Cảm nhận của em về nhân vật nàng công chúa trong truyện cổ tích Vua chích chòe

Nhà vua chỉ có một người con gái. Công chúa đẹp tuyệt trần, nhưng vì vậy công chúa kiêu ngạo và ngông cuồng, không một ai vừa lòng nàng cả. Nàng chối từ hết người này đến người khác, không những vậy lại còn chế giễu, nhạo báng họ. Có một lần, nhà vua cho mời các chàng trao ở khắp các nước xa gần tới mở tiệc linh đình để chọn phò mã. Khách đứng thành hàng theo ngôi thứ, đứng trên cùng là vua các nước rồi các công tước, các ông hoàng, các bá tước, các nam tước, cuối cùng là những người dòng dõi quí tộc. Công chúa được dẫn đi xem mặt. Chẳng ai được công chúa tha, người nào nàng cũng có cớ để giễu cợt. Người thì nàng cho là quá mập, nàng đặt tên là thùng tô nô, người quá mảnh khảnh thì nàng nói, mảnh khảnh thế thì gió thổi bay, người thứ ba thì lại lùn, nàng chê: Lùn lại mập thì vụng về lắm, người thứ tư mặt mày xanh xao, bị đặt tên Nhợt nhạt như chết đuối, người thứ năm mặt đỏ như gấc, nàng gọi Xung đồng đỏ, người thứ sáu đứng dáng hơi cong, nàng chê là cây non sấy lò cong cớn, nhìn ai nàng cũng tìm cách nhạo báng, nàng lấy làm khoái chí khi thấy một người có cằm hơi cong như mỏ chim chích chòe, nàng nói giỡn, chà, anh ta có cái cằm chẳng khác gì chim chích choè có mỏ, từ đó trở đi ông vua tốt bụng ấy có tên là vua chích choè.

Thấy con mình chỉ giễu cợt, nhạo báng chối từ và chê tất cả mọi người có mặt trong buổi kén phò mã, nhà vua nổi cơn thịnh nộ và ban truyền, nếu có người ăn mày nào đi qua cung vua, vua sẽ gả công chúa cho người ấy.

Vài hôm sau, có một người hát rong đi qua, đứng ngây dưới cửa sổ cất tiếng hát, mong sẽ được ban thưởng cho vài xu. Nghe thấy vậy nhà vua ban truyền:
– Hãy gọi tên hát rong vào cung.

Với bộ quần áo rách, bẩn thỉu, người hát rong đi vào cung vua, hát cho vua và công chúa nghe, rồi đưa tay xin tiền thưởng. Nhà vua bảo:
– Ta rất ưa tiếng hát của ngươi, vì vậy ta gả con gái ta cho ngươi.

Công chúa sợ hãi, nhưng nhà vua vẫn nói:
– Cha đã thề rằng sẽ gả con cho người ăn mày đầu tiên đi qua cung vua, cha muốn giữ lời thề đó.

Mọi van xin đều không có ích gì. Linh mục được mời ngay tới để làm hôn lễ công chúa lấy người hát rong. Hôn lễ cử hành xong, nhà vua bảo:
– Theo tục lệ, vợ một người hát rong không được ở lâu lại trong cung vua, giờ thì con phải theo chồng ra khỏi cung.

Người hát rong cầm tay nàng, cả hai đi ra khỏi cung vua, nàng phải đi bộ theo chồng. Tới một khu rừng lớn, nàng lên tiếng hỏi: – Chà, rừng đẹp này của ai?

– Rừng của vua chích choè.

Nàng lấy người đó, rừng kia của nàng. – Tôi cô gái dịu hiền đáng thương

Đáng ra nên lấy ông vua chích choè.

Một lúc sau họ tới một thảo nguyên, công chúa lại hỏi: – Thảo nguyên xanh đẹp của ai?

– Thảo nguyên của vua chích choè.

Nàng lấy người đó, thảo nguyên của nàng. – Tôi cô gái dịu hiền đáng thương

Đáng ra nên lấy ông vua chích choè.

Rồi họ tới một thành phố lớn, công chúa lại hỏi: – Thành phố mỹ lệ này của ai?

– Thành phố mỹ lệ của vua chích choè.

Nàng lấy người đó, thành kia của nàng.

– Tôi cô gái dịu hiền đáng thương
Đáng ra nên lấy ông vua chích choè.

Người hát rong nói:
– Tôi chẳng hài lòng tí nào cả, tại sao nàng lại cứ luôn luôn mong có người chồng khác, thế tôi không xứng đáng hay sao?

Cuối cùng họ tới trước một túp lều nhỏ xíu, công chúa thốt lên:
– Trời ơi, nhà gì mà bé ẩm ương, Nhà ai mà nhỏ, thảm thương thế này?

Người hát rong đáp:
– Nhà của anh, của nàng

Nơi chàng thiếp sống chung. Công chúa phải cúi gập người xuống mới đi qua được chiếc cửa ra vào thấp lè tè. Công chúa hỏi:
– Người hầu của anh đâu?

Người hát rong đáp:
– Người hầu nào? Muốn làm gì thì tự mình làm lấy. Giờ em hãy nhóm bếp nấu ăn đi, anh mệt lắm rồi.

Nhưng công chúa đâu có biết nhóm bếp và nấu ăn, người hát rong đành phải nhúng tay vào làm công việc mới xong. Bữa ăn thật là đạm bạc, ăn xong cả hai mệt mỏi lăn ra ngủ ngay.

Hôm sau, khi trời mới hửng sáng chồng đã đánh thức vợ dậy để làm việc nhà. Cứ như vậy họ sống được với nhau mấy ngày thì lương ăn dự trữ hết. Người chồng nói với vợ:
– Mình ạ, chỉ ngồi ăn không kiếm được thêm gì cả cứ như thế này mãi chắc không được lâu, hay là em đan sọt bán.

Chồng vào rừng lấy tre nứa về, vợ chẻ lạt đan sọt. Nhưng bàn tay mềm mại của nàng bị cạnh sắc của tre nứa cửa rỉ máu. Chồng nói:
– Thế thì không được, có lẽ dệt vải hợp với em hơn.

Nàng ngồi tập quay sợi, nhưng rồi những ngón tay mềm mại của nàng lại bị sợi cứa, máu chảy rơi xuống nền nhà. Người chồng nói:
– Em thấy không, em chẳng được việc gì cả, sống với em thật là khổ. Giờ thì chắc ta phải xoay ra đi buôn nồi và bát đĩa. Em ngồi ở chợ và bán hàng.

Nàng nghĩ bụng:
– Nếu như dân nước mình họ tới đây mua bán, nhìn thấy mình ngồi bán hàng ở chợ chắc họ sẽ dè bỉu nhạo báng mình.

Việc không thể tránh được nên nàng đành phải làm, nếu không thì chắc chắn sẽ chết đói. Thoạt đầu mọi chuyện đều tốt lành, thấy người bán hàng hiền lành dễ thương nên khách mua đông, họ trả tiền hàng mà không hề mặc cả, thậm chí có người trả tiền nhưng không lấy hàng. Với số lời do bán hàng, hai vợ chồng sống cũng sung túc. Có lần hàng bán hết, chồng lấy hàng mới về cho vợ bán ở chợ. Nàng đang ngồi coi hàng thì có một anh chàng hiệp sĩ từ xa phi ngựa lao thẳng vào chợ làm cho đống hàng sành sứ của nàng đổ vỡ hết cả ra thành hàng nghìn mảnh lớn nhỏ ngổn ngang ở chợ. Nàng ngồi ôm mặt khóc nức nở, không biết cuộc đời rồi sẽ ra sao, nàng la khóc:
– Trời, khổ thân tôi thế này, còn mặt mũi nào mà nhìn chồng nữa?

Về nhà, nàng kể cho chồng nghe chuyện chẳng may ấy. Nghe xong chuyện, chồng nói:
– Đời thuở nhà ai lại thế, bán sành sứ mà lại ngồi ngay đầu chợ chỗ người ta qua lại, khóc làm chi nữa. Anh thấy em chẳng làm gì cho đến đầu đến cuối. Lúc nãy anh có đến cung vua hỏi xem nhà bếp có cần người phụ không, họ hứa sẽ nhận em vào làm và nuôi cơm.

Giờ đây công chúa là một chị phụ đầu bếp, thôi thì thượng vàng hạ cám việc gì cũng phải làm. Hai bên tạp dề nàng buộc chặt hai chiếc nồi con, nàng bỏ phần cơm của mình vào đó và mang về nhà để hai vợ chồng cùng ăn.

Lần ấy trong cung vua tổ chức hôn lễ cho hoàng tử con đầu lòng của nhà vua, tò mò chị phụ bếp cũng len vào đứng trước cửa ngõ vào.

Khi đèn lần lượt được thắp sáng, cảnh đẹp lộng lẫy trong cung vua mới hiện lên hết, khách lần lượt bước vào phòng đại tiệc, cảnh cũng như người nom thật huy hoàng, tráng lệ, ai thấy cũng phải vui mắt. Lúc này, chị phụ bếp thấy lòng buồn tủi thay cho số phận của mình, thầm trách tính kiêu căng, ngông cuồng của mình, cũng chính vì những tính ấy đã làm nàng trở nên thấp hèn và khổ cực như bây giờ. Kẻ hầu người hạ ra vào tới tấp, bưng lên cho khách toàn sơn hào hải vị, mùi thơm nức mũi. Thỉnh thoảng kẻ hầu người hạ ném cho ít đồ ăn thừa, nàng cúi nhặt cho vào nồi. Bỗng nhiên hoàng tử bước vào, lụa là châu báu đầy người, cổ đeo dây chuyền vàng. Nhìn thấy người đẹp đứng ngó bên cửa, hoàng tử nắm tay nàng, muốn cùng nàng vui nhảy, nhưng nàng sợ hãi giật tay lại.

Nàng nhận ra đó chính là vua chích choè, người đã từng muốn làm phò mã và bị nàng nhạo báng, từ chối. Nàng cố sức giật tay lại nhưng chẳng ăn thua gì cả, vẫn bị chàng kéo vào tới giữa phòng làm dây buộc nồi đứt, hai cái nồi rơi xuống đất, súp và bánh mì vung ra khắp nền nhà. Khách khứa và những người đứng đó thấy cảnh tượng ấy đều bật cười và chêm pha những lời nhạo báng. Xấu hổ quá, nàng ước gì độn thổ xuống sâu một ngàn sải tay. Nàng giật mạnh một cái khỏi tay vua chích choè, lao thẳng ra phía cửa để chạy trốn, nhưng mới tới được cầu thang lại bị một người đàn ông lôi lại, khi định thần lại được, nàng thấy người đó lại chính là vua chích choè. Chàng vui vẻ nói nhỏ vào tai nàng:
– Em đừng có sợ hãi, người hát rong sống chung với em trong căn lều lụp xụp chính là anh. Vì yêu em nên anh đóng giả người hát rong. Chính anh cũng là kỵ sĩ cho ngựa chạy đổ vỡ hết hàng sành sứ của em. Tất cả những việc đó chỉ nhằm uốn nắn tính kiêu ngạo của em và để trừng phạt tính ngông cuồng thích nhạo báng người khác của em.

Lúc ấy nàng bật òa lên khóc nức nở và nói:
– Em đã làm những điều sai trái, thật không xứng đáng là vợ của anh.

Chàng đáp:
– Em đừng buồn nữa, những ngày cay đắng đã qua, giờ chúng ta hãy làm đám cưới.

Nàng vào thay quần áo, toàn thể triều đình đều có mặt, chúc mừng công chúa kết hôn với vua chích choè. Nỗi vui mừng thật sự cũng bắt đầu từ đây. Tôi tin rằng, tôi và bạn đều có mặt trong buổi lễ cưới.

Nguồn: Truyện cổ tích Tổng hợp.

Page 2

Chương 13 : Những quả táo vàng trong khu vườn của người Hespérides
Cuối cùng, có một vị cố vấn của vua Eu-rysthée tới, rất bình tĩnh, đưa tay đón chàng ở bậc tam cấp. ông báo cho chàng biết quyết định của Eurysthée về việc hiến đàn bò của Géryon cho Junon. Với giọng nói khá đơn điệu, ông thông báo cho Hercule về thử thách tiếp theo.

Khi biết rằng chàng phải tới miền bắc để lấy những quả táo vàng trong vườn của Hespérides Hercule không nén được tiếng thở dài, giống như tiếng thở dài của Augias vậy. Sự kiên nhẫn không làm cho chàng nản chí, nhưng hình như Eurys-thée đẩy chàng đi bất cứ nơi nào ông ta muốn, chỉ cần càng xa Tirynthe và càng lâu thì càng tốt. Có thể chàng không trở về được nữa. Tới chỗ những người Hespérides ư? Vậy thì tại sao lại không tới địa ngục?

Hercule mệt mỏi nói:

– Tới miền bắc ư? Nhưng tới tận đâu? Tôi không biết khu vườn của những người Hespérides ở đâu cả.
Vị cố vấn trả lời:

– Ta cũng không biết. Nhiệm vụ của ta chỉ là chuyển cho anh mệnh lệnh của Eurysthée mà thôi. Những điều khác không có gì liên quan đến tôi cả. Và tôi cũng không quan tâm gì hơn nữa.

– Có phải tôi phải tới phía bắc không? -Hercule nghi ngại hỏi.

– Chính Coprée đã nói với ta như thế. Nhưng ngươi cứ đi tới nơi đâu ngươi muốn… Điều cốt yếu là ngươi phải mang về cho Eurysthée những quả táo vàng. Phải vậy không?

Hercule hiểu rằng chẳng có ai ở Tirynthe biết các khu vườn ấy ở đâu. Việc nói đi về phía bắc chỉ là để cho chàng rời thành càng sớm càng tốt. Hơn thế, cái vườn có táo vàng ấy chỉ có thể là vườn của một vị thần và những người Hespérides chỉ là người canh giữ..- Cái vườn ấy là của vị thần nào vậy? – Her-cule hỏi.

– Ai bảo đó là của một vị thần? Khu vườn này là của những người Hespérides. Chính đức vua đã bảo ta như thế!

Hercule chỉ mất thời gian vô ích.

– Vậy thì hãy đi báo với đức vua rằng ta sẽ mang những quả táo vàng về, cho dù ta có phải tới địa ngục. Ta sẽ tự khắc tìm thấy đường đi!

– Hercule giận dữ nói thêm.

Vị cố vấn thấy lo sợ, vội đi vào lâu đài.

Hercule bỏ lại thành Tirynthe phía sau lưng, lòng vừa âu lo vừa bối rối. Từ khi chàng tới phục vụ Eurysthée, đây là lần đầu tiên chàng ra đi mà có ít sự chỉ dẫn như vậy.

Chàng đi vài ngày về hướng bắc, gặp ai cũng hỏi han. Song chẳng có người nào được nghe nói về khu vườn của người Hespérides cả.

Hercule nghi ngờ về hướng đi. Chàng lưỡng lự nhưng lại đi tiếp. Chàng gặp một mục đồng.
Cậu ta nói rằng mình biết khu vườn tuyệt diệu ấy ở đâu, nhưng không thể nói cho Hercule biết được điều gì hơn.

Một ngày nọ, chàng gặp một ông lão đang ngồi dưới một gốc cây bên đường. Người này biết khu vườn ấy nằm ở đâu, tuy không chính xác. ông không thể nói nó nằm ở xứ sở nào mà chỉ có thể nói nó ở bên sông éridan.

– Không xa lắm đâu! Chỉ mất vài ngày đường!

Đến đó, ngươi sẽ gặp được thần biển Nérée. Chỉ có thần mới biết khu vườn ấy ở đâu.

Hercule tìm gặp những tiên nữ sông éridan chẳng mấy khó khăn. Đó là một con sông nước trong xanh yên lặng chảy nhẹ nhàng giữa hai bờ rợp bóng cây xanh và hoa lạ. Trên một thảm rong rêu có nhiều nữ thần của dòng sông đang vui tắm.

Một nữ thần gọi Hercule tới với giọng thánh thót:

– Ngươi là ai? Hỡi con người lạ mặt kia?

Ngươi muốn gì?

– Tôi tên là Hercule. Tôi đi tìm thần Nérée và tôi tin rằng các nữ thần có thể chỉ cho tôi chỗ ở của thần..Một nữ thần khác giọng dịu dàng nói xen vào:

– Vì sao ngươi mong gặp Nérée?

Hercule ngần ngại. Chàng có phải nói sự thật với các nữ thần không?

– Ngươi không trả lời sao, Hercule? – Nữ thần thứ nhất hỏi.

– Thưa vâng! Tôi hy vọng thần Nérée sẽ vui lòng chỉ cho tôi xứ sở có khu vườn của người Hespérides, nơi tôi cần phải tới. Tôi được Eu-rysthée vời đến đó.

– Đúng vậy! – Một nữ thần khác nói. – Thần Nérée biết bí mật đó. Nhưng liệu thần có hé lộ cho ngươi biết không? Thần không muốn bị làm phiền. Hơn thế, ngươi còn phải bắt được ông ấy nữa… Bắt được ông ấy, ngươi có hiểu không?

Nói đến đó, các nữ thần bật lên tiếng cười trong như thủy tinh, không có chút gì chế nhạo.

Nhưng các nữ thần biết Hercule chưa hiểu hết. Sau khi nói cho chàng biết Nérée sống ở đâu, các nữ thần đồng loạt tung mình xuống dòng sông éridan, làm nước sông bắn lên tận trời.

Hercule bất động vài phút sau cảnh tượng ấy. Chàng đang mơ chăng? Không còn chút dấu vết nào trên thảm rong rêu và trên đồng cỏ đầy hoa chứng tỏ rằng các nữ thần vừa ở đó. Nước sông éridan vẫn yên bình chảy xuôi.

Hercule lên đường, lòng đầy mơ mộng.

ở nơi này, bờ đại dương được phủ một lớp áo mịn màng. Bãi cát vàng óng ánh chạy dài ngút tầm mắt, bọt biển kéo vào phủ lên đó, trông xa như những đám mây bồng bềnh.

Hercule đi bộ trên bãi biển với tâm trạng thư thái, quên hết những nỗi mỏi mệt đã qua và cả mục đích của chuyến phiêu lưu này. Chàng đang ở trong một khung cảnh thần thánh chỉ có vẻ đẹp và sự thanh thản ngự trị.

Cuối bãi biển, đối mặt với đại dương là một cái động to lớn, sâu hun hút và tối tăm, được bao quanh bởi những cột đá xanh xám. Đó là nơi thần biển Nérée ngự trị..Hercule bước đến lối vào hang động; một dòng suối nhỏ dát vàng chảy róc rách, từ trên cao xuống vượt qua bãi cát hòa vào biển cả. Her-cule không có một hình dung mơ hồ nào về Nérée cả. Ngoại hình ông ta thế nào? Nhớ lại lời khuyên của các nữ thần về việc Nérée không muốn bị quấy rầy, chàng thận trọng lướt nhẹ nhàng vào động.

Phải mất vài phút chàng mới làm quen được với bóng tối. Cái động có vẻ thiếu sinh khí. Thế nhưng, trước mặt chàng có le lói ánh sáng. Chàng mạnh dạn dấn bước. Đi theo dòng nước vào sâu bên trong, Hercule tới đoạn có ánh sáng. Nhưng dòng nước lúc này không lấp lánh ánh bạc nữa mà chuyển thành xanh xám.
Có một bếp lửa đang tàn dần. Trên chiếc giường cát khô có một người có bộ râu trắng muốt đang nằm ngủ, không hề có vũ khí bên cạnh. Hercule đặt tay lên vai ông ta.

– Ai dám phá rối giấc ngủ của ta thế? – ông choàng tỉnh và hỏi như vậy.

– Tôi là Hercule và tôi đi tìm Nérée.

– Ngươi vừa mới đánh thức ta dậy đấy! Hãy để ta yên.

Nérée ngồi xuống bãi cát và xoa xoa bộ râu.

– Hãy đi khỏi đây ngay! Ta phải đi ngủ lại.

Ta đã làm việc quá nhiều rồi.

Hercule dịu giọng, e ngại thần Nérée phật ý:

– Xin thần hãy nghe tôi! Tôi phải tới vườn của những người Hespérides. Ngài có thể chỉ giúp tôi nó ở đâu không? Rồi tôi sẽ đi ngay!

– Ta sẽ không nói cho ngươi biết điều đó.

Và ta đang rất buồn ngủ. Hãy đi khỏi đây ngay!

– Nhưng ngài chỉ cần trả lời cho tôi một câu hỏi thôi… Những nữ thần sông éridan đã chỉ cho tôi đến đây…

Thần Nérée lập tức bật dậy nói:

– à! Mấy cô nàng ấy hả?

Rồi Nérée biến mất ngay lập tức. Hercule đảo mắt nhìn xung quanh nhưng chẳng thấy có gì cả. Bếp lửa dường như cháy tiếp, ngọn lửa liếm lên tận mái vòm. Hercule nghĩ tới câu nói của các nữ thần:

– Phải đuổi bắt ông ta…

Hercule nhìn kỹ ngọn lửa và thấy nó mang hình dáng bộ râu của Nérée. Không ngại ngần,.chàng tóm lấy ngọn lửa và siết chặt. Một giọng nói nặng nề vọng ra từ đôi bàn tay chàng:

– Nhân danh Jupiter, ngươi có để cho ta yên không?

Rồi ngọn lửa nhảy chập chờn trên đất cứ như một chú chim. Nó lớn dần lên rồi biến thành một chú sư tử đỏ rực, sắp sửa lao vút đi. Hercule nhảy lên lưng nó và tóm cổ nó lại không cho chạy thoát.

– Nhân danh Jupiter! Ngươi có để cho ta đi không?

– Tôi chỉ thả ngài ra lúc nào ngài trả lời câu hỏi của tôi.

Vì mải nói mà Hercule buông lỏng tay. Con sư tử chớp lấy cơ hội nhảy vào con suối, nhanh chóng biến thành một con cá vảy vàng to đùng và sắp sửa bơi ra đại dương.

Hercule đuổi theo sau và nhanh tay bắt được con cá khi nó sắp qua cửa hang. Nérée thật sơ suất khi hóa thân thành con cá. Giờ đây, Hercule nắm con cá trong tay dễ dàng hơn với ngọn lửa và con sư tử.
Con cá vùng vẫy trong tay Hercule và kêu lên:

– Ngươi làm ta nghẹt thở lắm, thề có Jupiter!

Ngươi làm ta nghẹt thở. Làm thế nào ta nói cho ngươi được nếu ngươi cứ tóm chặt cổ ta như thế? – Ngài biến hóa thật khôn lường, thần Nérée ạ! Nhưng tôi không để cho ngài thoát đâu! Nếu tôi không tóm chặt cổ ngài thì ngài sẽ quẫy thoát và hóa thân lần nữa. Ngài hãy nói đi và tôi sẽ để cho ngài ngủ yên. Ngài nói càng sớm thì càng có cơ hội thoát thân sớm… Ngài không mong muốn được ngủ tiếp ư?

Nérée chịu thua, cảm thấy bực bội và bị ép buộc trước lý lẽ của Hercule.

– Có Jupiter chứng giám! Ngươi thật là cứng cổ, Hercule ạ! Hãy đi về hướng tây rồi đi thẳng mãi. Ngày mai, ngươi sẽ tới vườn của những người Hespérides… Bây giờ hãy thả ta ra…

– Ngài nói sự thật đấy chứ? – Hercule vừa hỏi vừa siết cổ con cá mạnh hơn.

– Đúng thế! Đúng thế… Có Jupiter chứng giám!.- Vậy thì ngài hãy ngủ tiếp đi!

Hercule thả con cá ra. Trước khi chạm đất, nó đã lại biến thành thần Nérée trong bộ dạng ban đầu.
Vừa đi về cuối hang, Nérée vừa nói:

– Hãy coi chừng Ladon, hắn sẽ không cho ngươi vào đâu.

– Ladon là ai vậy?

– Ta ngủ rồi đấy, có Jupiter chứng giám.

Nérée mau chóng lại bên cạnh ngọn lửa và ngủ thiếp đi. Hercule thấy mình tìm hiểu thế đã đủ. Chàng từ biệt Nérée với chiếc giường cát và rời khỏi hang, đi về phía tây.

Quả là Nérée không nói dối. Ngày hôm sau, Hercule đã tới vườn của những người Hespérides.

Một khu vườn kỳ diệu trồng toàn các loại cây hiếm, chim chóc ca hát rộn ràng.

Về nhân vật Ladon, khi Hercule tới lối vào khu vườn, chàng trông thấy một con rồng đang đợi chàng ở đó:
– Hãy đi đường khác! – Ladon nói và phụt ra một luồng lửa đỏ rực.

Nhưng Hercule không nghe. Chàng đã gài một mũi tên vào cung và bắn vào mồm Ladon.

Con rồng hét lên:

– Ta sẽ giết ngươi… Ta sẽ giết ngươi…

Hercule đã kịp bắn thêm vài mũi tên nữa.

Với một tiếng gầm như tiếng bễ lò rèn của thần Vulcain, Ladon phụt ra hàng luồng lửa đỏ rực rồi lại chuyển thành khói đen. Con rồng ngã xuống và chết.

Hercule dọn xác Ladon sang một bên để đi vào vườn, bỗng có tiếng nói cất lên từ phía sau, đúng hơn là phía trên đầu chàng:

– Tại sao ngươi lại muốn vào vườn của người Hespérides?

Hercule ngước mặt lên. Đó là Atlas, người khổng lồ được các vị thần giao cho nhiệm vụ vác trên đôi vai to lớn của mình cả vòm trời.

– Tôi đến đây để tìm những quả táo vàng theo lệnh của vua Eurysthée.

– Vậy ngươi là Hercule… Dù cho ta không được đi đâu hết, nhưng những chiến công của ngươi đã vang tới tận tai ta. Ta bị phạt phải đội trời, giống như ngươi phải chinh chiến vậy. Định.mệnh là thế… Hespérides là các con gái của ta, và các vườn này là của chúng. Hy vọng chúng sẽ để cho ngươi hái táo vàng. Nhưng ta có thể giúp ngươi đấy.

– Giúp tôi ư? Nhưng bằng cách nào, Atlas?

Với cả vòm trời trên lưng như vậy, làm sao ngài có thể giúp tôi được?

– Ngươi rất khỏe. Ta biết là ngươi có sức khỏe của các vị thần linh. Ngươi có đủ sức đỡ bầu trời giúp ta một lát, trong thời gian ấy ta sẽ tới chỗ các con ta xin táo vàng cho ngươi.

Hercule suy nghĩ một lúc. Đây phải chăng là một âm mưu? Lại một âm mưu nữa chăng? Hơn thế, gánh cả bầu trời trên vai thật quá sức đối với chàng…

– Ngươi nghi ngờ sức mạnh của ngươi chăng?

– Atlas cười hỏi.

– Tôi yếu hơn ngài, ngài hãy nhìn tôi xem.

– Ta biết! Nhưng ngươi không phải vác nó lâu như ta đâu. Ta phải mang bầu trời này từ nhiều năm rồi. Trong khi ngươi mang nó giúp ta, ta sẽ được thư giãn cơ bắp chút ít. Chúng cứng như đá hoa cương rồi. Ta giúp ngươi và ngươi cũng giúp ta, một sự công bằng đấy chứ, phải không?

– Vâng! – Hercule trả lời lòng vẫn còn ngờ vực.

– Vậy thì ngươi đồng ý mang hộ ta hay thân chinh đến gặp các con ta?

– Nếu ngài hứa làm nhanh mọi việc, tôi mong chính ngài trao đổi với các con ngài. Tôi sẽ thay thế ngài ở đây.

Atlas bảo Hercule nhón chân và đưa hai bàn tay lên trời. Lúc chàng làm như vậy xong, Atlas hạ vòm trời thấp xuống ngay đôi tay Hercule.

– Đó. Ngươi thấy nó không quá nặng phải không? – Atlas nói và vươn người ra.

– Nhưng ngài phải nhanh lên đấy.

– Đừng lo. Ta sẽ trở lại ngay khi lấy được những quả táo vàng.

Với những bước chân nhanh nhẹn, người khổng lồ bước tới vườn người Hespérides. Her-cule dù nặng gánh trên vai, vẫn vui vẻ mỉm cười nhìn Atlas đang rất đỗi vui mừng vì được tự do trong giây lát. Nhưng nhìn thấy người khổng lồ.được tự do, chàng không khỏi lấy làm lo lắng.

Nếu anh ta không giữ lời hứa thì sao? Hercule thấy mình không thể đỡ bầu trời mãi được. Liệu Atlas có thuyết phục được các con để xin cho chàng mấy quả táo vàng không?

Những câu hỏi như thế liên tục khuấy động tâm can chàng trong lúc Atlas khổng lồ vắng mặt.

Hơn thế, đội một bầu trời quả là nặng nhọc kinh khủng. Hercule mồ hôi chảy đầm đìa, cố sức giữ bầu trời không rơi xuống. Các cơ bắp của chàng đã cứng lại, gáy chàng cứng đờ. Mỗi lúc, chàng lại nhận thấy mình đã sai lầm khi chấp nhận lời đề nghị ấy. Lẽ ra chàng phải đối mặt với người Hespérides. Chàng đã hạ gục nhiều quái vật, vậy mấy cô gái thì đáng gì…

Khi Atlas quay trở lại, Hercule thở phào nhẹ nhõm nói rằng suýt nữa thì chàng đã buông bầu trời ra.

– Cẩn thận đấy Hercule, không được yếu đuối như thế. – Atlas nói.- Chúng đẹp đấy chứ? – Atlas nói thêm và giơ giỏ táo ra.

– Đẹp hơn cả tưởng tượng. Xin cảm ơn ngài đã mang chúng về cho tôi… Nhưng, – Hercule vừa thở hổn hển vừa nói, – tôi mong ngài sớm trở về vị trí của mình. Tôi mệt mỏi lắm rồi.

Atlas đặt giỏ táo dưới chân Hercule.

– Ta sẽ về vị trí của ta, ta hứa với ngươi như thế. Nhưng…

– Nhưng sao? – Hercule hỏi.

– Này, ta nghĩ rằng ta có thể mang giỏ táo này tới cho Eurysthée. Ta chạy nhanh và sẽ mau chóng trở về. Như thế, đôi chân ta sẽ được thư giãn chút ít. Với công việc này, không chỉ có cái gáy và đôi tay ta đau đớn, ngươi thấy rồi đấy…

Tất cả các cơ bắp đều hợp lại mà nâng đỡ bầu trời… Ta sẽ đi đến Tirynthe và khi trở về…

– Lúc đó vòm trời sẽ rơi xuống mặt đất! -Hercule ngắt lời. – Không, đó không phải là một ý hay… Không phải vì tôi không muốn giúp ngài, mà do tôi không có khả năng chịu đựng hơn nữa.

Một khối lượng như thế vượt quá cả khả năng của tôi…

– Ta chắc là không phải thế. – Atlas nói..Hercule thở dốc, cố thư giãn các cơ bắp nhằm không cố sức một cách vô ích khi chàng chưa buộc được Atlas trở lại vị trí của mình.

Atlas nằm dài trên cỏ, nhấm nháp tự do của mình. Ngài duỗi thẳng chân tay và Hercule sợ ngài khổng lồ sắp sửa ngủ trưa.

– Atlas, tôi thề với ngài là tôi không thể chịu đựng lâu hơn nữa.

– Đừng lo! Rồi sẽ quen ngay thôi. Khi ta từ Tirynthe trở về, ngươi sẽ khỏe hơn cả bây giờ nữa.

Atlas nằm dài ra và uể oải nhai cỏ. Hercule trầm ngâm suy nghĩ. Chàng phải mau chóng tìm ra lối thoát. Liệu các thần có thể đến cứu giúp chàng không? Có lẽ có bởi cuối cùng chàng cũng tìm thấy một sáng kiến…

– Atlas này, ngài có lý đấy. Tôi sẽ có thể thay thế ngài trong khi ngài trở về Tirynthe, và mọi chuyện sẽ ổn cả.

– Ta thật vui mừng vì ngươi đã nghĩ lại. -Atlas vui mừng nói. – Ta sẽ ngủ một lát rồi sẽ đi tìm Eurysthée.

– Tốt lắm, thật ra ngài phải được ngủ một chút. Tất cả các vị thần đều thiếu ngủ. – Hercule khôi hài nói. – Nhưng ta có một yêu cầu nhỏ. Miệng vẫn luôn mỉm cười, Atlas đứng dậy và lại gần Hercule.

– Ta nghe đây.

– Tôi muốn ngài chỉ cho tôi bằng cách nào có thể nâng bầu trời này tốn ít sức hơn. Tôi có cảm giác mình đặt tay không đúng chỗ. Ngài có thể chỉ giúp tôi được không?

Atlas nhìn xem cách Hercule mang bầu trời trên vai. Là người đã thạo việc này, ông nghĩ mình có thể chỉ cho chàng cách tốt hơn. ông ta nói:

– Ta sẽ chỉ cho ngươi.

Atlas vươn đôi tay ra, xòe bàn tay và ghé người vào chỗ của Hercule. Chàng lợi dụng phút ấy, buông bầu trời ra.

– Xin cảm ơn lời khuyên của ngài, cảm ơn sự giúp đỡ của ngài, Atlas ạ, tôi không bao giờ quên ơn đâu. Và tôi cũng cảm ơn các con gái ngài đã cho tôi những quả táo vàng này, tôi phải mang về cho Eurysthée ngay.

– Ngươi… ngươi đi sao? – Atlas hỏi lại khi biết Hercule đã lừa mình. – Nhưng mà…

Atlas im bặt. Mỗi người có vị trí và số phận của mình. Không ai có thể thay thế điều đó được.
Và cũng không ai có thể mang được bầu trời thay cho ông ta. ít nhất thì cũng nhờ Hercule mà Atlas có thể nói chuyện với các con, và có thể mộng mơ đôi chút. Nhưng ông ta cũng không khỏi buồn lòng khi thấy Hercule dần xa với giỏ táo trên tay.

Page 3

Chương V : Con lợn rừng érymant He

Ngưỡng mộ trước chiến công của Hercule và hết sức xúc động trước cảnh tượng vừa rồi, dân thành Tirynthe chen lấn đến bậc tam cấp để tung hô chàng.

Coprée chợt lùi lại, bắt đầu bị xâm chiếm bởi nỗi sợ hãi tương tự Eurysthée. Ông ta không phải là vua, bởi thế phải truyền lệnh của Eurysthée.

Với một giọng không tự tin lắm, Coprée nói với Hercule:

– Eurysthée, vua của tất cả chúng ta muốn ngươi phải đi ngay lập tức, bắt sống bằng được con lợn rừng érymanthe đang phá hoại mùa màng của vương quốc. Nhớ là phải bắt sống nó cho bằng được, và mang đến ngay bậc thềm này. Ngươi đi đi!

Những lời nói cuối cùng vừa kết thúc, Co-prée vội vàng bước lên những bậc thang và biến mất sau những bức tường cao của lâu đài. 

Đám đông bao quanh Hercule, chẳng muốn tản ra chút nào. Họ ngợi khen chàng, đặt cho chàng biết bao câu hỏi, tung hô đúng như đối với một anh hùng mà họ đã chờ đón lâu lắm.

Rồi họ chạm vào xem thử có phải chàng là người thật bằng da bằng thịt hay chỉ là một ảo ảnh mà các thần Olympe phái xuống trần gian.

Hercule giữ không cho họ đến gần bao tên tẩm thuốc độc, cảm ơn mọi người và đề nghị cho chàng lui bước: còn một cuộc phiêu lưu nữa đang đợi chàng, không thể chậm trễ được.

Như một dòng nước, đoàn người lặng lẽ tách ra, nhường lối cho chàng đi. Rồi họ theo sau chàng, tiễn chàng đến tận cổng thành.

Ở đấy, Hercule gặp Iolaos. Hai bác cháu ôm nhau thật chặt. Iolaos cố không tỏ ra buồn bã và lo lắng trước mặt bác. Hercule đọc được trong mắt cháu suy nghĩ đó và thầm cảm ơn cậu bé đã không nói lời chia tay và những nỗi niềm tiếc nuối. Cậu tiễn bác ra tận ngoài cửa thành.

– Iolaos! Trước khi ra đi, bác muốn nói với cháu rằng bác vô cùng tự hào về sự thông minh và dũng cảm mà cháu mang đến cho bác trong trận chiến ở đầm lầy Lerne. Bác biết cháu là một con người luôn biết bảo vệ danh dự. Hãy nhớ rằng, trong cuộc đời, ngay cả khi bác ở xa, thì bác cũng luôn luôn bên cạnh cháu trong tâm tưởng. Cháu có một vị trí trong trái tim bác. Bây giờ cháu hãy trở về với cha mẹ… và chỉ cần đôi chút nhớ về bác thôi.

Hercule lên đường còn Iolaos vượt qua cổng thành trở về nhà.

So với sư tử Némée, con lợn rừng di chuyển trên một dải đất rộng hơn nhiều. Như thế cũng có nghĩa là khó khăn hơn, nguy hiểm hơn cho đối thủ của nó.
Mảnh đất rộng mênh mông bao gồm đồi núi, thảo nguyên và thung lũng và con lợn rừng có biết bao nhiêu nơi ẩn nấp.

Dường như không có ai có thể ngăn chặn được con thú dữ thường xuyên phá hoại hoa màu, rừng và làng mạc. Nó chạy rất nhanh theo phỏng đoán của những người đã trông thấy nó, vì nó to và nặng gấp năm lần những con heo thường.

Tất cả những cư dân sống trong vùng Pso-phis đều phải chịu đựng tai họa mà con lợn rừng gây ra. Có một vài người tài giỏi, không chịu nổi cảnh tan hoang cửa nhà, đã quyết lùng bắt cho bằng được con heo rừng, nhưng phí công vô ích.

Những cuộc săn lùng kéo dài hàng tháng trời, nhiều người trong số họ đã trở về nhà, mang theo sự kiệt quệ và bệnh tật, với những cái nhìn thật đáng sợ. Sự dũng cảm, sự thành thạo khéo léo của họ đều trở nên vô ích. Sức mạnh kỳ diệu của con lợn rừng érymanthe, sự khát khao phá hoại phi thường của nó lên đến mức không ai có thể đọ được với nó. Chỉ cần nhìn dấu chân của nó để lại thì ai cũng phải nhụt chí không dám đương đầu với nó nữa.

Bởi vậy, ngay khi đặt chân đến Psophis, Hercule nói ngay với bất cứ ai mà chàng gặp trên đường về ý định đi bắt lợn rừng của mình.

Trong khi bộc lộ ý định của mình, Hercule không hy vọng nhận được sự giúp đỡ. Vả lại điều đó cũng bị Eurysthée cấm ngặt. Chàng chỉ hy vọng nhận được những lời khuyên bổ ích, những tin tức về con lợn rừng và công việc săn bắt mà dân làng đã tiến hành.

Nhưng nếu có người nào đó đồng ý trò chuyện với chàng thì họ chỉ gợi lại những sự khiếp đảm đã qua và những nỗi lo đang tới chứ không cho chàng biết thêm điều gì mới mẻ cả.

Hercule hiểu rằng tất cả mọi người đều lo sợ tai họa và thu mình lại trong nỗi kinh hoàng tập thể.

Từ bỏ hy vọng tìm hiểu những kinh nghiệm của dân trong vùng, Hercule một lần nữa lại quyết định chỉ trông mong vào chính bản thân mình. Bởi phải tiến hành một “chiến dịch” tìm kiếm lâu ngày, chàng bắt đầu bằng việc chế tạo ra những vũ khí mới chắc chắn sẽ có hiệu lực cao khi thời cơ đến.

Để mang được con lợn rừng về Tirynthe, không phải là Hercule dùng tên tẩm độc máu con chó đầu rắn và gươm mà phải có một thứ vũ khí mới chuyên dụng khác cho con lợn rừng mà tự tay chàng làm lấy. Sau khi chọn và lột một số loại vỏ cây dẻo dai, chàng đan thành một tấm lưới lớn. Công việc này đã làm chàng mất hai ngày liền. Sau đó, chàng lên đường truy vết con lợn rừng.
Chẳng mấy chốc Hercule đã tìm thấy dấu vết con thú khổng lồ để lại: bốn dấu chân lún sâu dưới đất, nhọn hoắt, chứng tỏ “tác giả” của nó.

Không một vật sống bình thường nào có thể có được những dấu chân sâu với những rãnh hẹp trên một dải đất rộng như thế.

Suốt cả ngày, Hercule lần theo dấu vết con lợn rừng bỏ lại. Những vết lún chạy qua cao nguyên và mất dấu bên bờ vực.

Hercule cúi nhìn xuống phía dưới. Vực sâu đến độ người hay vật rơi xuống đó đều tan xác.

Thế mà con lợn rừng có thể đi qua đây, nó “bay” qua vực và “hạ cánh” sang bờ vực bên kia. Bốn dấu chân to tướng trên nền đất mềm đã chứng minh điều đó.

Từ vị trí quan sát, Hercule có thể thấy dấu vết của con lợn rừng kéo dài theo đường thẳng qua đồng ruộng tới tận bìa rừng. Nơi đó, đám mây bụi kéo dài ra theo sự hiện diện của con lợn rừng. Một lúc sau, đám bụi lẩn vào sâu trong rừng.. Hercule do dự. Trong vài phút, chàng đợi con lợn rừng quay trở ra. Liệu chàng có thể có một cuộc hành trình tương tự?

Con lợn rừng không đi ra hướng bắc như Hercule chờ đợi mà lại đi về hướng tây, cứ như là nó đang “khoanh vùng” lãnh thổ để phá phách.

Nó đi thẳng, vừa đi vừa xới tung cánh đồng, tiến thẳng về phía một ngôi làng trước mặt.

Trông thấy một mỏm đá, Hercule trèo lên để quan sát rõ hơn hành trình của con vật. Đám bụi di chuyển vào một thung lũng hẹp. Phía xa, con vật chuyển sang hướng tây, được bao bọc bởi dãy núi đá nhọn hoắt chạy về phía cao nguyên. Hercule biết rằng con lợn rừng sẽ đi theo hướng đó. Nếu anh nhanh chân lên, anh có thể tới nơi trước con vật bằng cách quay trở lại con đường phía bên kia cao nguyên.

Hercule thử vận may của mình. Anh bắt đầu chạy trên cao nguyên, theo con đường đã định sẵn. Anh chạy nhanh hết mức có thể, tránh chướng ngại, nhảy qua các đống đá sụp lở, vòng qua các thân cây cao. Con lợn rừng đã lấp ló phía trước, nhưng vài chục phút nữa nó mới tới nơi. Như thế cũng đủ rồi. Trừ khi nó thay đổi hướng đột ngột và liều mạng đâm đầu vào những thành đá dốc đứng, nhưng rồi nó cũng sớm sập bẫy thôi.

Hercule trèo lên những đỉnh đá nhọn cao chừng vài mét, ở dưới là lối đi nhỏ hẹp. Chàng lấy mũi tên ngoắc vào một đầu dây thừng dài rồi cắm sâu vào vách đá; rồi chàng nối đầu kia vào tấm lưới, sau đó cho vài cục đá nhỏ vào trong.

Vừa chuẩn bị xong thì con lợn rừng cũng vừa đến.

Con vật cách chàng vài mét, nó lừng lững, to gấp mấy lần một con lợn rừng bình thường.

Và đôi chân của nó lún sâu xuống đất đơn giản như đứa trẻ nghịch ngợm ấn ngón tay xuống cát.

Vừa tiến lên, cái đầu hơi cúi xuống, con vật khổng lồ thở hừng hực như cái bễ lò rèn. Ai dám nghĩ là sẽ chiến thắng nó?

Hercule chẳng còn thời gian để so đo nữa.

Thét vang một tiếng, chàng quăng tấm lưới lên mình con lợn rừng và nhảy xuống theo, tay vẫn không buông đầu lưới. Bị tấn công đột ngột, con vật lúng túng giây lát rồi nhảy dựng lên..Hercule lấy hết sức siết chặt sợi dây ở miệng tấm lưới: con vật đã bị tóm gọn song vẫn chưa chịu khuất phục. Nó rống lên, lắc lư thân mình, bốn chân cào xới đất. Hercule tiếp tục thít chặt sợi dây, siết mạnh tấm lưới lại và bản thân con vật cũng tự siết chặt tấm lưới vào mình bởi những cử động dữ dội.

Phía trên cao, chiếc mũi tên giữ sợi thừng bị cong dưới sức mạnh của con vật đang giãy giụa và có vẻ không trụ được lâu nữa trận chiến kinh khủng này. Hercule nhảy lên con vật và đá cho nó mấy phát nhưng chẳng ăn thua gì cả.
Lúc sắp kiệt sức chàng vớ ngay lấy một tảng đá và nện cho con vật một cú trời giáng, khiến cho nó lăn ra bất tỉnh. Bất cứ con vật nào cũng có thể chết ngay với cú đánh mạnh như thế, nhưng con lợn rừng này thì không, chẳng bao lâu nữa nó sẽ hồi tỉnh. Chàng vội vã lấy dây buộc túm bốn chân con lợn rừng lại, lấy một sợi dây khác buộc đầu và đuôi nó lại với nhau. Giờ đây nó đã nằm gọn trong lưới. Nếu nó càng giãy giụa, nó càng bị siết chặt vào lưới, sức khỏe sẽ chỉ làm hại nó mà thôi.

Xong việc, Hercule vội vã đi kiếm đủ thứ lá cỏ cứng nhét đầy miệng con vật. Như thế sẽ chẳng có gì phải lo lắng vì con vật sẽ không kêu rống lên được khi chàng về tới Tirynthe.

Hercule xem xét con vật rồi quỳ gối xuống đất, nhấc gánh nặng lên vai.
Chuyến trở về thật cực nhọc. Con vật làm cho chàng đi chậm hẳn. Mỗi bước chân đi là một lần da thịt chàng đau đớn vì bị những mắt lưới nghiến vào. Hercule cố chịu đựng nỗi đau đớn này, gắng gượng bước đi với tốc độ bình thường. Cố dồn sức vào công việc, chàng chẳng hề để ý thấy những người nông dân từ các cánh đồng nhìn thấy chàng và hoảng hốt bỏ chạy.

Khi trở về thành Tirynthe, Hercule ngạc nhiên không thấy có ai ra đón chàng như những lần trước. Chàng không hề hay biết rằng, trong khi chàng trở về, tin tức đã lan khắp nơi, rằng Hercule đã dễ dàng bắt sống được con lợn rừng và nhẹ nhàng vác nó trên vai; anh không phải là người bình thường, đó là một người siêu phàm với những sức mạnh siêu việt. Người như thế, hẳn phải là sự đe dọa cho dân chúng.. Hercule một mình đi vào thành, băng qua những con đường vắng và dừng lại trước những bậc tam cấp của lâu đài. Chẳng có ai chờ đón chàng cả. Hercule ném con lợn rừng xuống đất.

– Coprée! – Chàng gọi. – Coprée! Tôi đã mang con lợn rừng ở érymanthe về cho đức vua của ngài đây. Nó đang sống đây này. Nhanh lên nào!  

Con vật có những dấu hiệu chứng tỏ mệt mỏi. Trên suốt chặng đường về, càng cố gắng giãy giụa thì nó càng bị siết chặt. Hơi thở của nó thoát ra khó khăn bởi lớp cỏ nhét đầy miệng, khàn khàn một cách đáng sợ

Hercule lôi đám cỏ từ trong miệng nó ra.

Ngay lập tức, sau một thời gian phải chịu đựng khá lâu, con vật rống lên một tiếng kêu sắc nhọn và âm vang dữ dội. Và Coprée run rẩy xuất hiện.

– Được rồi, được rồi… Ngươi đã chứng minh được chiến thắng của ngươi. Ta không bàn cãi về điều đó nữa. Nhưng ngươi chưa hết gian nan đâu. Ta sẽ đi tâu với Eurysthée rằng ngươi đã trở về và sẽ quay lại báo cho ngươi cuộc thử thách mới.

Nói xong, Coprée lủi vào lâu đài, nhẹ nhõm vì đã tránh xa được con vật khổng lồ, đen trùi trũi, bóng nhẫy mồ hôi và rống to như tiếng rống của một đàn lợn rừng..

Video liên quan

Chủ Đề