Ca sĩ nam hát phòng trà là ai?

Phòng trà ca nhạc xuất hiện lần đầu là ở Hà Nội sau khi tân nhạc xuất hiện, phòng trà đầu tiên được mở là Quán Nghệ sĩ [1946] ở đường Bờ Hồ, Hà Nội, đây là nơi gặp mặt của nhiều nhạc sĩ khi đó như Nguyễn Xuân Khoát, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh… Ngoài trình diễn các nhạc phẩm tân nhạc, phòng trà này còn có các nhạc phẩm cổ điển. Sau sự thành công của Quán Nghệ sĩ, một số phòng trà khác cũng được mở ra như: Thăng Long ở phố Hàng Bông, Tuyết Sơn ở phố Thợ Nhuộm, Thiên Thai ở phố Hàng Gai…

Sau đó, tại Huế cũng bắt đầu xuất hiện một số phòng trà, nổi tiếng nhất thời bấy giờ phải kể đến phòng trà Tam Tinh với giọng ca Ngọc Cẩm.

SAIGON 1968-69 – Nhà hàng & phòng trà Tự Do góc Tự Do-Thái Lập Thành

Sau năm 1954, nền tân nhạc ở miền Nam nói chung, Sài Gòn nói riêng phát triển rực rỡ. Việc nhiều nhạc sĩ, ca sĩ miền Bắc vào Sài Gòn định cư đã làm đa dạng hơn nền âm nhạc giai đoạn này. Bên cạnh đó, ảnh hưởng từ lệnh cấm khiêu vũ, các vũ trường dần chuyển hướng sang phòng trà ca nhạc đã tạo đà cho văn hóa phòng trà khởi sắc.

Phòng trà thực sự bước vào thời kì hoàng kim ở Sài Gòn vào khoảng nửa cuối thập niên 50 của thế kỉ trước [khoảng từ sau năm 1959]. Tới phòng trà nghe nhạc trở thành một nét văn hóa của Sài Gòn khi đó. Một trong số những phòng trà đầu tiên như: Văn Cảnh trên đường Calmete, Đức Quỳnh đướng Cao Thắng, Anh Vũ đường Bùi Viện.
Trong đó phải kể đến phòng trà Anh Vũ, đây là nơi khởi đầu sự nghiệp ca hát của nhiều ca sĩ nổi tiếng thời bấy giờ như Minh Hiếu, Anh Ngọc, Thanh Thúy, Lệ Thanh, Khánh Ly… Cũng tại phòng trà này, cố nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 đã đệm dương cầm cho Thanh Thúy thể hiện rất thành công ca khúc Ướt mi – tác phẩm đầu tiên của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Ngày đó, các phòng trà xây dựng danh tiếng thuần túy dựa vào giọng ca vàng kết hợp với ban nhạc hay. Các phòng trà Queen Bee, Tự Do, Ritz, Maxim’s, Đêm Màu Hồng là những phòng trà có tiếng nhất thời điểm đó cũng bởi sở hữu cho mình dàn át chủ bài ấn tượng như ca sĩ Lệ Thu, Thái Thanh, Hoàng Thi Thơ, Khánh Ly, Thanh Thúy, Jo Marcel; ban nhạc The Shotguns, Ban nhạc Thăng Long, ban nhạc The Dreams…

Thường các ca sĩ sẽ chỉ hát những ca khúc được dành riêng cho mình, không ai hát lại bài hát của người khác, bởi lẽ mỗi một giọng ca đều có một nét đặc trưng riêng mà dù cho người ta có nghe ca sĩ ấy ca đi ca lại một ca khúc nào đó nhiều lần thì cảm xúc đọng lại vẫn như lần đầu.

Ca sĩ Kiều Loan biểu diễn tại Phòng trà Tự do năm 1967

Mẩu tin quảng cáo của Phòng trà Tự Do

Không có những banner, áp-phích hoành tráng, ngày đó chỉ cần một mẩu tin quảng cáo ngắn gọn với tên của những danh ca, ban nhạc nổi tiếng đã đủ phô diễn sức hút của một buổi biểu diễn.

Với người Sài Gòn thời điểm đó, việc lui tới phòng trà thưởng thức không gian âm nhạc là một thói quen của những người yêu nhạc. Trong không gian mộng ảo, lãng mạn ấy, người hát và cả người nghe như hòa mình vào âm nhạc.

Mẩu tin quảng cáo của phòng trà Queen Bee

Ngoài các phòng trà có tiếng và cao cấp như kể trên, còn có rất nhiều “phòng trà bình dân” khác để thỏa mãn đam mê với âm nhạc cho những tầng lớp sinh viên, bình dân khác. Trong đó có thể kể đến Quán Văn, một quán cà phê đơn sơ là nơi tụ hội và giao lưu của các văn nghệ sĩ, chuyên nghiệp có, không chuyên nghiệp có. Điểm nổi bật của Quán Văn là những màn kết hợp giữa cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và ca sĩ Khánh Ly trong thời gian đầu hợp tác giữa hai nghệ sĩ [khoảng năm 1966]. Là một trong những bước đệm đầu tiên tạo nên thương hiệu Nhạc Trịnh và danh tiếng của Khánh Ly sau này.

Sau sự kiện giữa năm 1975, các phòng trà phải đóng cửa. Sau một thời gian gián đoạn, một số phòng trà mở lại nhưng không còn phát triển thịnh vượng như giai đoạn trước.

Thời gian đầu mở lại, các phòng trà vẫn mang tính chất sang trọng, giá đồ uống cao và trình diễn những bản nhạc giá trị. Nổi danh nhất vào giai đoạn đó phải kể đến phòng trà M&Tôi và Tiếng Tơ Đồng.

Đến khoảng cuối thập niên 1990, do thị hiếu âm nhạc đa dạng hơn nên các phòng trà cũng thay đổi để phù hợp với khán giả. Thời điểm này phòng trà không chỉ là nơi để hát nhạc trữ tình, lãng mạng nữa mà thay vào đó để đáp ứng những khán giả thanh niên, các phòng trà đã mời các ca sĩ trẻ thể hiện những ca khúc đang thịnh hành. Bên cạnh đó một số hiện tượng như hát nhép môi cũng làm chất lượng âm nhạc các phòng trà giảm xuống. Sự xuất hiện những sân khấu ca nhạc bình dân cũng làm các phòng trà vắng bớt khách.

Tuy nhiên cũng có một số phòng trà cố gắng duy trì phong cách và giữ một tầng lớp khán giả cho riêng mình như ATB của ca sĩ Ánh Tuyết, 2B của ca sĩ Mỹ Hạnh chuyên thể hiện các nhạc phẩm tiền chiến, tình khúc, Carmen với nhạc Flamengo, Sax ’n’ art của Trần Mạnh Tuấn với nhạc jazz…

Cho đến ngày nay, Sài Gòn vẫn còn nhiều phòng trà nhưng với phong cách, hình thức phong phú hơn và phù hợp hơn với từng tầng lớp khán giả hiện nay. Tuy nhiên, có thể nói khó mà tìm đâu được nét mộng mị, lãng mạn với những giọng ca đầy cảm xúc như xưa.

Nguồn tổng hợp

Phòng trà ca nhạc là một hình thức biểu diễn và thưởng thức âm nhạc, các khán giả tới phòng trà để nghe ca sĩ hát. Phòng trà ca nhạc xuất hiện đầu tiên ở Hà Nội sau khi tân nhạc xuất hiện. Nó thay thế cho các quán cô đầu, nơi thưởng thức hát ả đào trước đó. Tại các nước phương Tây cũng có những hình thức tương tự phòng trà ca nhạc như cabaret, café-concert.

Phòng trà ca nhạc đầu tiên là Quán Nghệ sĩ, mở ở đường Bờ Hồ, Hà Nội năm 1946. Đây là nơi gặp gỡ của nhiều nhạc sĩ khi đó như Nguyễn Xuân Khoát, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh... Không chỉ tân nhạc, phòng trà này còn trình diễn cả các nhạc phẩm cổ điển. Sau Quán Nghệ sĩ, một số phòng trà khác cũng được mở: Thăng Long ở phố Hàng Bông, Tuyết Sơn ở phố Thợ Nhuộm, Thiên Thai ở phố Hàng Gai.

Trong hồi ký của mình, Phạm Duy viết:

Quán Nghệ sĩ ở đường Bờ Hồ, do tay violonist số một là Nguyễn Văn Giệp điều khiển. Có nam ca sĩ Mai Khanh thường tới hát bài Bên hồ liễu. Nữ ca sĩ Bùi Thị Thái, người vợ tương lai của ông Quản Liên, trưởng ban Quân nhạc Lính Khố Xanh thì chuyên hát bài Con chim lạc bạn. Thỉnh thoảng có Dương Thiệu Tước tới đánh guitare hawaienne và có Thẩm Oánh tới để làm xướng ngôn viên.

Ở phố Hàng Bông, có phòng trà Thăng Long với các nhạc sĩ Đỗ Thế Phiệt, Nguyễn Khắc Cung, Lương Ngọc Châu, Vũ Anh Thường. Phòng trà này do ông Đinh Văn Tiệp, một thương gia thời đó làm chủ. Tại phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, có phòng trà Tuyết Sơn với Vũ Thành thổi sáo. Trong đám nam ca sĩ lúc đó, tôi cho rằng Kim Tiêu là người hát hay nhất. Trong khi tôi còn vác bài Buồn tàn thu đi lưu diễn ở trong Nam thì ở Hà Nội, chính nhờ ở giọng hát của Kim Tiêu mà những bài Thiên Thai, Trương Chi của Văn Cao được nổi tiếng.

Một thằng bạn của tôi tên là Đặng Trần Vận mở ra ở phố Hàng Gai một phòng trà lấy tên là Thiên Thai, cái tên được đặt ra như vậy là vì tất cả dân chúng lúc đó đang ở trong tầm ảnh hưởng của bài hát rất trữ tình của Văn Cao.

Tiếp đó, tại Huế cũng xuất hiện một số phòng trà, nổi tiếng hơn cả là Tam Tinh với giọng ca Ngọc Cẩm. Chiến tranh Việt-Pháp nổ ra, các phòng trà ca nhạc đều đóng cửa.

Năm 1954, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ miền Bắc tới Sài Gòn định cư. Nền tân nhạc ở miền Nam thời kỳ này đa dạng với nhiều dòng nhạc dành cho nhiều tầng lớp khán giả. Thị trường âm nhạc sôi động cùng những ca sĩ nổi tiếng giúp các phòng trà bước vào thời kỳ hoàng kim. Tới phòng trà nghe nhạc là một nét văn hóa của Sài Gòn khi đó. Những phòng trà được mở ra khắp nơi. Có thể kể tới một số như Văn Cảnh trên đường Calmete, Đức Quỳnh đướng Cao Thắng, Anh Vũ đường Bùi Viện... Đến khi tổng thống Ngô Đình Diệm cấm khiêu vũ thì một số vũ trường cũng biến thành phòng trà như Tự Do, Baccara... Thời kỳ đó, Sài Gòn có 5 phòng trà nổi danh nhất là Queen Bee, Tự Do, Ritz, Maxim's, Đêm Màu Hồng với các ban nhạc tên tuổi và các giọng ca ngôi sao.

Phòng trà Đêm Màu Hồng với ban Thang Long, ban nhạc gia đình gồm Thái Thanh, Hoài Bắc [tức Phạm Đình Chương], Hoài Trung, Thái Hằng. Tên phòng trà cũng được đặt theo tên một ca khúc của Phạm Đình Chương. Queen Bee, Tự Do, Maxim's nổi tiếng với các giọng ca của Khánh Ly, Lệ Thu. Ritz có ban nhạc The Dreams với ca sĩ Julie Quang, ông chủ phòng trà Jo Marcel cũng là một ca sĩ. Về sau Khánh Ly cũng mở một phòng trà mang tên mình.

Một loại phòng trà ca nhạc khác nữa là phòng trà sinh viên. Trong khi các phòng trà nổi tiếng là nơi dành các khán giả cao cấp thì phòng trà sinh viên do sinh viên mở ra và để dành cho chính họ. Trong số đó có Quán Văn với Khánh Ly và Trịnh Công Sơn thời kỳ đầu sự nghiệp.

Những nhạc công biểu diễn ở phòng trà cũng có các nhạc sĩ nổi tiếng, như Nguyễn Ánh 9 thường đệm dương cầm cho các ca sĩ Khánh Ly, Thái Thanh. Cũng có một vài giọng ca hàng đầu của Sài Gòn khi đó như Duy Trác, Sĩ Phú hầu như không xuất hiện ở phòng trà. Ngoài Sài Gòn, còn có những phòng trà ở Đà Lạt và một số thành phố khác.

Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, các phòng trà của Sài Gòn đều đóng cửa.

Sau một thời gian gián đoạn, tại Thành phố Hồ Chí Minh, một số phòng trà được mở cửa trở lại. Thời gian đầu, các phòng trà vẫn mang tính chất sang trọng, giá đồ uống cao và trình diễn những bản nhạc giá trị. Trong số đó nổi danh hơn cả là M&Tôi và Tiếng Tơ Đồng.

Khoảng cuối thập niên 1990, đầu thập niên 2000, thị hiếu âm nhạc trở nên đa dạng, các phòng trà cũng thay đổi theo. Để đáp ứng những khán giả thanh niên, các phòng trà mời các ca sĩ trẻ với những ca khúc đang thịnh hành. Những hiện tượng như hát nhép môi cũng làm chất lượng âm nhạc các phòng trà giảm xuống. Tiếng Tơ Đồng còn tổ chức các đêm Người đẹp hát, Diễn viên hát... M&Tôi có chương trình Vui, trẻ khỏe và thứ hai mỗi tuần. Sự xuất hiện những sân khấu ca nhạc bình dân cũng làm các phòng trà vắng bớt khách.

Một số khác cố gắng duy trì phong cách và giữ một tầng lớp khán giả cho riêng mình như ATB của ca sĩ Ánh Tuyết, 2B của ca sĩ Mỹ Hạnh với các nhạc phẩm tiền chiến, tình khúc, Carmen với nhạc Flamengo, Sax ’n’ art của Trần Mạnh Tuấn với nhạc jazz...

Khoảng 2005-2007, nhiều phòng trà nổi tiếng của Thành phố Hồ Chí Minh như M&Tôi, Tiếng Tơ Đồng, ATB, Đồng Dao đều đóng cửa vì lý do mặt bằng. Để giải quyết vấn đề này, các phòng trà phải chuyển ra xa trung tâm hơn để mở cửa trở lại.

Tại Hà Nội, số lượng phòng trà ít hơn và do thị hiếu của khán giả, các phòng trà ở đây cũng mang phong cách khác với Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1995, đáp ứng nhu cầu một số khán giả yêu thích nhạc đỏ, ca sĩ Thanh Hoa mở phòng trà Aladin tại ngõ Hàng Bột. Cuối năm 2004, Thanh Hoa khai trương phòng trà ca nhạc Aladin 2 tại khách sạn Thắng Lợi. Ngoài một số ca sĩ của dòng nhạc đỏ như Trọng Tấn, Đăng Dương, Việt Hoàn... những ca sĩ nhạc trẻ như Khánh Linh, Tùng Dương cũng biểu diễn ở đây.

Một phòng trà đặc biệt khác là Lý club trên phố Lý Thường Kiệt. Đây là một phòng trà nhỏ, sang trọng, chủ yếu dành cho nhạc dân gian truyền thống của miền Bắc như chèo, tuồng, ca trù, chầu văn, xẩm, quan họ với nhiều khách du lịch. Ngoài ra các vũ trường như New Century, Hồ Gươm Xanh cũng có các ca sĩ ban nhạc biểu diễn.

Ngoài Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, một số thành phố khác cũng có các phòng trà ca nhạc như violon- Mục Đồng [41 Hùng Vương] với phong cách nhạc trữ tình và vẫn giữ được phong cách xưa,... ở Huế, Cung Tơ Chiều ở Đà Lạt.

  • Quán trà
  • Tân nhạc Việt Nam
  • Quán cô đầu
  • Cà phê thời trang
  • Cà phê sách

  • Bài 3: Nhìn lại phòng trà ca nhạc Việt Lưu trữ 2007-04-27 tại Wayback Machine
  • Phòng trà Sài Gòn "thế hệ 2"
  • Phòng trà ca nhạc Hà Nội: Không "sao" đèn vẫn sáng... Lưu trữ 2007-09-23 tại Wayback Machine
  • Thanh Hoa - người đàn bà hát nhạc đỏ

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Phòng_trà_ca_nhạc&oldid=65102042”

Video liên quan

Chủ Đề