Cách giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay

Những thành tựu cơ bản trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước

Quyền bình đẳng của các dân tộc được đảm bảo trên các lĩnh vực chính trị, trong các quan hệ xã hội và trước pháp luật; các dân tộc ngày càng hiểu biết tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố và tăng cường, các dân tộc gắn bó bên nhau, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ưu tiên đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu, như: giao thông, nước cho sinh hoạt và sản xuất, điện, thông tin liên lạc, trạm xá, các thiết chế văn hóa, y tế, trường, lớp học đã làm thay đổi rõ rệt bộ mặt nông thôn vùng dân tộc thiểu số [DTTS], miền núi [98% xã có đường ô tô đến trung tâm, 98,5 xã có trạm y tế, 100% xã có điện, 94% xã có điện lưới quốc gia, 90% xã được phủ sóng phát thanh - truyền hình, 100% xã có trường mầm non, tiểu học và THCS]. Sản xuất ngày càng phát triển; đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào DTTS được nâng lên từng bước, tỷ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt [theo tiêu chí cũ: tỷ lệ hộ nghèo trong DTTS giảm khá nhanh, từ 60% năm 2002 xuống còn 23% năm 2015. Các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a giảm bình quân 5%, từ 43,89% năm 2012 xuống còn 38,89% năm 2014, trong khi cả nước là 2%. Theo tiêu chí mới năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo trong DTTS còn khoảng 23,1%].

Sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực cho các DTTS có nhiều tiến bộ, đạt thành tựu to lớn. Đến nay, đã cơ bản xóa mù chữ và phổ cập giáo dục bậc Tiểu học, THCS; các loại hình trường nội trú, bán trú phát triển, tạo điều kiện cho các DTTS phát triển giáo dục, nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực. Đời sống văn hóa, tinh thần của các DTTS ở các vùng, miền có nhiều khởi sắc; các giá trị văn hóa dân tộc tốt đẹp được quan tâm bảo tồn và phát huy [khôi phục các Lễ hội truyền thống, tổ chức Ngày hội văn hóa của các dân tộc; hình thành và bước đầu hoạt động có hiệu quả Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam, tổ chức trình diễn trang phục truyền thống các dân tộc Việt Nam,…]. Lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe vùng DTTS được cải thiện góp phần nâng cao sức khỏe, thể trạng và chất lượng dân số; đồng bào nghèo được khám, chữa bệnh miễn phí và hưởng chính sách bảo hiểm y tế theo quy định; mạng lưới y tế ở vùng DTTS phát triển.

Một số vấn đề về dân tộc và những hạn chế, khó khăn trong vùng dân tộc thiểu số, miền núi hiện nay

Vùng dân tộc, miền núi vẫn là vùng kinh tế chậm phát triển, đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng. Khoảng cách thu nhập và đời sống giữa đồng bào dân tộc thiểu số với thu nhập và mức sống chung của xã hội tiếp tục bị doãng ra [tỷ lệ nghèo DTTS 23,1%, cận nghèo 13,6%, cao gấp 4 lần so với mức bình quân chung của cả nước]; Tỷ lệ tảo hôn DTTS 26,6%, trong đó có 19 dân tộc trên 40%, cao nhất 73%; tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên không biết đọc, không biết viết chữ phổ thông là 20,8%, có 6 dân tộc trên 50%, cao nhất là 65,6…

Việc đầu tư cho vùng dân tộc, miền núi dàn trải, chưa có trọng tâm, trọng điểm, ở một số địa phương hiệu quả còn thấp. Chất lượng cơ sở kỹ thuật hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu còn yếu kém, bao gồm: điện, trường - lớp học, trạm xá, nhà sinh hoạt cộng đồng, mạng thông tin truyền thông; giao thông, nước cho sinh hoạt và sản xuất [năm 2017 cả nước có trên 7.500 công trình hồ chứa có dung tích từ 50.000m3 trở lên, trong đó có 1.150 hồ chứa đang bị hư hỏng, xuống cấp, nguy cơ mất an toàn cao], còn nhiều thôn, bản ở các vùng miền núi phía Bắc và phía Đông dãy Trường Sơn, việc đi lại của đồng bào còn nhiều khó khăn...

Những vấn đề bức xúc về đất ở, đất sản xuất, di cư tự do, tàng trữ, buôn bán, sử dụng các chất ma tuý, buôn bán người… diễn biến phức tạp, chưa được giải quyết triệt để. Các hộ đồng bào DTTS nhiều vùng nông thôn trên cả nước còn thiếu đất ở [80.960 hộ, tỷ lệ 2,74% hộ DTTS], đất sản xuất [221.754 hộ, tỷ lệ 7,49% số hộ DTTS] vẫn rất bức xúc, dẫn đến hàng vạn người thuộc các hộ nghèo đứng trước nguy cơ bị bần cùng hóa tuyệt đối. Tình trạng du canh du cư vẫn còn tồn tại ở một số tỉnh miền núi phía Bắc [năm 2014 còn 1.626 hộ với 5.396 người sống du canh du cư]. Hàng vạn hộ dân di cư tự do và cư trú phân tán, nhất là ở các tỉnh miền núi còn phức tạp kéo dài, dẫn đến hệ lụy rừng bị tàn phá; quản lý xã hội về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và ANCT-TTXH rất khó khăn; tỷ suất vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng trên đầu người ở những vùng này rất cao, song hiệu quả sử dụng lại rất thấp.

Bản sắc văn hóa của nhiều dân tộc đang đứng trước nguy cơ mai một và bị đồng hóa dần [dân tộc Thủy bị đồng hóa vào dân tộc Pà Thẻn; dân tộc Ơ Đu chủ yếu sử dụng tiếng Thổ là chính, chỉ còn dưới 10 người biết tiếng Ơ Đu]. Một số dân tộc đã và đang có nguyện vọng, đòi hỏi “trả lại” tộc danh cho dân tộc mình. Trong đời sống thường ngày ở nhiều vùng, văn hóa, vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển. Thông tin, tuyên truyền về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của cả nước đến với các vùng này còn hạn chế.

Trên nhiều lĩnh vực, những tàn dư tư tưởng “dân tộc lớn”, “dân tộc hẹp hòi”, “tự ti dân tộc”, tư tưởng “địa phương chủ nghĩa, cục bộ” ngày càng bộc lộ với các biểu hiện, thủ đoạn tinh vi, rất khó bị vạch trần để xóa bỏ tận gốc. Các đối tượng lưu vong và nước ngoài, cùng số đối tượng phản động trong nước đã và đang lợi dụng những khó khăn và bất cập vùng các DTTS để kích động, tuyên truyền lôi kéo đồng bào DTTS, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc và gây mất ổn định ở các vùng DTTS.

Đề xuất, kiến nghị một số nội dung về chính sách dân tộc

1. Để thể chế hóa một cách đầy đủ, toàn diện đường lối, chủ trương của Đảng và các quy định của Hiến pháp về lĩnh vực dân tộc, chính sách dân tộc, đảm bảo thực hiện các điều ước và cam kết quốc tế, trên cơ sở các quy định của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, cần thiết phải xây dựng các văn bản luật, làm công cụ pháp lý để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc.

2. Về đầu tư quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật thiết yếu trong vùng DTTS: Cần kiên định xây dựng các điểm dân cư tập trung có trên 40 hộ trở lên ở các vùng DTTS dễ bị thiên tai đe dọa [sạt lở đất, lũ ống, lũ quét]. Sớm khắc phục cơ bản tình hình dân cư phân tán vài ba hộ trên một quả núi như ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Ưu tiên hỗ trợ, giúp đỡ quy hoạch, xây dựng hoàn thiện các Trung tâm xã và Trung tâm cụm xã để làm nhiệm vụ là động lực, là trung tâm phát triển, làm đầu kéo thúc đẩy cả xã và vùng sâu, vùng xa phát triển. Sớm có văn bản quy phạm pháp luật quy định giới hạn tối đa, tối thiểu về dân số và diện tích đơn vị làng, bản các DTTS ở miền núi. Kiên trì và kiên quyết đưa tất cả các hộ dân ra khỏi các vùng dễ bị thiên tai đe dọa.

3. Tập trung các giải pháp [luật, chính sách, tuyên truyền, vận động, xử phạt hành chính, hình sự…] giải quyết cơ bản, dứt điểm tình trạng di cư tự do vào các khu rừng tự ý phá rừng, dựng nhà, lập làng; tái du canh dư cư. Kiên quyết đưa tất cả các hộ dân ra khỏi các vùng lõi, vùng trọng điểm bảo vệ của rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Đổi mới việc quản lý đất đai và rừng trong vùng DTTS, để đảm bảo người dân biết sản xuất và làm giàu từ rừng, quản lý bảo vệ và phát triển được diện tích rừng; quản lý tài nguyên và đảm bảo môi trường hiện nay ở các vùng DTTS.

4. Đầu tư, hỗ trợ các DTTS phát triển sản xuất hàng hóa, hội nhập vào kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Đẩy mạnh việc dạy nghề và tạo việc làm phi nông nghiệp cho lao động DTTS, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào vùng DTTS. Đầu tư giúp các DTTS khắc phục những khó khăn đặc thù, những khó khăn lớn, kéo dài nhiều năm có tính phổ biến, tập trung chỉ trong một hoặc một nhóm vài dân tộc, ví dụ như: tệ nạn nghiện hút, nạn tảo hôn, hôn nhân cận huyết, suy giảm dân số, tỷ lệ hộ nghèo trên 40% [nhóm các dân tộc nghèo cùng cực], nguy cơ mất văn hóa dân tộc, mất tiếng nói…

5. Phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho các DTTS đảm bảo yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực cho thời kỳ công nghiệp 4.0; đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ cơ sở vùng DTTS, nhất là đối với cán bộ người DTTS tại chỗ [người dân tộc gốc ở địa phương]. Chăm lo bồi dưỡng, sử dụng nhân tài và phát huy vai trò của người có uy tín trong các DTTS trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chăm lo sức khỏe nhân dân, nâng cao chất lượng dân số, thực hiện kế hoạch hóa gia đình trong vùng DTTS.

6. Chăm lo xây dựng đời sống văn hóa mới, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các DTTS, đồng thời, xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, giống nòi, cản trở phát triển sản xuất… Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nghệ nhân dân gian của các DTTS. Nhà nước cần xác định lại tộc danh cho một số dân tộc [Pa hy trong Pa Ko, dân tộc Ka dong trong Xê đăng…].

Vũ Dương Châu

Trưởng ban Dân tôc, UBTƯ MTTQ Việt Nam

Trang chủ|Tin mới|Hỏi đáp|Sơ đồ site|Hộp thưTIẾNG VIỆT|ENGLISH
TỔNG QUAN
Hệ thống các cơ quan làm công tác dân tộc

Quá trình hình thành và phát triển Uỷ ban Dân tộc Thủ trưởng các cơ quan làm công tác dân tộc qua các thời kỳ Chức năng nhiệm vụ Ủy ban Dân tộc Cơ cấu tổ chức Uỷ ban Dân tộc Danh bạ điện thoại Ủy ban Dân tộc Ban Dân tộc các tỉnh

Hoạt động của UBDT

Hoạt động của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Giàng Seo Phử Thông tin chỉ đạo, điều hành Lịch làm việc của lãnh đạo 65 năm Cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ nhất Phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí Vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số và miền núi Trình diễn trang phục truyền thống cộng đồng các dân tộc Việt Nam lần thứ I năm 2011

Văn kiện của Đảng về Chính sách dân tộc Bác Hồ với đồng bào DT Đại biểu Quốc hội là người DTTS các khóa

Khóa XI Khóa XII

Các Dân tộc Việt Nam

Đại gia đình các dân tộc Việt Nam Khái quát đời sống kinh tế - xã hội theo nhóm ngôn ngữ Một số thông tin cơ bản các tỉnh vùng dân tộc và miền núi Hình ảnh cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam Bức tranh văn hoá các dân tộc Việt Nam

Ấn phẩm về lĩnh vực công tác dân tộc

Các Báo và Tạp chí tham gia tuyên truyền cho công tác dân tộc Truyền hình tiếng dân tộc - VTV5 Hệ phát thanh tiếng dân tộc - VOV4 Truyền hình tiếng Khmer Các chương trình và dự án đã phê duyệt

Văn bản về lĩnh vực Công tác dân tộc
TIN MỚI
Dân tộc Online

Thời sự Bản tin ảnh Điểm báo

Tin Hoạt động

Hội nghị - Hội thảo Tin tức Tổng hợp

Chủ trương - Chính sách

Chủ trương - Chính sách Kết quả - Đánh giá

Thời sự - Chính trị

Trong nước Quốc tế

Nghiên cứu - Trao đổi Kinh tế - Xã hội

Kinh tế Xã hội Gương làm kinh tế giỏi

Y tế - Giáo dục

Y tế Giáo dục

Văn hoá - Thể thao

Văn hoá Thể thao Phong tục - Tập quán Ẩm thực

Công nghệ - Môi trường

Công nghệ Môi trường

Pháp luật Quốc tế
TÌM KIẾM

LIÊN KẾT

19/05/2011
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc trong các văn kiện thời kỳ đổi mới
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, trong lịch sử cũng như hiện tại, vấn đề dân tộc là vấn đề lớn và việc nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề này có ảnh hưởng lớn tới sự ổn định và phát triển của quốc gia và tính bền vững của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - động lực cơ bản của sự phát triển đất nước.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt nền móng cho việc giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề dân tộc được C.Mác và Ph.Ăngghen xem là một bộ phận của hệ vấn đề dân tộc và giai cấp, tức là các ông xem xét vấn đề dân tộc dưới góc độ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản. Các ông nhấn mạnh rằng: xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Đến V.I.Lênin, vấn đề dân tộc được đặt ra một cách trực tiếp khi Người và Đảng Bônsêvích lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười vĩ đại và sau đó, lãnh đạo công cuộc bảo vệ thành quả Cách mạng, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin đã đề ra các nguyên tắc cho việc giải quyết vấn đề dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc, trong đó Người đặc biệt nhấn mạnh về quyền bình đẳng và quyền tự quyết của tất cả các dân tộc, chống mọi đặc quyền của bất kỳ dân tộc nào đối với dân tộc khác, không thừa nhận quan hệ có tính chất áp đặt giữa các dân tộc.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã coi trọng và làm tốt chính sách dân tộc và đại đoàn kết dân tộc, góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, những thời cơ và thách thức mới cùng với những tác động từ bên ngoài và cả những vấn đề nảy sinh trong nước đòi hỏi vấn đề dân tộc phải được nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn.

Ngay từ trước đổi mới, tại Đại hội IV - Đại hội đầu tiên khi đất nước thống nhất sau 30 năm tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc với sự huy động sức mạnh của toàn dân tộc trong đó đồng bào các dân tộc thiểu số đã có những đóng góp hết sức to lớn cho cách mạng và kháng chiến, Đảng ta đã khẳng định “việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam”. Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa dân tộc ít người và dân tộc đông người, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đều phát triển về mọi mặt, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Và để thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, vấn đề mấu chốt là đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, ra sức phát triển kinh tế và văn hóa ở các vùng dân tộc, phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng các vùng kinh tế mới, các khu công nghiệp, mở mang giao thông vận tải và thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, khoa học, y tế, thể dục thể thao, bảo vệ bà mẹ và trẻ em,… nhanh chóng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc ít người, đặc biệt chú trọng vùng cao và vùng biên giới. Tiếp đó, Đại hội lần thứ V của Đảng nhấn mạnh việc “phải tăng cường hơn nữa khối đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ và cùng làm chủ tập thể”.

Đại hội VI của Đảng là Đại hội mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn điện đất nước. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội đã đánh giá những thành tựu đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội V của Đảng, thẳng thắn chỉ ra những khó khăn, thách thức, nêu rõ những sai lầm, khuyết điểm và rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu. Về vấn đề dân tộc, Đại hội khẳng định, “chính sách dân tộc luôn luôn là một bộ phận trọng yếu trong chính sách xã hội”. Đồng thời, Đại hội nhấn mạnh rằng, sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc. Tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc sẽ còn tồn tại lâu dài và là một lĩnh vực nhạy cảm. Trong khi xử lý các mối quan hệ dân tộc, phải có thái độ thận trọng đối với những gì liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc, tình cảm dân tộc của mỗi người. Chống những thái độ, hành động biểu thị tư tưởng “dân tộc lớn” và những biểu hiện của tư tưởng dân tộc hẹp hòi.

Sau Đại hội VI, trước những yêu cầu đòi hỏi của thực tế vùng dân tộc và miền núi, ngày 27/11/1989, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 22-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi đã góp phần thúc đẩy phát triển một bước quan trọng kinh tế - xã hội miền núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Tình hình thế giới những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX có những biến động to lớn. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ gây bất lợi cho phong trào cách mạng thế giới trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Đảng ta tiến hành Đại hội lần thứ VII. Đại hội VII của Đảng đã tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, hoàn chỉnh, bổ sung và phát triển các chủ trương đổi mới của Đại hội VI, đề ra các phương hướng, nhiệm vụ lớn cho 5 năm 1991 - 1995 và đặc biệt thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Điểm mới trong văn kiện Đại hội VII là ở chỗ, lần đầu tiên, chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc đã được Đảng ta đưa vào trong Cương lĩnh của Đảng với tên gọi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh ghi rõ: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”. Đại hội cũng khẳng định chính sách đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, khẳng định việc phải có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Trên cơ sở các quan điểm cơ bản của Đảng về vấn đề dân tộc, Hiến pháp 1992, một lần nữa, khẳng định về quyền bình đẳng giữa các dân tộc ở nước ta.

Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go, đã có những thay đổi to lớn và sâu sắc so với thời kỳ bắt đầu đổi mới. Đại hội VIII của Đảng diễn ra vào thời điểm có ý nghĩa lịch sử đó. Đại hội khẳng định: “Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991 - 1995 đã được hoàn thành về cơ bản”. Về vấn đề dân tộc, Đại hội nhấn mạnh: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn”. Thực hiện “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ” giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những khó khăn của đồng bào các dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng cao, đó là: “điều kiện sống và dịch vụ, hạ tầng cực kỳ khó khăn, đất nông nghiệp thiếu, chưa đủ điều kiện tiến lên sản xuất hàng hóa; GDP bình quân đầu người năm 1994 chỉ bằng 31% mức trung bình cả nước. Mật độ đường giao thông chỉ có 0,09km/km2, còn 464 xã chưa có đường ô tô đến”. Trước thực tế đó, Đại hội đã đề ra chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc với mục tiêu khai thác mọi nguồn lực ở địa phương và huy động sức của cả nước để tạo bước tiến nhanh hơn về kinh tế - xã hội, ổn định đời sống, cải thiện môi trường, môi sinh. Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với tốc độ bằng hoặc cao hơn mức bình quân chung của cả nước; năm 2000 GDP bình quân đầu người đạt gấp đôi năm 1994. Các khu vực miền núi và vùng đồng bào dân tộc đều phải có bước phát triển, khu vực có điều kiện thuận lợi phải phát triển với tốc độ cao hơn để thúc đẩy, hỗ trợ các khu vực khác cùng phát triển. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển xã hội - văn hóa, bảo đảm an ninh - quốc phòng, phấn đấu giảm bớt khoảng cách giữa các vùng về mặt tiến bộ xã hội. Đồng thời, Đại hội đã đề ra các nhiệm vụ cụ thể về phát triển công nghiệp chế biến, phát triển công nghiệp nhỏ, thủ công nghiệp, nông - lâm nghiệp, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, dịch vụ và đưa ra các giải pháp chủ yếu để đạt mục tiêu nói trên trong đó nhấn mạnh việc nhà nước phải có biện pháp tập trung vốn ngân sách đầu tư theo chương trình tổng hợp và có sự chỉ đạo chặt chẽ giúp cho khu vực miền núi, vùng cao, vùng sâu phát triển nhanh.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng diễn ra trong bối cảnh thế kỷ XX vừa kết thúc, thế kỷ XXI vừa bắt đầu. Toàn Đảng và toàn dân ta đã trải qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 và 15 năm đổi mới. Đại hội IX đã kiểm điểm và đánh giá những thành tựu và khuyết điểm thời gian qua, đề ra những quyết sách cho thời kỳ tới, phấn đấu nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, động viên và phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vững bước đi vào thế kỷ mới.

Những năm đầu thế kỷ XXI, các thế lực thù địch ra sức lợi dụng những khó khăn và hạn chế của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là ở Tây Nguyên để dụ dỗ, lôi kéo đồng bào phá hoại khối đoàn kết dân tộc ở nước ta.

Đại hội IX của Đảng đặc biệt chú trọng vấn đề dân tộc và cụ thể hóa nhiều nội dung mới ở chỗ, nếu như Đại hội VIII coi vấn đề dân tộc là “vấn đề có vị trí chiến lược lớn” thì Đại hội IX khẳng định thêm: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”. Rằng, Đảng ta phải thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến; Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc.

Cụ thể hóa tư tưởng chiến lược được nêu trong Nghị quyết Đại hội IX và nâng cao hơn nữa nhận thức của các cấp, các ngành về công tác dân tộc, Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX [phần hai] đã ban hành Nghị quyết về công tác dân tộc. Điều này, một mặt, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc thiểu số và mặt khác cho thấy việc giải quyết vấn đề dân tộc đang là sự đòi hỏi cấp thiết và cần phải có những chỉ đạo kịp thời. Nghị quyết về công tác dân tộc đã đánh giá tình hình các dân tộc thiểu số và công tác dân tộc trong thời gian qua, những thành tựu cơ bản cùng với những hạn chế, yếu kém và nhất là đề ra những giải pháp chủ yếu để khắc phục những hạn chế, yếu kém đó. Nghị quyết khẳng định năm quan điểm cơ bản trong việc thực hiện công tác dân tộc ở nước ta: 1] Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam; 2] Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc; 3] Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất; 4] Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước; 5] Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.

Hiện thực hóa những quan điểm, giải pháp được nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy là việc các chương trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số được triển khai đã tạo đà quan trọng cho sự phát triển và làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Qua đó cho thấy những đổi thay trong thực tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số được bắt nguồn từ chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.

Tiếp tục tư tưởng của Nghị quyết về công tác dân tộc được thông qua tại Hội nghị lần thứ bảy, khóa IX, Đại hội X khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta”. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội nhấn mạnh việc Đảng và Nhà nước phải tiếp tục chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc đồng thời thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc.

Sau 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2010 cũng là lúc Đảng ta tiến hành Đại hội lần thứ XI. Đây là Đại hội có ý nghĩa trọng đại, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Vấn đề dân tộc tiếp tục được Đại hội XI của Đảng quan tâm. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta”. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [Bổ sung, phát triển năm 2011] nhấn mạnh: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”. Hiện nay, Nghị quyết của Đại hội XI trong đó có vấn đề dân tộc đang được các cấp, các ngành liên quan triển khai trong thực tế, đưa Nghị quyết vào cuộc sống.

Như vậy, xuyên suốt trong các nghị quyết của Đảng là tư tưởng khẳng định sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc ở nước ta, chống mọi sự kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng, với những chương trình đầu tư đồng bộ và có trọng điểm, miền núi và vùng đồng bào dân tộc đã có những đổi thay mạnh mẽ, vươn lên cùng với sự phát triển chung của đất nước.

Tuy nhiên, nếu như ở các Đại hội IX, X, Đảng ta khẳng định vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề cơ bản mang tính chiến lược của cách mạng Việt Nam thì ở Đại hội XI, Đảng ta coi đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Việc khẳng định như vậy là đúng đắn, cần thiết nhưng có lẽ là chưa đủ. Bởi, vấn đề dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao hàm nhiều nội dung chứ không thể chỉ là vấn đề đoàn kết các dân tộc. Cụm từ “đoàn kết các dân tộc” chỉ đề cập tới một trong những khía cạnh của vấn đề dân tộc, còn cụm từ “vấn đề dân tộc” bao hàm trong đó nội dung về “đoàn kết các dân tộc”.

Nhìn vào thực tiễn lịch sử thế giới cũng như hiện tại thấy rằng, vấn đề dân tộc là một vấn đề lớn, chứa đựng những phức tạp tiềm ẩn dễ bùng phát và rất dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng nếu Nhà nước không có những sự quan tâm cần thiết và những chính sách khôn khéo, đúng đắn. Việc Liên Xô sụp đổ là do nhiều nguyên nhân trong đó không thể không kể đến việc nước này đã không coi trọng đúng mức vấn đề dân tộc, chủ quan cho rằng vấn đề dân tộc đã được giải quyết xong, giờ chỉ còn phải giải quyết vấn đề giai cấp. Song, thực tế đã bác bỏ quan điểm sai lầm đó. Việc các nước cộng hòa lần lượt tuyên bố độc lập, tách ra khỏi Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, trên thực tế là tiếng chuông cảnh tỉnh cho các quốc gia đa dân tộc trong việc phải chú trọng tới vấn đề dân tộc.

Do đó, thiết nghĩ, cần phải tiếp tục khẳng định theo tư tưởng của Hội nghị lần thứ bảy khóa IX và của các Đại hội IX, X là: Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết các dân tộc là vấn đề có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Điều này không chỉ là vấn đề câu chữ mà có khẳng định như vậy mới bao quát và thấy hết những nội dung của vấn đề dân tộc để từ đó có những giải pháp chiến lược, cơ bản và có những chính sách đầu tư thỏa đáng nhằm tạo đà cho sự phát triển nhanh hơn của vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào - yếu tố cơ bản để xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc ở nước ta.

ThS. Đặng Đức Nghĩa
ThS. Nguyễn Đức Hoà

[ Quay lại ]

THÔNG BÁO

Quyết định Ban hành Quy định công tác số hóa văn bản đi, đến của Ủy ban Dân tộc [Xem nội dung chi tiết tại đây]

Thông báo về việc quản lý hộp thư điện tử của Ủy ban Dân tộc nhằm đảm bảo an ninh, an toàn thông tin. Nội dung chi tiết xem tại đây

TÌM NHANH

TIN MỚI CẬP NHẬT

Hội nghị tham vấn ý kiến các Bộ, ngành vào dự thảo văn kiện Chương trình 135 giai đoạn III

9 nhóm giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2013

Hà Giang: Năm 2012 có 6.748 hộ thoát nghèo

Ngành Công tác Dân tộc: Dấu ấn năm 2012

Thực trạng và một số giải pháp nhằm quản lý, sử dụng đất đai có hiệu quả ở Tây Nguyên

THÔNG TIN NỘI BỘ

DB điện thoại nội bộ
Danh sách cán bộ UB
Thư viện điện tử
CD 60 năm công tác DT
CEMA trên đĩa CDROM
CD đào tạo CNTT - CT135
CEMA trên UNDP
Năm quốc tế về miền núi

THÀNH VIÊN
Người online:
Khách:
Thành viên:
Tổng số: 0
Số người truy cập: 65,870,541

Cơ quan chủ quản : Uỷ ban Dân tộc. Giấy phép số : 455/GP-BC do Cục Báo chí - Bộ Văn hoá Thông tin cấp ngày 18/10/2004.
Bản quyền thuộc Ủy ban Dân tộc. Địa chỉ : Số 80, Phan Đình Phùng, Ba Đình, Hà Nội. Điện thoại : 04.37333511.
Khi đăng ký tài khoản người dùng trên website này, bạn đồng ý rằng bạn đã chấp nhận Chính sách đảm bảo an toàn thông tin cá nhân.
Website xem tốt nhất ở trình duyệt IE 5 trở lên, màn hình có độ phân giải 800x600 & Flash Player 8.
Phát triển dựa trên mã nguồn của phpNuke. Execution time: 0.2 secs

Video liên quan

Chủ Đề