Các loại nguồn điều chỉnh thương mại dịch vụ quốc tế.

Hợp đồng thương mại quốc tế

      Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, bản thân nó đã chứa đựng những vấn đề tình huống có thể phát sinh không thể dự kiến. Do vậy, trong mỗi hợp đồng, doanh nghiệp cần phải bổ sung cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế một cơ sở pháp lý cụ thể bằng cách lựa chọn nguồn luật áp dụng. Có rất nhiều nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế như: luật nước người bán, luật nước người mua, luật của bất kỳ một nước thứ 3 nào hoặc điều ước quốc tế hoặc tập quán thương mại quốc tế hoặc cả án lệ. Tuy nhiên doanh nghiệp cần lựa chọn nguồn luật nào thích hợp nhất để bảo vệ được quyền lợi của mình?

* Nguồn luật quốc gia.

      Nguồn luật quốc gia được áp dụng cho hợp đồng trong nếu:

      - Trong hợp đồng quy định. Chẳng hạn như khi các bên thỏa thuận “ Mọi vấn đề không được quy định hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng này sẽ được giải quyết theo luật Việt Nam” thì khi tranh chấp phát sinh, các bên và tòa án sẽ áp dụng theo luật Việt Nam để giải quyết.

     - Khi tòa án hoặc trọng tài quyết định: Khi tranh chấp xảy ra, nếu các bên không có thỏa thuận về luật điều chỉnh thì Hội đồng Trọng tài sẽ quyết định.

* Lựa chọn tập quán thương mại.

      Tập quán thương mại là những thói quen, phong tục về thương mại được nhiều nước áp dụng và áp dụng một cách thường xuyên với nội dung rõ ràng để dựa vào đó xác bên xác định quyền và nghĩa vụ với nhau. Hiện nay tập quán thương mại quốc tế bao gồm:

      - Tập quán thương mại quốc tế chung: là tập quán thương mại được nhiều quốc gia công nhận và áp dụng ở nhiều nơi và nhiều khu vực trên thế giới như: INCOTERM năm 2010, UCP 500 do ICC ban hành đưa ra các quy tắc để thực hành thống nhất về thư tín dụng.

      - Tập quán thương mại địa phương được áp dụng ở từng nước, từng khu vực hoặc từng cảng. Ví dụ: ở Hoa Kỳ có điều kiện cơ sở giao hàng FOB [trong định nghĩa ngoại thương của Mỹ sửa đổi năm 1941], có 6 loại FOB. Chẳng hạn, với FOB người chuyên chở nội địa quy định tại điểm khởi hành nội địa quy định [named inland carrier at named inland point ofdeparture], người bán chỉ có nghĩa vụ đặt hàng hóa trên hoặc trong phương tiện chuyên chở hoặc giao cho người chuyên chở nội địa để bốc hàng.

* Điều ước quốc tế.

      Một khi tranh chấp phát sinh trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà vấn đề liên quan đến tranh chấp không được quy định hoặc quy định không đầy đủ thì các bên có thể dựa vào điều ước quốc tế về kinh doanh thương mại.

     - Điều ước quốc tế song phương như Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Việt Nam – Nhật Bản, có thể là đa phương như Hiệp định GATT, GATS trong khuôn khổ WTO, Hiệp định TPP, FTA.... Những điều ước quốc tế này không điều chỉnh các vấn đề về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể của các bên trong hợp đồng kinh doanh quốc tế mà chỉ nêu những nguyên tắc pháp lý có tính chất chỉ đạo như nguyên tắc đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc... nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các thương nhân thực hiện hoạt động kinh doanh quốc tế.

     - Điều ước quốc tế trực tiếp điều chỉnh những vấn đề liên quan đến quyền hạn, nghĩa vụ, và trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện hợp đồng kinh doanh quốc tế. Loại điều ước quốc tế này có vai trò giúp các bên có thể giải quyết được tranh chấp cụ thể đã phát sinh từ hợp đồng ký kết. Ví dụ, Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế, Công ước Hamburg năm 1978 của Liên Hợp quốc về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển…

BAN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ - HANOILAW FIRM

Chuyên viên phụ trách: Trương Thị Thương – 0965.638.141

Luật sư tư vấn: Ls. Phạm Văn Khánh – 0912.518.062

Bài cùng chuyên mục

Các loại nguồn của pháp luật được gộp lại trong hai loại lớn hơn – đó là nguồn pháp luật thành văn và nguồn pháp luật bất thành văn. Văn bản  quy phạm pháp luật hay các văn bản lập pháp và các văn bản lập pháp ủy quyền được xem là nguồn pháp luật thành văn. Các nguồn còn lại được xếp vào nguồn pháp luật bất thành văn vì chúng không được ban hành vào một thời điểm cụ thể bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Thực chất theo nghĩa pháp lý, luật thành văn là một tập hợp các quy tắc xử sự được ghi nhận hay quy định trong một hình thức văn bản nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo đúng trình tự và thẩm quyền tại một thời điểm xác định. Các quy tắc xuất hiện thiếu một trong các đặc tính như vậy được xem là luật bất thành văn. Tập quán pháp là một trong những loại nguồn pháp luật bất thành văn, nhưng nhiều khi được người ta tập hợp và ghi chép lại dưới dạng văn bản, chẳng hạn như những sách nói về luật tục của đồng bào các dân tộc ít người hay những sách ghi chép các quy tắc tập quán thương mại do một hoặc một số tác giả nghiên cứu, sưu tập và xuất bản.

1. Tập quán thương mại quốc tế là gì?

Tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Cũng có rất nhiều loại tập quán thương mại được áp dụng trên thế giới và từng vùng địa lý.

Trong buôn bán quốc tế, tập quán thương mại có tác dụng không những giải thích những điều khoản của hợp đồng, mà còn hướng dẫn việc thực hiện các hợp đồng đó và bổ sung cho hợp đồng những điều khoản mà các bên chưa quy định hoặc quy định chưa cụ thể. Tập quán thương mại có thể là tập quán ngành của một ngành cụ thể, tập quán địa phương, tập quán chung của cả nước hay tập quán quốc tế.

Tập quán thương mại quốc tế cũng là một trong những nguồn luật cơ bản điều chỉnh hợp đồng kinh doanh quốc tế. Tập quán thương mại quốc tế, trước tiên là những thói quen thương mại được công nhận rộng rãi. Những thói quen thương mại sẽ được công nhận và trở thành tập quán thương mại khi thỏa mãn 3 yêu cầu sau:

– Là một thói quen phổ biến, được nhiều nước áp dụng và áp dụng thường xuyên;

– Về từng vấn đề và ở từng địa phương, đó là thói quen duy nhất;

– Là một thói quen có nội dung rõ ràng mà người ta có thể dựa vào đó để xác định quyền và nghĩa vụ đối với nhau.

Thông thường, các tập quán quốc tế được chia thành 3 nhóm: các tập quán có tính chất nguyên tắc, các tập quán quốc tế chung và các tập quán thương mại khu vực.

Tập quán có tính chất nguyên tắc là những tập quán cơ bản, bao trùm, được hình thành trên cơ sở của những nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và bình đẳng giữa các dân tộc. Ví dụ, tập quán “được quyền chọn luật” cho phép các đương sự được quyền chọn luật nước ngoài để điều chỉnh cho hợp đồng mà mình ký; tập quán “luật quốc tịch” quy định pháp nhân mang quốc tịch nước nào thì địa vị pháp lý của nó do luật nước đó quy định; tập quán “tòa án hoặc trọng tài nước nào khi giải quyết tranh chấp có quyền áp dụng các quy tắc tố tụng của nước đó”.

Xem thêm: Tập quán pháp là gì? Lấy ví dụ và điều kiện áp dụng tập quán pháp?

Tập quán thương mại quốc tế chung là các tập quán thương mại được nhiều nước công nhận và được áp dụng ở nhiều nơi, nhiều khu vực. Ví dụ như các điều kiện thương mại quốc tế do Phòng Thương mại Quốc tế [ICC] tập hợp và soạn thảo trong đó quy định các điều kiện thương mại khác nhau [như điều kiện FOB, CFR…] được rất nhiều nước trên thế giới thừa nhận và áp dụng. INCOTERMS được ban hành lần đầu tiên vào năm 1936, và phiên bản gần đây nhất là INCOTERMS năm 2010.

Các tập quán thương mại khu vực [địa phương] là các tập quán thương mại quốc tế được áp dụng ở từng nước, từng khu vực. Ví dụ, ở Hoa Ký cũng có điều kiện giao hàng FOB nhưng nghĩa vụ của người bán theo FOB của Hoa Kỳ sẽ nặng hơn nhiều so với điều kiện FOB trong Incoterms của ICC.

Tập quán thương mại quốc tế sẽ được áp dụng cho hợp đồng kinh doanh quốc tế trong các trường hợp sau:

– Khi chính hợp đồng kinh doanh quốc tế quy định;

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568

– Khi các điều ước quốc tế liên quan quy định;

– Khi luật thực chất [luật quốc gia] do các bên thỏa thuận lựa chọn, không có quy định hoặc có quy định nhưng không đầy đủ về vấn đề tranh chấp.

Xem thêm: Mẫu hợp đồng thương mại quốc tế, mua bán hàng hoá quốc tế mới nhất năm 2022

Khi áp dụng tập quán thương mại quốc tế, các bên cần phải chứng minh nội dung của tập quán đó. Bởi vậy, sẽ thuận lợi hơn nếu các bên có được thông tin đầy đủ về tập quán thương mại khi họ bước vào đàm phán ký kết hợp đồng kinh doanh quốc tế.

2. Áp dụng tập quán thương mại quốc tế:

Mặc dù đều coi trọng pháp điển hóa và xây dựng các bộ luật mà mỗi bộ luật cố gắng bao quát các quy tắc của cả một ngành luật, nhưng việc áp dụng các bộ luật trong sự cân đối với áp dụng các tập quán cũng có sự khác nhau ở các nước thuộc Civil Law. Nói đơn giản, nguồn của pháp luật là nơi chứa đựng các quy tắc pháp luật hoặc các giải pháp pháp lý để áp dụng cho các trường hợp tranh chấp xảy ra trong tương lai. Về mặt lý luận, nguồn của pháp luật được xem là hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật. Các luật gia Việt Nam quan niệm hình thức pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để thể hiện ý chí của giai cấp mình thành pháp luật, và nhận định: “Trong lịch sử đã có ba hình thức được các giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí của giai cấp mình thành pháp luật là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật ”. Trong khi đó, các luật gia trên thế giới có quan niệm rộng rãi hơn về nguồn của pháp luật, có thể bao gồm:

[1] Văn bản pháp luật: văn bản lập pháp và văn bản lập pháp ủy quyền;

[2] Tiền lệ pháp: báo cáo pháp luật và án lệ;

[3] Tập quán pháp;

[4] Thói quen ứng xử;

[5] Hợp đồng giữa các bên;

[6] Học thuyết pháp lý;

Xem thêm: Thương mại quốc tế là gì? Đặc điểm và khái quát về thương mại quốc tế?

[7] Lẽ công bằng.

Tập quán pháp là một trong những loại nguồn pháp luật bất thành văn, nhưng nhiều khi được người ta tập hợp và ghi chép lại dưới dạng văn bản. Dựa trên vai trò của các loại nguồn trong các hệ thống pháp luật cụ thể, nguồn pháp luật có thể được phân loại thành nguồn chính thức và nguồn bổ sung.

Trong các truyền thống pháp luật và trong các hệ thống pháp luật cụ thể, việc chấp nhận các loại nguồn pháp luật và thứ tự ưu tiên các loại nguồn có thể khác nhau. Tuy nhiên, tập quán pháp được xem là một loại nguồn pháp luật ở hầu hết các nền tài phán. Tập quán pháp có thể được xem là loại nguồn chính thức trong hệ thống pháp luật này, nhưng có thể được xem là loại nguồn bổ sung trong hệ thống pháp luật khác.

Trong thương mại quốc tế, Unidroit xuất phát từ quan niệm: tập quán nếu được áp dụng ràng buộc các bên như các điều khoản ngầm định trong hợp đồng, do đó xem tập quán có giá trị áp dụng cao hơn những quy định của Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế. Theo nghĩa này, tập quán có thứ tự ưu tiên áp dụng cao hơn các quy định của luật thành văn, bởi lẽ khi có một tranh chấp xảy ra giữa các bên trong quan hệ hợp đồng, thì hợp đồng phải là nguồn pháp luật đầu tiên được xem xét để rút ra các giải pháp để giải quyết tranh chấp.

3. Vai trò của tập quán trong thương mại quốc tế:

Trong quan hệ thương mại quốc tế, tập quán có thể được áp dụng nếu đáp ứng được những điều kiện sau: Các bên trong hợp đồng có thỏa thuận sử dụng; Luật quốc gia do các bên trong hợp đồng lựa chọn không có hoặc có nhưng không đầy đủ để giải quyết vấn đề phát sinh; Điều ước quốc tế có liên quan không quy định về vấn đề xảy ra.

Đóng vai trò bổ trợ, tập quán không những giải thích những điều khoản của hợp đồng mà còn hướng dẫn việc thực hiện các hợp đồng đó và bổ sung cho hợp đồng những điều khoản mà các bên chưa quy định hoặc quy định chưa cụ thể.

Tập quán, với tính chất là những thói quen, phong tục trong thương mại được áp dụng một cách thường xuyên, nội dung tường minh, có thể đảm nhiệm vai trò này. Tập quán thương mại trong việc hình thành nên các quyết định xét xử với ý nghĩa là một loại nguồn phổ biến.

Không những bổ trợ cho hợp đồng, tập quán còn có thể đứng độc lập như một nguồn luật, cùng các nguồn luật khác [luật quốc gia, điều ước quốc tế hay thậm chí kể cả án lệ] giải quyết những vấn đề phát sinh trong thương mại quốc tế. Vì rằng một nguồn luật khó có thể độc lập giải quyết một sự việc, việc kết hợp các nguồn luật khác nhau là để bổ sung cho nhau, giải quyết chặt chẽ mọi vấn đề.

Xem thêm: Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và tập quán quốc tế

Vai trò tuy quan trọng là vậy, nhưng các bên trong quan hệ thương mại quốc tế cũng cần hết sức cân nhắc khi lựa chọn một bộ tập quán nào để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Bởi lẽ, tập quán hiện có rất nhiều, và nội dung của tập quán có thể gây nhầm lẫn, dẫn đến việc áp dụng sai nếu nghiên cứu chưa kỹ.

Ngoài những tập quán bất thành văn như nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, tôn trọng bình đẳng dân tộc, hiện naycòn có một số tập quán thành văn được sử dụng rộng rãi trong hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam và các nước như tập quán trong giao hàng [Incoterms], tập quán thanh toán [UCP 500], ngoài ra còn có các tập quán trong việc vận chuyển hàng hóa quốc tế, bảo hiểm,…Tập quán không chỉ bù đắp các khiếm khuyết của luật thành văn trong việc điều tiết các quan hệ dân sự, thương mại, mà còn có vai trò quan trọng trong việc phát triển các loại nguồn pháp luật khác như: văn bản QPPL, tiền lệ pháp, học thuyết pháp lý và lẽ công bằng. Tập quán nói chung và tập quán thương mại nói riêng còn có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của tiền lệ pháp.

Video liên quan

Chủ Đề