. Thơ của ông dung dị mà lại trữ tình, khoáng đạt. Và bài thơ “Gửi nắng cho em” của ông chính thức xuất hiện trên tờ Sài Gòn Giải phóng vào giữa tháng 12-1975 với những lời thơ mộc mạc, da diết: “Anh ở trong này chưa thấy mùa đông/ Nắng vẫn đỏ, mận hồng đào cuối vụ/ Trời Sài Gòn xanh cao như quyến rũ/ Thật diệu kỳ là mùa đông phương Nam/ Muốn gửi ra em một chút nắng vàng…”.

Nhà thơ Bùi Văn Dung chăm sóc cây cảnh tại gia đình.

Đặc trưng khí hậu vùng Nam Bộ thuộc đới cận xích đạo, quanh năm nắng nóng, một hiện tượng thời tiết không lạ nhưng lại trở thành chất liệu cho cảm xúc cho anh bộ đội quê miền Bắc thăng hoa. Âm hưởng của bài thơ đã nhanh chóng được nhạc sĩ Phạm Tuyên chuyển thành giai điệu mượt mà, làm nên ca khúc có cùng tựa đề “Gửi nắng cho em”. Bài hát này lần đầu tiên được phát trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam với chất giọng trữ tình của ca sĩ Ngọc Tân đã nhanh chóng chiếm được tình cảm của đông đảo bạn nghe đài.

Sau này, suốt một thời gian dài kiếm tìm và thư từ, nhạc sĩ Phạm Tuyên và nhà thơ Bùi Văn Dung đã gặp được nhau và trở thành chỗ thân tình, gắn bó. Mỗi khi có dịp về Hà Nội, nhà thơ lại thu xếp thời gian đến thăm nhạc sĩ Phạm Tuyên, đó là sự tri ân, tri kỷ, sự tiếp sức cho quá trình lao động nghệ thuật của mỗi người. Theo nhạc sĩ Phạm Tuyên, phải là một người gắn bó với đồng đất miền Bắc lắm mới có thể viết nên những ca từ đẹp như bài thơ “Gửi nắng cho em”. Bài hát được ông viết rất nhanh và được hầu hết các ca sĩ giai đoạn đó thể hiện thành công. Một điều tình cờ thú vị là từ năm 1976 đến năm 1980, trong rất nhiều bài hát mà nhạc sĩ Phạm Tuyên viết và phổ thơ thì có đến 6 bài hát phổ thơ Bùi Văn Dung. Những bài hát về sau khiến hai người càng có mối quan hệ chặt chẽ hơn.

Khác với ca khúc “Gửi nắng cho em”, nhạc sĩ Phạm Tuyên cắt khổ thứ hai và đảo cấu trúc của bài thơ khi phổ nhạc bài thơ “Con kênh ta đào”. Phạm Tuyên giữ nguyên bản sáng tác của Bùi Văn Dung. Giai điệu ca khúc và nhịp điệu của nó ngay lần đầu thể hiện, nghệ sĩ Ngọc Tân và Thanh Hoa đã đem đến cho người nghe một không khí lao động tràn đầy hạnh phúc và sự hứng khởi, khích lệ tinh thần, tình cảm của mọi người vượt qua những khó khăn sau chiến tranh để dựng xây đất nước.

Cuối những năm 80 của thế kỷ trước, Bùi Văn Dung nghỉ hưu với quân hàm trung tá. Sau đó, ông được mời ra làm Chủ tịch Hội Cựu chiến binh rồi đảm nhiệm hết hai nhiệm kỳ Bí thư Đảng ủy xã Thượng Trưng. Giờ đây, khi đã về với đời thường, tâm hồn người nghệ sĩ mới có nhiều thời gian để chắt chiu, bộc bạch cảm xúc của mình dành cho thơ, cho con cháu.

Bài và ảnh: HỒNG SÁNG

Tháng Tư - Phạm Duy: Vinh quang và bẽ bàng

Nguồn hình ảnh, Tư liệu

Chụp lại hình ảnh,

Nhạc sĩ Phạm Duy, tên thật Phạm Duy Cẩn là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam

Hàng chục năm đã trôi qua nhưng nhiều lần cứ đến tháng Tư tôi lại nghĩ về nhạc sĩ Phạm Duy và thân phận nổi trôi của cá nhân ông và qua đó của quê hương mình.

Tôi đã may mắn [hay bất hạnh?] "gặp mặt" nhạc sĩ Phạm Duy [5/10/1921- 27/1/2013] tất cả 4 lần, mỗi lần trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác nhau. Lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng, tôi mới thực sự gặp lại ông, hiểu theo nghĩa trực tiếp đối diện, trong một tình huống có thể nói là bẽ bàng cùng cực.

Bốn lần gặp là trong các hoàn cảnh khác nhau của cuộc đời người nghệ sĩ kiệt xuất, trôi nổi theo vận mạng nổi trôi của đất nước. Cả 4 lần "gặp" đều diễn ra ở những nơi khác nhau, có những lần cách xa cả ngàn vạn dặm, ở ba quốc gia, nằm trên ba lục địa của thế giới, từ Á sang Úc rồi đến Âu Châu.

Phạm Duy, người viết quốc ca Việt Nam cho mai hậu

Quảng cáo

Lần gặp thứ nhất

Năm đó tôi học lớp Đệ Lục [lớp 7 hiện nay], năm học 1964-65, ở Đà Lạt. Chiều tối hôm đó một anh người quen, học tại Viện Đại Học Đà Lạt và ở cùng khu nhà, chở tôi đi xem Phạm Duy và ban nhạc của ông trình diễn.

Trong trí nhớ của thằng bé khoảng 11,12 tuổi còn đọng lại hình ảnh Phạm Duy cùng mọi người trong ban nhạc, trong đó có một người Mỹ trẻ, tất cả đều mặc đồ bà ba đen, say sưa đàn hát trong tiếng vỗ tay cuồng nhiệt tán thưởng của các anh chị sinh viên ngồi chật kín trong giảng đường rộng.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Cảnh hồ Xuân Hương, Đà Lạt

Bài hát tôi nhớ mãi kể từ tối lần đầu tiên được xem và nghe Phạm Duy cùng ban nhạc trình diễn là bản Tình Ca với giai điệu và ca từ "hớp hồn" cậu bé vừa qua 10 tuổi:

"... Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời.

Người ơi!

Mẹ hiền ru những câu xa vời.

À ơi!

Tiếng ru muôn đời! ..."

Sau này tôi đã bật khóc trong nỗi xúc động không thể kiềm chế khi nghe lại nhạc phẩm này trên đảo tỵ nạn Galang đầy gió lộng ở Indonesia nhiều năm sau đó.

Hồi ký Phạm Duy 1

Hồi ký Phạm Duy 2

Lần gặp thứ nhì

Lần này tôi đang học ở Viện Đại Học Đà Lạt. Khác với lần trước đi cùng với ban nhạc, lần này, vào khoảng năm 1973-74, Phạm Duy lên thuyết trình về một đề tài nào đó, dĩ nhiên là có phần trình diễn ca hát của ông.

Ấn tượng rất đậm nét lần này, không phải là chủ đề của buổi thuyết trình hoặc các nhạc phẩm do chính ông trình bày, mà là phần sau đó: khi ra ngoài ông được bao quanh bởi đông đảo nam nữ sinh viên, mỗi người chen chúc cố gắng đến gần để đưa cho ông một cái gì đó, ví dụ một bản nhạc, một tập nhạc hay một tác phẩm nói về Phạm Duy... để xin ông chữ ký.

Tôi cũng ... bon chen thủ sẵn một bản nhạc nhưng vì người đông quá và vì tôi mắc công chuyện nên phải bỏ cuộc trong nỗi tiếc nuối vì không xin được chữ ký của ông.

Lần gặp thứ ba

Lần này Phạm Duy tới thuyết trình tại trường Đại Học Victoria ở tiểu bang Victoria, nước Úc, vào khoảng năm 1992. Giảng đường rộng thênh thang nhưng đông nghẹt người tham dự. Ông say mê nói, có lúc tôi có cảm tưởng ông đang phát biểu trong cơn mê sảng kỳ lạ, xuất thần về nhiều vấn đề trong đó có phần đề cập tới chiều hướng sáng tác sau khi phải bỏ nước ra đi hồi tháng Tư năm 1975.

Ông nói nguyên nhân khiến ông phải đi tỵ nạn năm 1975 cũng như lý do ông "dinh Tê" về Hà Nội năm 1951 rồi sau đó di cư vào Nam năm 1954 chỉ là vì hai chữ Tự Do. Ông trình bày nhiều đề tài đa dạng, từ Ngục Ca, Tỵ nạn Ca ... và ông cũng kể về những lần đi cùng các ca nhạc sĩ khác sang hát cho đồng bào ở các trại tỵ nạn người Việt tại Đông Nam Á.

Tất cả 3 lần kể trên, kể cả ở Úc là nơi có đông đảo đồng bào tỵ nạn ra đi từ miền Nam, Phạm Duy đều được đón tiếp hết sức trân trọng và vô cùng nồng nhiệt.

Nguồn hình ảnh, Archive

Chụp lại hình ảnh,

Nhạc sỹ Phạm Duy đã sống qua nhiều thời đại của lịch sử Việt Nam

Lần gặp thứ tư: bẽ bàng

Năm đó, khoảng cuối 1995 hoặc trong năm 1996, giai đoạn tôi đang làm việc tại Ban Việt Ngữ đài BBC ở thủ đô Luân Đôn, Anh Quốc. Hôm đó là một ngày Chúa Nhật, hai vợ chồng tôi xem lễ tại một nhà thờ ở Luân Đôn, nơi giáo dân đa số là đồng bào mình ra đi từ miền Bắc.

Lúc thánh lễ sắp kết thúc, một người trẻ là trưởng một đoàn thể của giáo xứ [hình như Đoàn Thanh Niên Công Giáo?] lên mời toàn thể mọi người trong nhà thờ ở lại để gặp và xem Phạm Duy trình diễn. Tuy nhiên ngay sau thánh lễ mọi người trong nhà thờ lũ lượt ra về hết, chỉ còn lại đúng 4 người: trưởng và phó đoàn của xứ đạo và vợ chồng tôi.

Anh trưởng đoàn tay cầm bó bông trao cho Phạm Duy nói vài câu xã giao trong đó có lời xin lỗi vì không có người tham dự. Phạm Duy đáp từ ngắn, chỉ độ vài chục giây, đại khái bày tỏ sự thông cảm. Khi nhìn nét mặt và lời đáp hết sức ngượng nghịu của ông [hoàn toàn khác hẳn vẻ linh hoạt và rất sinh động của 3 lần trước, mỗi lần nhiều giờ đồng hồ], tôi có cảm tưởng mình đã phần nào cảm nhận được sự bẽ bàng của người nhạc sĩ kiệt xuất của quê hương.

Nhạc sĩ Phạm Tuyên tri ân Phạm Duy

Nhạc sỹ Phạm Duy qua đời

Lập trường Phạm Duy qua một bài hát

Sau khi nhìn ông một mình tay ôm bó bông lầm lũi ra khỏi nhà thờ, tôi hỏi 2 người trưởng và phó đoàn của xứ đạo rằng các em có biết Phạm Duy là ai không? Cả hai đều trả lời họ nghe nói đó là một nhạc sĩ nổi tiếng của miền Nam trước năm 1975.

Những ngày Chúa Nhật sau đó tôi hỏi rất nhiều người giáo dân trong xứ đạo ra đi từ miền Bắc, cả trẻ lẫn trung niên và già, tất cả đều cho biết họ chưa hề nghe nói tới tên Phạm Duy hoặc chỉ nghe, biết "loáng thoáng". Ngay cả những người nói họ "nghe, biết loáng thoáng" thực ra cũng không biết gì ngoài việc "nghe nói" ông là một nhạc sĩ ở miền Nam.

Tôi nghĩ nỗi bẽ bàng của Phạm Duy càng tăng thêm gấp bội vì chỉ mới chiều tối hôm thứ Bảy trước, theo lời một người bạn từng tham dự cho tôi biết tại một hội trường cách nhà thờ không bao xa và cũng ở Luân Đôn Phạm Duy đã được đông đảo đồng bào tỵ nạn ra đi từ miền Nam tiếp đón vô cùng nồng nhiệt.

Nguồn hình ảnh, Tư liệu

Chỉ mãi tới sau này, tức sau khi Phạm Duy trở về ở luôn trong nước từ năm 2005, người dân Việt trong nước nói chung, đặc biệt giới trẻ cả nước và đồng bào miền Bắc nói riêng, mới bắt đầu biết đến tên tuổi Phạm Duy, nhất là sau khi một số nhỏ trong tổng số cả ngàn bài ca do ông sáng tác, phổ nhạc hoặc viết lời được nhà cầm quyền cho phép phổ biến.

Qua bốn lần "gặp gỡ" Phạm Duy, dù chỉ là những cuộc "gặp" có tính cách và cảm nhận hoàn toàn cá nhân và có thể nói là "lặt vặt", từ góc nhìn của một người rất đỗi bình thường, tôi nghĩ mình có thể hiểu phần nào sự nổi trôi của cuộc đời Phạm Duy.

Qua trôi nổi, vinh quang và bẽ bàng đan xen lẫn nhau của cá nhân Phạm Duy và nhất là qua số phận của bộ gia tài cực kỳ đồ sộ và phong phú của ông, chúng ta có thể phần nào thấy được thân phận của quê hương Việt Nam với:

"... bốn ngàn năm ròng rã buồn νui.

Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi.

Nước ơi!

Ƭiếng nước tôi, tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi

Ƭhoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi.

Nước ơi".

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, một cựu nhà báo hiện sống tại Melbourne, Úc.

Xem thêm:

'Người phụ nữ Việt nổi trôi cùng số phận đất nước'

30/04: Những xui xẻo định mệnh của VNCH

Có những ngày 30/04 trước 1975 và mãi mãi về sau

30/04: Nhắc lại cố tổng thống VNCH Trần Văn Hương

Ngày 30/04: Hãy chung tay để lịch sử không bị đánh mất

Video liên quan

Chủ Đề