Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, trong lịch sử cũng như hiện tại, vấn đề dân tộc là vấn đề lớn và việc nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề này có ảnh hưởng lớn tới sự ổn định và phát triển của quốc gia và tính bền vững của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - động lực cơ bản của sự phát triển đất nước. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt nền móng cho việc giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề dân tộc được C.Mác và Ph.Ăngghen xem là một bộ phận của hệ vấn đề dân tộc và giai cấp, tức là các ông xem xét vấn đề dân tộc dưới góc độ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản. Các ông nhấn mạnh rằng: xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Đến V.I.Lênin, vấn đề dân tộc được đặt ra một cách trực tiếp khi Người và Đảng Bônsêvích lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười vĩ đại và sau đó, lãnh đạo công cuộc bảo vệ thành quả Cách mạng, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin đã đề ra các nguyên tắc cho việc giải quyết vấn đề dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc, trong đó Người đặc biệt nhấn mạnh về quyền bình đẳng và quyền tự quyết của tất cả các dân tộc, chống mọi đặc quyền của bất kỳ dân tộc nào đối với dân tộc khác, không thừa nhận quan hệ có tính chất áp đặt giữa các dân tộc.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã coi trọng và làm tốt chính sách dân tộc và đại đoàn kết dân tộc, góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, những thời cơ và thách thức mới cùng với những tác động từ bên ngoài và cả những vấn đề nảy sinh trong nước đòi hỏi vấn đề dân tộc phải được nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn.
Ngay từ trước đổi mới, tại Đại hội IV - Đại hội đầu tiên khi đất nước thống nhất sau 30 năm tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc với sự huy động sức mạnh của toàn dân tộc trong đó đồng bào các dân tộc thiểu số đã có những đóng góp hết sức to lớn cho cách mạng và kháng chiến, Đảng ta đã khẳng định “việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam”. Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa dân tộc ít người và dân tộc đông người, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đều phát triển về mọi mặt, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Và để thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, vấn đề mấu chốt là đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, ra sức phát triển kinh tế và văn hóa ở các vùng dân tộc, phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng các vùng kinh tế mới, các khu công nghiệp, mở mang giao thông vận tải và thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, khoa học, y tế, thể dục thể thao, bảo vệ bà mẹ và trẻ em,… nhanh chóng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc ít người, đặc biệt chú trọng vùng cao và vùng biên giới. Tiếp đó, Đại hội lần thứ V của Đảng nhấn mạnh việc “phải tăng cường hơn nữa khối đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ và cùng làm chủ tập thể”.
Đại hội VI của Đảng là Đại hội mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn điện đất nước. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội đã đánh giá những thành tựu đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội V của Đảng, thẳng thắn chỉ ra những khó khăn, thách thức, nêu rõ những sai lầm, khuyết điểm và rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu. Về vấn đề dân tộc, Đại hội khẳng định, “chính sách dân tộc luôn luôn là một bộ phận trọng yếu trong chính sách xã hội”. Đồng thời, Đại hội nhấn mạnh rằng, sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc. Tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc sẽ còn tồn tại lâu dài và là một lĩnh vực nhạy cảm. Trong khi xử lý các mối quan hệ dân tộc, phải có thái độ thận trọng đối với những gì liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc, tình cảm dân tộc của mỗi người. Chống những thái độ, hành động biểu thị tư tưởng “dân tộc lớn” và những biểu hiện của tư tưởng dân tộc hẹp hòi.
Sau Đại hội VI, trước những yêu cầu đòi hỏi của thực tế vùng dân tộc và miền núi, ngày 27/11/1989, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 22-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi đã góp phần thúc đẩy phát triển một bước quan trọng kinh tế - xã hội miền núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Tình hình thế giới những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX có những biến động to lớn. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ gây bất lợi cho phong trào cách mạng thế giới trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Đảng ta tiến hành Đại hội lần thứ VII. Đại hội VII của Đảng đã tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, hoàn chỉnh, bổ sung và phát triển các chủ trương đổi mới của Đại hội VI, đề ra các phương hướng, nhiệm vụ lớn cho 5 năm 1991 - 1995 và đặc biệt thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Điểm mới trong văn kiện Đại hội VII là ở chỗ, lần đầu tiên, chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc đã được Đảng ta đưa vào trong Cương lĩnh của Đảng với tên gọi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh ghi rõ: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”. Đại hội cũng khẳng định chính sách đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, khẳng định việc phải có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Trên cơ sở các quan điểm cơ bản của Đảng về vấn đề dân tộc, Hiến pháp 1992, một lần nữa, khẳng định về quyền bình đẳng giữa các dân tộc ở nước ta.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go, đã có những thay đổi to lớn và sâu sắc so với thời kỳ bắt đầu đổi mới. Đại hội VIII của Đảng diễn ra vào thời điểm có ý nghĩa lịch sử đó. Đại hội khẳng định: “Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991 - 1995 đã được hoàn thành về cơ bản”. Về vấn đề dân tộc, Đại hội nhấn mạnh: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn”. Thực hiện “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ” giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những khó khăn của đồng bào các dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng cao, đó là: “điều kiện sống và dịch vụ, hạ tầng cực kỳ khó khăn, đất nông nghiệp thiếu, chưa đủ điều kiện tiến lên sản xuất hàng hóa; GDP bình quân đầu người năm 1994 chỉ bằng 31% mức trung bình cả nước. Mật độ đường giao thông chỉ có 0,09km/km2, còn 464 xã chưa có đường ô tô đến”. Trước thực tế đó, Đại hội đã đề ra chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc với mục tiêu khai thác mọi nguồn lực ở địa phương và huy động sức của cả nước để tạo bước tiến nhanh hơn về kinh tế - xã hội, ổn định đời sống, cải thiện môi trường, môi sinh. Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với tốc độ bằng hoặc cao hơn mức bình quân chung của cả nước; năm 2000 GDP bình quân đầu người đạt gấp đôi năm 1994. Các khu vực miền núi và vùng đồng bào dân tộc đều phải có bước phát triển, khu vực có điều kiện thuận lợi phải phát triển với tốc độ cao hơn để thúc đẩy, hỗ trợ các khu vực khác cùng phát triển. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển xã hội - văn hóa, bảo đảm an ninh - quốc phòng, phấn đấu giảm bớt khoảng cách giữa các vùng về mặt tiến bộ xã hội. Đồng thời, Đại hội đã đề ra các nhiệm vụ cụ thể về phát triển công nghiệp chế biến, phát triển công nghiệp nhỏ, thủ công nghiệp, nông - lâm nghiệp, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, dịch vụ và đưa ra các giải pháp chủ yếu để đạt mục tiêu nói trên trong đó nhấn mạnh việc nhà nước phải có biện pháp tập trung vốn ngân sách đầu tư theo chương trình tổng hợp và có sự chỉ đạo chặt chẽ giúp cho khu vực miền núi, vùng cao, vùng sâu phát triển nhanh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng diễn ra trong bối cảnh thế kỷ XX vừa kết thúc, thế kỷ XXI vừa bắt đầu. Toàn Đảng và toàn dân ta đã trải qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 và 15 năm đổi mới. Đại hội IX đã kiểm điểm và đánh giá những thành tựu và khuyết điểm thời gian qua, đề ra những quyết sách cho thời kỳ tới, phấn đấu nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, động viên và phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vững bước đi vào thế kỷ mới.
Những năm đầu thế kỷ XXI, các thế lực thù địch ra sức lợi dụng những khó khăn và hạn chế của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là ở Tây Nguyên để dụ dỗ, lôi kéo đồng bào phá hoại khối đoàn kết dân tộc ở nước ta.
Đại hội IX của Đảng đặc biệt chú trọng vấn đề dân tộc và cụ thể hóa nhiều nội dung mới ở chỗ, nếu như Đại hội VIII coi vấn đề dân tộc là “vấn đề có vị trí chiến lược lớn” thì Đại hội IX khẳng định thêm: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”. Rằng, Đảng ta phải thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến; Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc.
Cụ thể hóa tư tưởng chiến lược được nêu trong Nghị quyết Đại hội IX và nâng cao hơn nữa nhận thức của các cấp, các ngành về công tác dân tộc, Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX [phần hai] đã ban hành Nghị quyết về công tác dân tộc. Điều này, một mặt, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc thiểu số và mặt khác cho thấy việc giải quyết vấn đề dân tộc đang là sự đòi hỏi cấp thiết và cần phải có những chỉ đạo kịp thời. Nghị quyết về công tác dân tộc đã đánh giá tình hình các dân tộc thiểu số và công tác dân tộc trong thời gian qua, những thành tựu cơ bản cùng với những hạn chế, yếu kém và nhất là đề ra những giải pháp chủ yếu để khắc phục những hạn chế, yếu kém đó. Nghị quyết khẳng định năm quan điểm cơ bản trong việc thực hiện công tác dân tộc ở nước ta: 1] Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam; 2] Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc; 3] Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất; 4] Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước; 5] Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.
Hiện thực hóa những quan điểm, giải pháp được nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy là việc các chương trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số được triển khai đã tạo đà quan trọng cho sự phát triển và làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Qua đó cho thấy những đổi thay trong thực tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số được bắt nguồn từ chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.
Tiếp tục tư tưởng của Nghị quyết về công tác dân tộc được thông qua tại Hội nghị lần thứ bảy, khóa IX, Đại hội X khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta”. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội nhấn mạnh việc Đảng và Nhà nước phải tiếp tục chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc đồng thời thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc.
Sau 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2010 cũng là lúc Đảng ta tiến hành Đại hội lần thứ XI. Đây là Đại hội có ý nghĩa trọng đại, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề dân tộc tiếp tục được Đại hội XI của Đảng quan tâm. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta”. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [Bổ sung, phát triển năm 2011] nhấn mạnh: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”. Hiện nay, Nghị quyết của Đại hội XI trong đó có vấn đề dân tộc đang được các cấp, các ngành liên quan triển khai trong thực tế, đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
Như vậy, xuyên suốt trong các nghị quyết của Đảng là tư tưởng khẳng định sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc ở nước ta, chống mọi sự kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng, với những chương trình đầu tư đồng bộ và có trọng điểm, miền núi và vùng đồng bào dân tộc đã có những đổi thay mạnh mẽ, vươn lên cùng với sự phát triển chung của đất nước.
Tuy nhiên, nếu như ở các Đại hội IX, X, Đảng ta khẳng định vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề cơ bản mang tính chiến lược của cách mạng Việt Nam thì ở Đại hội XI, Đảng ta coi đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Việc khẳng định như vậy là đúng đắn, cần thiết nhưng có lẽ là chưa đủ. Bởi, vấn đề dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao hàm nhiều nội dung chứ không thể chỉ là vấn đề đoàn kết các dân tộc. Cụm từ “đoàn kết các dân tộc” chỉ đề cập tới một trong những khía cạnh của vấn đề dân tộc, còn cụm từ “vấn đề dân tộc” bao hàm trong đó nội dung về “đoàn kết các dân tộc”.
Nhìn vào thực tiễn lịch sử thế giới cũng như hiện tại thấy rằng, vấn đề dân tộc là một vấn đề lớn, chứa đựng những phức tạp tiềm ẩn dễ bùng phát và rất dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng nếu Nhà nước không có những sự quan tâm cần thiết và những chính sách khôn khéo, đúng đắn. Việc Liên Xô sụp đổ là do nhiều nguyên nhân trong đó không thể không kể đến việc nước này đã không coi trọng đúng mức vấn đề dân tộc, chủ quan cho rằng vấn đề dân tộc đã được giải quyết xong, giờ chỉ còn phải giải quyết vấn đề giai cấp. Song, thực tế đã bác bỏ quan điểm sai lầm đó. Việc các nước cộng hòa lần lượt tuyên bố độc lập, tách ra khỏi Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, trên thực tế là tiếng chuông cảnh tỉnh cho các quốc gia đa dân tộc trong việc phải chú trọng tới vấn đề dân tộc.
Do đó, thiết nghĩ, cần phải tiếp tục khẳng định theo tư tưởng của Hội nghị lần thứ bảy khóa IX và của các Đại hội IX, X là: Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết các dân tộc là vấn đề có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Điều này không chỉ là vấn đề câu chữ mà có khẳng định như vậy mới bao quát và thấy hết những nội dung của vấn đề dân tộc để từ đó có những giải pháp chiến lược, cơ bản và có những chính sách đầu tư thỏa đáng nhằm tạo đà cho sự phát triển nhanh hơn của vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào - yếu tố cơ bản để xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc ở nước ta.
ThS. Đặng Đức Nghĩa ThS. Nguyễn Đức Hoà
|