Chính sách ngoại giao của vương triều Tây Sơn

MỤC LỤCM C L CỤ Ụ 1L I M UỜ ỞĐẦ 1CH NG 1ƯƠ 6NH NG NHÂN T TÁC NG N QUÁ TRÌNH Ữ Ố ĐỘ ĐẾ 6HO CH NH CH NH SÁCH I NGO I C A TRI U I TÂY S N TH I QUANG Ạ ĐỊ Í ĐỐ Ạ Ủ Ề ĐẠ Ơ ỜTRUNG - NGUY N HUỄ Ệ 61.1. Tình hình khu v c ông Nam Á l c aự Đ ụ đị 61.2. Nh Mãn Thanh d i th i tr vì c a C n Long [1736 – 1796] à ướ ờ ị ủ à 111.3. i Vi t: nh ng bi n ng cu i th k XVIII Đạ ệ ữ ế độ ố ế ỷ 131.3.1. Kh i ngh a Tây S nở ĩ ơ 131.3.2. Tri u i Tây S nề đạ ơ 16CH NG 2ƯƠ 18NGO I GIAO TRI U I TÂY S N Ạ Ề ĐẠ Ơ 18TH I QUANG TRUNG – NGUY N HUỜ Ễ Ệ 182.1. Ngo i giao v i nh Thanhạ ớ à 182.2. Ngo i giao v i các qu c gia ông Nam Á l c aạ ớ ố ở Đ ụ đị 25CH NG 3ƯƠ 32NG L I NGO I GIAO VÀ NHÂN V T NGO I GIAOĐƯỜ Ố Ạ Ậ Ạ 323.1. Quang Trung – Nguy n Hu ễ ệ 323.2. Ngô Thì Nh mậ 35CH NG 4ƯƠ 41ÁNH GIÁ CH NH SÁCH NGO I GIAO TRI U I Đ Í Ạ Ề ĐẠ 41TÂY S N TH I QUANG TRUNG - NGUY N HU Ơ Ờ Ễ Ệ 41VÀ NH NG TÁC NG T I KHU V C Ữ ĐỘ Ớ Ự 41ÔNG NAM Á L C AĐ Ụ ĐỊ 414.1. Tây S n - phong tr o nông dân i n hình trong khu v c ông Nam Á trong n a ơ à đ ể ự Đ ửcu i th k XVIIIố ế ỷ 414.2. Vai trò c a nhân t Trung Qu c ủ ố ố 434.3. Nh ng tác ng c a chính sách ngo i giao tri u i Tây S n th i Quang Trung ữ độ ủ ạ ề đạ ơ ờ– Nguy n Hu t i khu v c ông Nam Á l c aễ ệ ớ ự Đ ụ đị 464.4. Nh ng m t h n ch c a chính sách i ngo i tri u i Tây S n th i Quang ữ ặ ạ ế ủ đố ạ ề đạ ơ ờTrung – Nguy n Huễ ệ 49K T LU NẾ Ậ 54TÀI LI U THAM KH OỆ Ả 57LỜI MỞ ĐẦUNhững năm cuối thế kỷ XVIII chứng kiến những biến đổi của chế độ phong kiến ở phương Đông nói chung và ở các nước Đông Nam Á lục địa nói riêng. Đông Nam Á là một khu vực địa lý lịch sử với nhiều nét tương đồng trong quá trình phát triển và tồn tại qua nhiều thế kỷ. Quá trình phát triển của 1các quốc gia trong khu vực này từ thời nguyên thủy đến khi bị chủ nghĩa thực dân xâm lược hoàn toàn đều trải qua ba thời kỳ nhỏ: thời kỳ hình thành vương quốc cổ [thời nguyên thuỷ đến thế kỷ 10], thời kỳ đấu tranh, xác lập và phát triển thịnh đạt của vương quốc dân tộc [thế kỷ 10 - thế kỷ 15] và thời kỳ suy thoái của chế độ phong kiến [thế kỷ 16 - nửa đầu thế kỷ 19]. Đặc điểm nổi bật của khu vực Đông Nam Á lục địa những năm cuối thế kỷ XVIII là sự phát triển không đồng đều với những chiều hướng trái ngược nhau. Khung cảnh tổng quan của Đông Nam Á lục địa giai đoạn này rất phức tạp, tất cả các quốc gia [bao gồm: Chân Lạp, Đại Việt, Miến Điện, Lào Lạn Xạng và Xiêm La] đều ở trong hoàn cảnh chiến tranh chống ngoại xâm và những mâu thuẫn xã hội gay gắt. Cuộc chiến tranh giữa các quốc gia trong khu vực với nhau và giữa đế quốc Trung Hoa với các quốc gia này đã gây ra tình trang hỗn loạn tại khu vực.Trung Hoa từ rất sớm đã trở thành một đế quốc phong kiến hùng mạnh và trung tâm văn hoá – chính trị lớn, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quốc gia ở châu Á nói chung, các quốc gia Đông Nam Á lục địa nói riêng. Tất cả các quốc gia trong khu vực đều thi hành chính sách thần thuộc và triều cống để thiết lập mối giao hảo với đế quốc này. Trung Hoa phong kiến là đối tác quan trọng vào bậc nhất trong chính sách đối ngoại của tất cả các quốc gia và tiến trình lịch sử của khu vực Đông Nam Á lục địa.Thế kỷ XVIII, ở Đại Việt, phong trào khởi nghĩa của nông dân phát triển mạnh mẽ nhằm lật đổ sự thống trị của giai cấp phong kiến thối nát, điển hình nhất là phong trào Tây Sơn. Cuộc khởi nghĩa đã cùng một lúc làm được hai nhiệm vụ quan trọng: lật đổ ngai vàng một vua hai chúa, đặt cơ sở để thống nhất nước nhà; đồng thời đánh tan quân xâm lược của đội quân Xiêm La được coi là hùng mạnh nhất khu vực Đông Nam Á và hai mươi chín vạn Mãn Thanh. Những thắng lợi này đã đưa đến sự thiết lập triều đại Tây Sơn. Tuy thời gian tồn tại ngắn ngủi nhưng triều đại Tây Sơn thời Quang Trung – 2Nguyễn Huệ đã có những đóng góp quan trọng trong lịch sử dân tộc, đặc biệt trên mặt trận ngoại giao với hai đối tác lớn là Trung Quốc và các nước Đông Nam Á lục địa. Những con người như Quang Trung, Ngô Thì Nhậm đã tạo nên một thời kỳ ngoại giao hiển hách. Những thành công này có tác dụng duy trì hoà bình, xoá bỏ hận thù và nguy cơ bùng nổ cuộc chiến tranh mới giữa Đại Việt và Mãn Thanh. Không chỉ có thế, nó còn có những ảnh hưởng tới chính sách ngoại giao của Quang Trung tới khu vực Đông Nam Á lục địa nói chung và chính sách ngoại giao riêng biệt với từng quốc gia trong khu vực nói riêng từ đó có những tác động nhất định tới tiến trình lịch sử của khu vực. Trung Quốc với vai trò và ảnh hưởng to lớn trong khu vực nên trong quá trình nghiên cứu cũng không thể không đề cập đến nhân tố này. Có thể nói, Trung Quốc là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến chính sách đối ngoại của bất cứ triều đại phong kiến Đại Việt nào nói chung và cũng đặc biệt quan trọng với triều đại Tây Sơn thời Quang Trung – Nguyễn Huệ. Những thắng lợi rực rỡ của Tây Sơn từ rất sớm đã trở thành mối quan tâm của các nhà nghiên cứu. Do đó, nguồn tư liệu nghiên cứu về phong trào Tây Sơn, thời đại Quang Trung – Nguyễn Huệ khá phong phú và đồ sộ. Riêng về chính sách ngoại giao thời Tây Sơn đã có khoảng gần 30 bài viết và công trình1 nghiên cứu nghiêm túc và đầy tâm huyết. Những công trình nghiên cứu và bài viết trên chủ yếu đề cập về ngoại giao triều đại Tây Sơn dưới góc độ lịch sử và chiếm số lượng khá khiêm tốn trong tổng số các công trình nghiên cứu về khởi nghĩa Tây Sơn. Một số tác phẩm tiêu biểu như: “Quang Trung - anh hùng dân tộc” của Hoa Bằng - Hoàng Thúc Trâm; “Cách mạng Tây Sơn” của Văn Tân; “Lịch sử bang giao Việt Nam – Đông Nam Á” của Trần Thị Mai; “Bang giao Đại Việt” [tập 4, triều đại Tây Sơn], “Ngoại giao Việt Nam từ thuở dựng nước đến trước Cách mạng tháng Tám 1945”, của Khoa Chính 1 Trong “Thư mục về Tây Sơn - Nguyễn Huệ”, Thư viện Khoa học tổng hợp Nghĩa Bình xuất bản, 1988 đã liệt kê khoảng 20 bài viết và công trình nghiên cứu về ngoại giao thời Tây Sơn. Từ đó đến nay, đã có gần 10 công trình nghiên cứu về ngoại giao thời Tây Sơn được xuất bản.3trị Quốc tế và Ngoại giao Việt Nam, Bộ môn Chính sách Đối ngoại Việt Nam, Học viện Quan hệ quốc tế đã miêu tả và phân tích một số thành tựu và đặc điểm của ngoại giao triều đại Tây Sơn thời đại Quang Trung – Nguyễn Huệ.Qua đó cho thấy, thành tựu chung về nghiên cứu ngoại giao thời Tây Sơn là rất lớn. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một nghiên cứu về ngoại giao triều đại Tây Sơn thời Quang Trung – Nguyễn Huệ và những tác động tới khu vực Đông Nam Á lục địa, đặc biệt dưới góc độ nghiên cứu quan hệ quốc tế. Đây là khu vực gần gũi và có nhiều nét tương đồng trong văn hoá, địa lý, bối cảnh và tiến trình lịch sử với Đại Việt. Chính vì thế, khóa luận này cố gắng phân tích mối quan hệ bang giao của Đại Việt với cả hai đối tác truyền thống là Trung Quốc thời Mãn Thanh và các quốc gia Đông Nam Á lục địa. Mối quan hệ bang giao này được phân tích dựa trên cơ sở phân tích của lý luận quan hệ quốc tế bao gồm ba yếu tố: [i] bối cảnh của khu vực Đông Nam Á lục địa, Trung Quốc tác động đến việc đưa ra chính sách ngoại giao; [ii] tình hình nội tại của Đại Việt – cơ sở hoạch định chính sách ngoại giao; [iii] đường lối ngoại giao và nhân vật ngoại giao nhằm đánh giá vị trí, vai trò của mỗi quốc gia, mối tương quan với các quốc gia khác trong một trật tự quốc tế nhất định.Từ đó, khoá luận bước đầu đưa ra một số nhận định về tác động của chính sách ngoại giao triều đại Tây Sơn thời Quang Trung – Nguyễn Huệ đến khu vực Đông Nam Á lục địa.Trong quá trình nghiên cứu, một số nguồn tư liệu được sử dụng bao gồm: Các tài liệu lịch sử về khu vực Đông Nam Á lục địa, Trung Quốc và lịch sử Việt Nam Các tài liệu lịch sử nghiên cứu về phong trào khởi nghĩa và triều đại Tây Sơn. Các ghi chép của người đương thời, những nhân vật trọng yếu của chính quyền Tây Sơn trực tiếp tham gia vào hoạt động ngoại giao đối ngoại, những công văn, thư từ của vương triều Tây Sơn giao thiệp với các nước 4Trung Quốc, Lào Lạn Xạng. Đặc biệt phải kể đến nguồn tư liệu chính sử của Việt Nam bao gồm: - Bộ tiểu thuyết lịch sử chương hồi “Hoàng Lê nhất thống chí” của các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì [Ngô Gia văn phái].- Tập “Đại Việt quốc thư” thu thập một số văn bản thư từ của quan chức nhà Tây Sơn với nhà Thanh.Trong quá trình hoàn thành khoá luận, phương pháp lịch sử và phương pháp nghiên cứu quốc tế là hai phương pháp chính được sử dụng để phân tích và lý giải các vấn đề.Khoá luận được chia làm bốn chương:Chương 1: Những nhân tố tác động đến quá trình hoạch định chính sách ngoại giao của triều đại Tây Sơn thời Quang Trung – Nguyễn Huệ. Chương này đề cập đến bối cảnh lịch sử của các quốc gia Đông Nam Á lục địa, Trung Quốc thời đại Mãn Thanh, và tình hình của Đại Việt trong những năm cuối thế kỷ XVIII.Chương 2: Ngoại giao triều đại Tây Sơn thời Quang Trung – Nguyễn HuệChương hai khái quát những chính sách và các hoạt động ngoại giao của triều đại Tây Sơn thời Quang Trung – Nguyễn Huệ với hai đối tác chính là Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á lục địaChương 3: Đường lối ngoại giao và nhân vật ngoại giao. Chương ba tập trung khắc họa hai nhân vật lich sử có vai trò quan trọng trong việc hoạch định và thực thi chính sách ngoại giao giai đoạn này là Quang Trung – Nguyễn Huệ và Ngô Thì Nhậm.Chương 4: Đánh giá chính sách ngoại giao triều đại Tây Sơn thời Quang Trung – Nguyễn Huệ và những tác động tới khu vực Đông Nam Á lục địa. Chương bốn đưa ra những một vài nhận định đánh giá về sự điển hình của phong trào Tây Sơn, những tác động tích cực của chính sách ngoại giao tới khu vực, cũng như một số hạn chế của các chính sách này.5CHƯƠNG 1NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA TRIỀU ĐẠI TÂY SƠN THỜI QUANG TRUNG - NGUYỄN HUỆ1.1. Tình hình khu vực Đông Nam Á lục địaBức tranh toàn cảnh khu vực Đông Nam Á lục địa cuối thế kỷ XVIII hết sức phức tạp và đa dạng, đó là mối quan hệ đan xen nhau giữa các quốc gia trong khu vực và các mâu thuẫn xã hội chồng chéo nhau trong nội bộ từng quốc gia. Tuy có một số bước phát triển về kinh tế nhưng nhìn chung giai đoạn này chứng kiến sự suy thoái về mặt chính trị của chế độ phong kiến tại khu vực này. Sự suy thoái đã diễn ra ở tất cả các quốc gia. Điều đó thể hiện ở sự mâu thuẫn trong nội bộ giới cầm quyền, các cuộc chiến tranh giành địa vị và tình trạng cát cứ hay phân chia về mặt lãnh thổ. Những cuộc chiến vì địa vị và quyền lực của giai cấp phong kiến đưa đến tình hình xã hội mâu thuẫn gay gắt, đời sống của người dân không được chăm lo, cuộc sống bất ổn định. Đó cũng là nguyên nhân gây ra các cuộc khởi nghĩa của nông dân tại tất cả các nước.Trong lúc đó, thế kỷ XVIII, đặc biệt là những năm cuối thế kỷ lại diễn ra các cuộc chiến tranh giữa các nước trong khu vực nhằm tranh giành địa vị và mở rộng ảnh hưởng. Không một quốc gia nào ở đây không bị cuốn vào các cuộc chiến tranh này. Trước hết là ba cuộc chiến tranh Miến Điện – Xiêm La, lôi kéo theo cuộc chiến xâm lược Lào Lạn Xạng của Miến Điện nhằm mở đường chiếm Xiêm. Mâu thuẫn giữa Miến Điện va Xiêm La là vấn đề chính trị gay gắt nhất của cả hai quốc gia với tư cách là những vương quốc mạnh trong khu vực. Nó bắt nguồn từ bản thân sự tồn tại, mong muốn khẳng định cộng với tham vọng làm chủ được Chiengmai và cao hơn là tham vọng bá quyền trong khu vực. Và nó đã dẫn hai nước đến sự hằn thù, mâu thuẫn, và gây chiến với nhau từ giữa thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX [khi cả hai nước 6đều đã suy yếu và phải lo toan những công việc nội bộ của quốc gia mình] mà gay gắt và khốc liệt nhất là những năm cuối thế kỷ XVIII. Cuộc chiến tranh Miến Điện – Xiêm La bắt đầu bằng những chiến dịch đưa đến việc đánh chiếm Chiengmai và Viêng Chăn. Sự kiện Miến Điện đánh chiếm Lào Lạn Xạng đã kích động các quốc gia lân bang nhiều đến mức buộc Trung Quốc phải tham chiến. Sau chiến thắng quân Miến Điện, Xiêm lại bắt đầu các cuộc chiến xâm lược Viêng Chăn và thu phục Luang Prabang đồng thời gây chiến ở Chân Lạp dẫn đến sự tham chiến của Đại Việt. Trước đó, Xiêm đã đưa quân sang chiếm đất Hà Tiên nhưng thất bại. Không chỉ có thế, sau Miến Điện, Đại Việt cũng phải chiến đấu chống sự can thiệp của quân Xiêm La và quân Mãn Thanh xâm lược.Chính vì thế, tại các quốc gia Đông Nam Á lục địa lúc này đã diễn ra hai cuộc đấu tranh: đấu tranh trong nội bộ mỗi quốc gia để chống lại giai cấp phong kiến lạc hậu và phản động, đồng thời đó là cuộc đấu tranh của dân tộc chống lại quân xâm lược. Chân Lạp: Trong thế kỷ VI, nước Chân Lạp do vua Bhavavarman I đứng đầu chấm dứt sự lệ thuộc của người Khmer vào nước Phù Nam. Sau khi chiến thắng Phù Nam, Chân Lạp trở thành một quốc gia quan trọng trong khu vực, làm chủ một vùng lãnh thổ rộng lớn, mở đầu cho giai đoạn vương quốc Chân Lạp sơ kỳ cùng với sự lan toả của văn hoá Khơme [31, tr. 82]. Nhưng vương quốc Chân Lạp chẳng thịnh trị được bao lâu, sau đó lại rơi vào chia cắt rồi suy yếu. Sự suy thoái của Chân Lạp chính thức bắt đầu từ năm 1350 khi Ayut’ia chinh phục được Sukhothay và cao nguyên Khorạt . Các thế kỷ XVII và XVIII, người Xiêm La và Đại Việt liên tục gây ảnh hưởng tại Chân Lạp, điều này thường kèm theo sự tranh giành ngôi vua trong nội bộ hoàng gia. Cuối thế kỷ XVIII, do tình hình Đại Việt có nhiều biến động nên Xiêm đã chớp lấy cơ hội để áp đặt một nền thống trị vững chắc tại đây. Trong khi người Xiêm liên tiếp tấn công thì chính quyền phong kiến Chân Lạp lại liên 7tiếp sa vào những vụ mưu sát, tranh giành địa vị lẫn nhau. Nói chung, giai cấp phong kiến Chân Lạp không có nền kinh tế riêng, sống chủ yếu bằng một phần lao động thằng dư của nông dân do nhà nước phân phối lại, do đó, toàn bộ cơ cấu chính trị của Chân Lạp là dựa vào nhà vua, người có quyền lực tuyệt đối [31, tr. 129]. Vì thế, chỉ cần một cuộc khủng hoảng triều đại, một ông vua tạ thế hay một vị vua nhỏ tuổi lên ngôi cũng đủ gây ra những cuộc tranh chấp trong đám quan lại và mở ra một thời kỳ nhiễu loạn [15, tr. 46]. Trước sự bất lực, mất tác dụng, không giữ được vai trò chính quyền của giai cấp phong kiến Chân Lạp, vào cuối thế kỷ XVIII, người Thái đã hoàn toàn thống trị Chân Lạp, các vua Chân Lạp đã chịu làm chư hầu và được sắc phong tại Bankok theo các nghi lễ của Xiêm.Lào Lạn Xạng: Tư liệu về tiến trình lịch sử của Lào Lạn Xạng chỉ thực sự đầy đủ và chắc chắn từ thế kỷ XIV, còn các giai đoạn trước đó chủ yếu được biết đến thông qua các truyền thuyết. Đến giữa thế kỷ XIV, xã hội Lào tương đối phát triển cộng với những biến đổi đáng kể, thuận lợi của tình hình các nước trong khu vực Đông Nam Á lục địa [31, tr. 38, 39], Lào Lạn Xạng đã tiến hành các cuộc đấu tranh thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Pha Ngừm. Nhưng quốc gia Lạn Xạng lại được xây dựng trên một nền tảng kinh tế - xã hội phân tán và biệt lập cùng với đặc điểm của địa lý nên đã dẫn đến sự hình thành những thế lực cát cứ địa phương. Từ năm 1707, Lào Lạn Xạng bị chia thành ba quốc gia nhỏ: Luang Prabang, Viêng Chăn và Chămpaxắc. Mỗi quốc gia đều bị suy yếu một cách nghiêm trọng do việc phía bên kia liên tục tìm cơ hội để khôi phục lại sự thống nhất trước đây, tranh thủ sự giúp đỡ của Xiêm, Miến Điện hay Đại Việt [8, tr. 653].Vương quốc Viêng Chăn thực thi chính sách ủng hộ Miến Điện nhưng chỉ có hiệu quả trong giai đoạn đầu. Đến năm 1779, Viêng Chăn bị Xiêm xâm lược và hoàn toàn nằm dưới ách thống trị của Xiêm. Còn vương quốc Luang Prabang thực thi chính sách thân Trung Quốc, về sau thì thiết lập liên minh phòng thủ với Xiêm. Đến khi Viêng Chăn 8bị xâm lược thì Luang Prabang cũng trở thành quốc gia phụ thuộc chặt chẽ vào Xiêm. Như vậy, sau một thế kỷ chia cắt, Lào Lạn Xạng nằm dưới ách thống trị của Xiêm nhưng điều này chỉ diễn ra ở chính quyền trung ương, còn tại các địa phương thì lại thuần phục Tây Sơn [50, tr. 195].Miến Điện: Miến Điện nằm ở phía tây bán đảo Trung Ấn, cả ba mặt Đông, Bắc và Tây đều có những dãy núi cao và hiểm trở bao bọc [31, tr. 165]. Miến Điện trở thành quốc gia tập trung từ thế kỷ X với tên gọi là vương quốc Pagan do vua Anratha trị vì. Nhưng sự thống nhất này cũng chỉ mang tính tạm thời. Trong xã hội Miến Điện tồn tại mâu thuẫn giữa các tộc người mà không một triều đại nào có thể giải quyết một cách căn bản. Thời trị vì của vua Hsinbyushin [1736 – 1776] đánh dấu một vương quốc Miến Điện hùng mạnh từng bước mở rộng kiểm soát trên nhiều vùng đất gồm cả các nhà nước ở vùng đồi núi Shan, trở thành một cường quốc khu vực đáng kể. Năm 1764, chiến tranh với Xiêm bắt đầu. Đầu năm 1766, Ayut'ia bị bao vây và thất thủ tháng 3/1767, bị người Miến Điện phá trụi. Và từ năm 1766 đến 1769, Miến Điện đã phải đối phó với hàng loạt cuộc xâm lược của Trung Quốc, điều đó đã làm suy yếu khả năng khống chế của Miến Điện với Xiêm và tạo điều kiện cho người Xiêm dưới sự lãnh đạo của P’ya Taksin khôi phục lại nhanh chóng. Cuộc chiến tranh với Xiêm chấm dứt với cái chết của Hsinbyushin vào năm 1776. P’ya Taksin đã đánh đuổi họ ra khỏi Lào, khôi phục lại Chiengmai và thống nhất nước Xiêm. Khi Bodawpaya lên làm vua Miến Điện thì đến 1785, cuộc chiến tranh kiệt sức giữa Xiêm và Miến Điện lại nổ ra lần nữa và lần này quân đội Miến Điện đã thất bại thảm hại. Cuối thế kỷ XVIII, các cuộc chiến tranh liên tiếp với Trung Quốc [1766 – 1770], Xiêm [1768 – 1776] và Ấn Độ [1794 – 1795] đã giúp Miến Điện bảo vệ được lãnh thổ và chủ quyền của mình, trừ đất Chiengmai bị sáp nhập vào Xiêm La. Nhưng các cuộc chiến tranh này đã làm cho mâu thuẫn trong xã hội Miến Điện thêm sâu sắc, đẩy 9vương quốc Miến Điện tới chỗ suy thoái nhanh chóng hơn và tới sự bất lực trước cuộc xâm lược của thực dân Anh sau này [31, tr. 183].Xiêm La: Xiêm La là một nước Đông Nam Á lục địa có lịch sử rất trrẻ. Vương quốc Thái La Vô ở hạ lưu sông Mê Nam, được hình thành vào thế kỷ XIV, sau đó chuyển đô về Ayut'ia, lập nên vương quốc Ayut'ia và năm 1349, Ayut'ia hùng mạnh bắt Sukhôthay thần phục ở miền trung sông Mê Nam. Bromoraja [1758 – 1767] là vị vua cuối cùng của Ayut'ia. Ayut'ia là tên một vương quốc nhưng cũng là một giai đoạn phát triển thịnh vượng của thời kỳ phong kiến Xiêm La. Nó chứa đựng nhiều sự kiện sôi động trong đời sống kinh tế, chính trị và văn hoá của vương quốc Xiêm La. Một năm sau khi đức vua lên ngôi, vua Miến Điện là Alaungpaya lấy lý do Xiêm từ chối không trao nộp quân phiến loạn người Môn đang tị nạn tại Xiêm đã xâm lược Xiêm và bao vây Ayut'ia. Năm 1763, vua Hsinbyushin lên ngôi thay Alaungpaya đã bắt đầu chuẩn bị một cuộc tấn công mới vào Ayut'ia. Bị Miến Điện tấn công, ở Xiêm La đã hình thành các thế lực kháng chiến chống Miến Điện nhưng còn phân tán theo tính chất cát cứ địa phương [23, tr. 262]. P’ya Taksin là người lãnh đạo lực lượng mạnh nhất, đã đánh bại quân Miến Điện, thống nhất đất nước và lên làm vua. Cuộc chiến Miến Điện – Xiêm La còn tiếp tục dưới thời vua Rama I nhưng lần này Miến Điện đã thất bại. Sự thất bại của Miến Điện trong cuộc chiến này không chỉ đánh dấu quá trình suy vong của phong kiến Miến Điện mà nó còn đánh dấu sự lớn mạnh của Xiêm La. Cũng từ đây Xiêm La đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện âm mưu xâm chiếm và mở rộng lãnh thổ ra toàn khu vực Đông Nam Á lục địa. Và những năm cuối thế kỷ XVIII, nước Xiêm đã “bao trùm toàn bộ lục địa Đông Nam Á [ngoại trừ lãnh thổ Miến Điện và Việt Nam]” [46, tr. 235, 236].Tóm lại, tình hình nổi bật của khu vực Đông Nam Á lục địa cuối thế kỷ XVIII tập trung ở những vấn đề sau:10 Sự khôi phục của Miến Điện dẫn tới các cuộc chiến tranh xâm lược, mở rộng lãnh thổ. Chiến tranh Miến Điện – Xiêm La đã gây ra tình trạng căng thẳng trong khu vực đặc biệt với sự can thiệp của Trung Quốc khi đưa quân xâm lược Miến Điện. Xiêm La dưới sự trị vì của Taksin và Rama ngày càng phồn thịnh tạo ra một sự cân bằng với Miến Điện. Cùng với chiến thắng quân xâm lược Miến Điện, Xiêm La bắt đầu mở rộng lãnh thổ và ảnh hưởng tại khu vực bằng các cuộc chiến tranh thôn tính. Sự chia cắt của Lào Lạn Xạng và tình trạng bất ổn định tại Chân Lạp cùng với tham vọng của Miến Điện và Xiêm La đã biến hai nước này thành công cụ và nơi tranh giành ảnh hưởng của cả Miến Điện và Xiêm.Tình hình Đông Nam Á lục địa như trên đã tác động đến chính sách ngoại giao của Quang Trung. Trước những diễn biến tại khu vực này, Quang Trung không thể không quan tâm để đưa ra những chính sách ngoại giao riêng biệt với từng nước nhằm đảm bảo an ninh và vị thế của Đại Việt.1.2. Nhà Mãn Thanh dưới thời trị vì của Càn Long [1736 – 1796] Thế kỷ XVIII, trị vì nhà Thanh là Ái Tân Giắc La Hoàng Lịch là con thứ tư của Ung Chính, hoàng đế thứ tư sau khi nhà Thanh vào quan ải. Giai đoạn đầu cai trị của Càn Long, xã hội Trung Quốc có nhiều biến đổi tích cực nhưng nó kéo dài không lâu. Khoảng giữa đời Càn Long về sau, xã hội ngày càng mục ruỗng, ruộng đất tập trung vào tay giai cấp địa chủ người Hán, đời sống nhân dân khốn khó, công thương nghiệp bị kìm kẹp không thể phát triển mạnh. Cuối thế kỷ XVIII, mâu thuẫn xã hội bùng lên gay gắt: loạn ở Sơn Đông năm 1774, Bạch liên giáo phất cờ khởi nghĩa phản Thanh phục Minh ở Hà Nam, An Huy năm 1775… Cũng như các triều đại phong kiến Trung Quốc trước, nhà Mãn Thanh từ khi chiếm xong Trung Quốc liền tiến tới xâm lược và thôn tính các quốc gia 11lân bang. Chẳng thế mà “sau 70 năm chinh phục, triều Thanh đã thành lập được một đế quốc rộng lớn bao gồm lãnh thổ triều Minh và bốn vùng mới là Mãn Châu, Mông Cổ, Tân Cương và Tây Tạng” [33, tr. 169]. Đối với khu vực Đông Nam Á lục địa, chính sách đối ngoại của Trung Quốc thể hiện rất rõ trong hai cuộc xâm lược Miến Điện và Đại Viêt chứng minh mục tiêu xâm lược là “buộc họ tuân theo trật tự Trung Quốc như kiểu các nước đã từng tuân theo trước đây là Việt Nam, Riu – kiu và Xiêm” [38, tr. 63]. Cả hai cuộc chiến tranh này đều diễn ra dưới thời Càn Long.Đối với Miến Điện: Trước sự lớn mạnh của Miến Điện cùng với việc nước này xâm lược Xiêm La, năm 1776, lấy cớ Miến Điện xâm phạm biên giới, nhà Thanh tiến hành chiến tranh xâm lược Miến Điện. Cuộc chiến này kéo dài tới tận năm 1769 với thất bại của Trung Hoa được đánh dấu bằng việc ký kết hiệp ước Kaungton.Đối với Đại Việt: Khi mới lên ngôi vua ở Trung Quốc, phong kiến Mãn Thanh chủ động sang thông hiếu và mang vàng bạc, lụa là sang tặng vua nước Việt. Nhưng chỉ mấy năm sau, 1669, Mãn Thanh bắt đầu lấn chiếm biên giới Đại Việt. Từ đấy cho tới cuối thế kỷ XVIII, chúng liên tiếp lấn chiếm các châu Bảo Lạc, Vị Xuyên, Thuỷ Vì, Quỳnh Nhai, Chiêu Tấn, Lai Châu, Lộc Bình và chiếm hẳn hai châu Quảng Lăng và Khiêm Châu. Năm 1780, Trung Quốc chiếm thêm bốn châu nữa là Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phì và Lễ Tuyền. Điều đó cho thấy khá rõ âm mưu của Mãn Thanh nhằm một lần nữa xâm lược Đại Viêt, biến nước ta thành một quận huyện của chúng.Năm 1788, nhân việc Lê Chiêu Thống chạy sang xin vua Thanh giúp đỡ đánh lại quân Tây Sơn, Càn Long đã có được một cơ hội hiếm có. Càn Long bèn sai tổng đốc Lưỡng Quảng của nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị nhanh chóng tổ chức chiến tranh xâm lược nước ta. Không muốn có một thất bại nhục nhã như ở Miến Điện gần chục năm trước và cũng để lấy lại cái uy ở lục địa Đông Nam Á, Đại Việt trở thành một mục tiêu xâm lược nhiều ý nghĩa của nhà 12Thanh mà nếu chiến thắng, uy thế và vị trí đế quốc lớn nhất của Trung Quốc sẽ được khẳng định mạnh mẽ. Chính vì thế Càn Long đã quyết định đưa sang nước ta một lực lượng quân lớn với 29 vạn quân quyết tâm chiến thắng cao.Như vậy, có thể thấy, dưới sự trị vì của Càn Long, đặc biệt là giai đoan sau, Mãn Thanh đã không còn quan tâm đến sự phát triển kinh tế, và đời sống của nhân dân, thay vào đó lại tăng cường đàn áp và khống chế người dân về mặt tư tưởng. Điều đó lại làm cho những mâu thuẫn trong lòng xã hội nổi lên gay gắt. Thêm vào đó, Mãn Thanh cũng phải liên tiếp gánh chịu những thất bại trong các cuộc chiến tranh xâm lược. 1.3. Đại Việt: những biến động cuối thế kỷ XVIII 1.3.1. Khởi nghĩa Tây SơnThế kỷ XVII đặc biệt là những năm đầu của thế kỷ XVIII “diễn ra quá trình suy yếu của chế độ sở hữu ruộng đất của Nhà nước, do đó đã củng cố chế độ chiếm hữu phong kiến tư nhân, chuyển thành chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất” [37, tr. 49] ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Tình trạng này cùng với sự mục ruỗng của chế độ phong kiến và sự tham ô của quan lại đã đẩy cuộc sống của người nông dân vào cảnh khốn khó vô cùng do đó mà trong xã hội Việt Nam “không có một thời kỳ nào mà cuộc biến động xã hội lại nổ ra sâu sắc, rộng rãi và triền miên” [48, tr. 5] như thế. Các cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra từ Bắc vào Nam, phong trào nọ nối tiếp phong trào kia, diễn ra sôi nổi từ Bắc vào Nam. Đỉnh cao của các cuộc khởi nghĩa nông dân giai đoạn này là phong trào Tây Sơn. Nó đã trở thành sự kiện có ý nghĩa quan trọng nhất trong lịch sử Đại việt nửa sau thế kỷ XVIII. Năm 1771, Nguyễn Nhạc cùng hai em là Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ dựng cờ khởi nghĩa ở Tây Sơn. Khẩu hiệu khôn khéo “đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Hoàng Phúc Dương” vì đã đáp ứng đúng nguyện vọng nên đã thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân đi theo.13Chiến thắng Phú Yên năm 1775 đánh dấu một bước phát triển mới rộng ra toàn quốc của phong trào Tây Sơn. Năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng đế hiệu, đặt niên hiệu là Thái Đức, gọi thành Đồ Bàn là Hoàng Đế thành, phong cho Nguyễn Lữ làm Tiết chế,, Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân. Từ đó, quân Tây Sơn liên tục mở các cuộc tấn công vào Gia Định. Quân Nguyễn tan rã, một nhóm tàn quân theo Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm cầu cứu vào năm 1783. Nhưng đội quân cứu viện của Xiêm cùng với tàn quân Nguyễn Ánh đã bị thất bại nhục nhã ở Rạch Gầm – Xoài Mút. Và cũng từ chiến thắng này, phong trào Tây Sơn chuyển hẳn sang một giai đoạn mới, đồng thời làm hai nhiệm vụ: chống giai cấp phong kiến thống trị tàn bạo trong cả nước và bảo vệ độc lập dân tộc. Cũng với khí thế của cuộc chiến thắng lợi trước quan Xiêm, quân Tây Sơn quyết định đánh Phú Xuân và giành được thắng lợi dễ dàng. Sau đó, lấy danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh”, quân Tây Sơn cấp tốc vượt sông Gianh hành quân ra Bắc đánh tan quân Trịnh trong vòng chưa đầy hai tháng. Sau chiến thắng ở Thăng Long, Nguyễn Huệ trao lại quyền hành cho vua Lê rồi rút quân vào Nam nhưng Bắc Hà lại lâm vào cảnh rối loạn bởi sự nổi dậy của họ Trịnh, sự trả thù của vua Lê Chiêu Thống, và sự chuyên quyền của Nguyễn Hữu Chỉnh. Do đó, Nguyễn Huệ một lần nữa phải đem quân ra Bắc Hà ổn định tình hình rồi giao cho Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm và một số tướng lĩnh khác trấn giữ còn mình trở về Phú Xuân. Chính lúc này, Lê Chiêu Thống lại cầu khẩn sự giúp đỡ của nhà Thanh. Theo lệnh của Càn Long, Tổng đốc Lưỡng Quảng của nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị đã nhanh chóng tổ chức chiến tranh xâm lược nước ta. Được tin quân Thanh đến biên giới, các tướng lĩnh Tây Sơn đã cử một sứ bộ ngoại giao gồm một số quan lại cũ của triều đình nhà Lê đang cộng tác với chính quyền Tây Sơn là “Nguyễn Quý Nha, Trần Bá Lãm, Võ Huy Tấn, Nguyễn Đình Khoan, Lê Duy Chữ” [18, tr. 157] đem một bức thư ký tên Giám quốc Lê Huy Cận và một tờ bẩm ký tên các 14hào mục Bắc Hà tới biên giới giao cho Tôn Sĩ Nghị không chỉ làm kế hoãn binh mà còn muốn nói cho Tôn Sĩ Nghị biết nhà Lê vẫn cai trị Bắc Hà, vua Lê Chiêu Thống bỏ ngôi nên có người của tôn thất nhà Lê lên thay. Đây là hoạt động ngoại giao đầu tiên của Tây Sơn với nhà Lê, tuy thất bại do không gặp được Tôn Sĩ Nghị nhưng hoạt động ngoại này đã bác bỏ chiêu bài “phù Lê diệt Tây Sơn” của quân Mãn Thanh và xác định chủ quyền lãnh thổ của Đại Việt. Ngày 25/11 năm Mậu Thân [1789] đạo quân chủ lực của Tôn Sĩ Nghị vượt sông Hồng kéo vào chiếm Thăng Long lúc này chỉ còn là một cái thành rỗng sau khi quân Tây Sơn rút khỏi Thăng Long và đồng bằng Bắc Hà. Thấy đội quân của Tôn Sĩ Nghị, lực lượng ủng hộ Lê Chiêu Thống bắt đầu ngóc đầu dậy, xã hội Bắc Hà bị phân hoá thành nhiều xu hướng khác nhau. Tại Phú Xuân, ngày 22/12/1788 [tức ngày 25/11 năm Mậu Thân] Nguyễn Huệ nhận được tin cấp báo, vừa khẩn trương chuẩn bị về mặt quân sự vừa đề ra những biện pháp chính trị, ngoại giao nhằm giành ngọn cờ chính nghĩa, vạch trần bộ mặt của bè lũ bán nước và cướp nước và ngày 26/12/1788 [tức ngày 29/11 năm Mậu Thân], tại núi Bân [thuộc Phú Xuân], Ông lên ngôi Hoàng đế. “Cùng với việc lên ngôi này, Nguyễn Huệ là người tuyên bố sự cáo chung của triều Lê và khẳng định mình là người chịu trách nhiệm cao nhất trong việc điều khiển vận mệnh quốc gia và dân tộc” [47, tr. 231]. “Chiếu lên ngôi” của Nguyễn Huệ là bản cáo trạng chế độ nhà Lê thối nát, khẳng định quyền tự chủ của dân tộc và trách nhiệm của Nguyễn Huệ đối với dân, với nước. “Chiếu lên ngôi” phủ định hoàn toàn ngôi vua của Lê Chiêu Thống, kẻ bỏ ngôi chạy trốn và rước quân Thanh về dày xéo đất nước đồng thời một lần nữa chỉ rõ, chiêu bài “phù Lê diệt Tây Sơn” chỉ là hành động xâm lược của quân Thanh. Sau khi cấp tốc hành quân, đêm 30 Tết, đại quân Nguyễn Huệ bắt đầu vượt Gián Khẩu và bất ngờ tấn công vào dinh trại của quân Lê Chiêu Thống ở vòng ngoài. Ngày mồng 3 Tết, đồn Hà Hồi thất thủ. Trận công kích vào thành Thăng Long bắt đầu từ đêm mùng 4, rạng ngày mùng 5 Tết vào căn cứ Đống 15Đa và tấn công trực diện vào đồn Ngọc Hồi. Chiến trận diễn ra ác liệt trong vòng nửa ngày thì đồn Ngọc Hồi bị tiêu diệt. Tôn Sĩ Nghị liên tiếp nghe tin thất bại, vội vàng sai làm cầu phao vượt sông Nhị Hà chạy về Bắc, vua Chiêu Thống cũng vội và theo Tôn Sĩ Nghị về Bắc. Với thắng lợi oanh liệt của cuộc đại phá quân Thanh, phong trào nông dân Tây Sơn đã phát triển đến đỉnh cao nhất của cuộc chiến tranh nông dân trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. Xuất phát từ một cuộc khởi nghĩa nông dân, đấu tranh giai cấp trong nước, cuộc khởi nghĩa chuyển hoá thành phong trào đấu tranh dân tộc nhằm bảo vệ đất nước khỏi ách xâm lược của phong kiến nước ngoài.1.3.2. Triều đại Tây SơnPhong trào nông dân Tây Sơn đã thực hiện nhiệm vụ lịch sử trọng đại là đánh đổ tập đoàn phong kiến lỗi thời một vua hai chúa trong nước, dẹp nạn ngoại xâm hoàn thành vẻ vang công cuộc thống nhất đất nước. Nhưng những lãnh tụ của phong trào nông dân đã nảy sinh những mối bất hoà, nghi kỵ lẫn nhau dẫn đến việc phân chia quyền lực. Sau xung đột năm 1787, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ “lấy sông Bến Ván [Quảng Ngãi] làm ranh giới chia nhau vùng cai trị” [29, tr. 185]. Từ Quảng Ngãi trở vào thuộc quyền của Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ được phong làm Đông Định Vương trấn giữ đất Gia Định. Từ Quảng Nam ra Bắc do Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ [năm 1788 ông lên ngôi Hoàng đế] cai quản. Và vương triều của Nguyễn Huệ tồn tại bền vững nhất, đã thực thi một số chính sách tiến bộ, có nhiều đóng góp quan trọng trong lịch sử dân tộc nửa cuối thế kỷ XVIII. Quang Trung đã ban hành một loạt những biện pháp nhằm nhanh chóng giải quyết những khó khăn chồng chất của đất nước đương thời. Ông thực hiện xây dựng bộ máy chính quyền trung ương là một tổ chức Nhà nước theo chế độ quân chủ tập trung quan liêu, dưới vua là hàng ngũ quần thần bá quan văn võ giúp việc cho vua. Trong khoảng từ 1789 đến 1792, ông đã cho ban hành 16nhiều chính sách lớn, tạo được những ảnh hưởng tốt đẹp. Quang Trung cũng là người có thái độ khoan dung với các tôn giáo. Song song với việc ưu tiên phát triển nông nghiệp, ông đã xoá bỏ chế độ “ức thương” thúc đẩy sản xuất trong xã hội; đồng thời chú trọng tới việc đề cao chữ Nôm. Tổ chức và trang bị quân đội thời Nguyễn Huệ đã được cải tiến và nâng cao thêm một bước với những đội quân đặc biệt, được trang bị khá hiện đại và hùng mạnh chứng tỏ “Quang Trung đã lập ra một nền chính trị hoàn toàn mới, trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử Đông Dương quân sự được xem trọng hơn dân sự” [38, tr. 65]. Trong công tác đối ngoại, người anh hùng áo vải cũng đã làm được rất nhiều công việc giúp cho duy trì sự ổn định và an bình của đất nước.Bối cảnh khu vực Đông Nam Á lục đại, tình hình Trung Quốc cộng với những biến đổi trong nội bộ của Đại Việt là những nhân tố quan trọng và quyết định tới chính sách đối ngoại của Quang Trung – Nguyễn Huệ. Chính sách đối ngoại là sự tiếp nối của chính sách đối nôi, do đó nhân tố nội tại của Đại Việt đóng vai trò quyết định nhất đến quá trình này. Những cải cách ban đầu của Quang Trung đã đem lại một số kết quả nhất định, tạo ra sự ổn định trong xã hội Đại Việt, để từ đó, Quang Trung đã đưa ra những đường lối đối ngoại phù hợp với tình hình Trung Quốc và khu vực giai đoạn hậu bán thế kỷ XVIII.17CHƯƠNG 2NGOẠI GIAO TRIỀU ĐẠI TÂY SƠN THỜI QUANG TRUNG – NGUYỄN HUỆXuất phát từ mục đích ngoại giao, đặc điểm trong quan hệ đối ngoại của Tây Sơn thời Quang Trung – Nguyễn Huệ là đấu tranh chính trị với Trung Quốc là chủ yếu, coi trọng phát triển quan hệ bang giao với các nước trong khu vực Đông Nam Á lục địa. Về phía Bắc, Quang Trung muốn khẳng định vị thế chính trị, tính chính thống của mình bằng sự thừa nhận của nhà Thanh đối với Đại Việt. Đối với biên giới phía Tây, Quang Trung muốn có sự yên ổn, phát triển thương mại để tập trung lực lượng đối phó với Nguyễn Ánh ở phía Nam. Nền ngoại giao thời Tây Sơn với hai đối tác chính là Trung Quốc đời Càn Long và các quốc gia Đông Nam Á lục địa, tuy còn sơ khai nhưng đã có rất nhiều thành tựu quan trọng trong lịch sử ngoại giao Việt Nam. Vị thế Đại Việt được nâng cao trong sự đánh giá của Trung Quốc . Đối với người Xiêm “ngoài miệng tuy nói khoác nhưng trong lòng sợ Tây Sơn hơn sợ cọp” sau thất bại Rạch Gầm, Xoài Mút. Đối với Ai Lao, các tiểu quốc hoặc các mường nhỏ thường thần phục và dựa vào uy thế chính trị của Tây Sơn để bảo vệ khỏi sự xâm lấn của Xiêm. 2.1. Ngoại giao với nhà ThanhTriều đại Tây Sơn thiết lập đánh dấu thời kỳ đấu tranh ngoại giao vô cùng mềm dẻo và khéo léo nhằm làm xoay chuyển dần thái độ của nhà Thanh, từ chỗ giận dữ vì bị tổn hại uy danh tới chấp nhận mối quan hệ bang giao hoà hiếu lâu dài. “Những hành động quân sự của Quang Trung sau chiến dịch Thăng Long là sự chuyển tiếp từ phương thức tiến công quân sự sang tiến công ngoại giao” [18, tr. 194]. Là một nước nhỏ nằm bên cạnh một đế quốc Trung Hoa hùng mạnh, trong lịch sử ngoại giao dân tộc, từ thời Ngô, Đinh, Lý, Tiền Lê, các triều đại của Đại Việt đã thi hành chính sách ngoại 18giao khôn khéo, linh hoạt, kết hợp giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao. Nó là kinh nghiệm có tính chất truyền thống nhằm làm tiêu tan ý đồ phục thù của các triều đại phong kiến Trung Quốc sau mỗi lần thất bại. Đầu tiên, ta dựa vào thế nước, dựa vào chiến thắng quân sự để tiếp tục tấn công địch. Điều này không chỉ giúp ta củng cố những thắng lợi vừa đạt được mà còn làm cơ sở để tiến tới những mục tiêu khác. Và truyền thống ấy đã được vận dụng sáng tạo và thành công dưới triều đại Tây Sơn thời Quang Trung - Nguyễn Huệ.Giảng hoà với nhà Thanh: Thắng lợi của mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 không chỉ khẳng định vị thế và vai trò của triều đại Tây Sơn cũng như Hoàng đế Quang Trung mà còn bắt đầu một giai đoạn mới trong quan hệ ngoại giao với nhà Thanh. Là một nước lớn với 29 vạn quân bị tiêu diệt không khỏi tủi hổ, do đó, Càn Long đã ra lệnh cho gọi Tôn Sĩ Nghị về Yên Kinh hậu cứu, đồng thời cử Phúc Khang An làm tổng đốc Lưỡng Quảng thay Tôn Sĩ Nghị đốc thúc 50 vạn quân của chín tỉnh, định ngày kéo đến trấn Nam Quan đánh Đại Việt một lần nữa. Về phía Quang Trung – Nguyễn Huệ cũng đã sớm biết cái thế khó xử của vua tôi nhà Thanh nên ngay từ khi kéo quân đến núi Tam Điệp, vua Quang Trung đã tính đến việc giảng hoà với nhà Thanh và giao việc này cho Ngô Thì Nhậm phải đưa thư sang Thanh xin giảng hoà, xưng thần, nộp cống vật và cầu phong. Sau này, khi Nguyễn Huệ trở về Phú Xuân thì công việc bang giao với nhà Thanh cũng được giao lại cho Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích. Đồng thời khi kéo quân vào Thăng Long, Quang Trung cũng ra lệnh cấm giết bại binh Thanh khi bắt được. Về phần Phúc Khang An, vốn là người phụ trách quân lương cho đoàn quân của Tôn Sĩ Nghị trước đây cho nên cũng thấy cái thế khó thắng của mình. Trong đội quân bại trận của Tôn Sĩ Nghị có Thang Hùng Nghiệp đã tìm cách hoà hoãn với quân Tây Sơn khi biết sức mình không thể thắng nổi. Ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, Thang Hùng Nghiệp chạy trốn lên phía ải Nam Quan qua biên giới về nước. 19Vừa tới Quảng Tây, ngày 18 tháng Giêng vội viết thư cho đại tướng của Đại Việt là Hám Hồ Hầu2 “đề nghị hoãn binh và yêu cầu Hám Hồ Hầu trình bày với Nguyễn Huệ những lẽ hơn thiệt về việc nên giảng hoà với triều đình nhà Thanh, Thang Hùng Nghiệp xin tình nguyện đứng ra làm trung gian điều đình” [4, tr. 187, 188]. Như vậy, có thể thấy, cả Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp đều rất muốn hoà hoãn với Tây Sơn, dập tắt mưu đồ phục thù của nhà Thanh. Tháng Giêng năm Kỷ Dậu, vua Quang Trung cho Nguyễn Hữu Trì, Vũ Huy Phúc sang gặp Thang Hùng Nghiệp, tháng 2 năm Kỷ Dậu lại cho Ngô Thì Nhậm sang Quảng Tây gặp Phúc Khang An. Sau những cuộc gặp gỡ đó việc giao thiệp giữa hai nước được tiến hành khẩn trương. Tháng 3 năm Kỷ Dậu, một sứ bộ Đại Việt gồm có Nguyễn Quang Hiển, Võ Huy Tấn, Ngô Vi Quý, Nguyễn Đình Cử mang cống vật và biểu văn lên đường sang Yên Kinh xin yết kiến Càn Long và xin cầu phong. Đại Việt trao trả 800 tù binh. Nhà Thanh phải đem một số cựu thần nhà Lê là bọn Nguyễn Đình Bài cùng với gia đình của họ, gồm khoảng ngót 100 người trao trả cho quân đội Tây Sơn. Đoàn sứ thần này được tiếp đón long trọng và ban thưởng rất hậu. Cùng với những nỗ lực của Phúc Khang An, Thang Hùng Nghiệp ra sức dàn xếp để vua Càn Long chấp nhận đề nghị giảng hoà của vua Quang Trung. Đến tháng 4 năm Kỷ Dậu, 50 vạn quân của chín tỉnh được lệnh bãi bỏ với hai điều kiện Lập đền thờ Hứa Thế Thanh và hàng năm phải làm lễ tế viên bại tướng đã tử trận này. Sang triều cận vua Càn Long vào dịp bát tuần vạn thọ cử hành vào năm 1790. Quang Trung chấp nhận hai điều kiện này và giai đoạn bang giao hoà bình giữa Đại Việt và Mãn Thanh được mở ra từ đây. Quả thật sách lược ngoại 2 Là người đốc xuất hậu quân, làm đốc chiến, được chỉ định đem quân truy kích bọn Tôn Sĩ Nghị lên tận biên giới, tên thật là Vũ Văn Dũng hoặc Nguyễn Văn Lộc20giao của triều đại Tây Sơn là một minh chứng rõ nét cho việc dùng ngoại giao để mở cho kẻ địch, là “nước lớn”, “thiên triều” một lối thoát, giữ thể diện vì bị một nước nhỏ đánh bại, do đó tránh cho dân tộc ta cuộc chiến tranh trả thù đẫm máu đã được lên kế hoạch với 50 vạn quân.Phong vương cho Quang Trung: Chuyến đi sang Trung Quốc của sứ bộ Nguyễn Quang Hiển tháng 6 năm 1789 đã hoàn thành sứ mệnh cầu phong cho Quang Trung. Để tuyên phong vương tước, ngày 1 tháng 8 năm 1789, Phúc Khang An phái Thành Lâm đem thơ ngự chế và sắc dụ sang Thăng Long. Trong bức thư trao đổi đi lại dàn xếp với Phúc Khang An, “vua Quang Trung định sẽ ra Thăng Long để tiếp đón sắc thư nhưng còn vin đường sá hư hỏng, tất phải chậm trễ vì đợi sửa chữa cầu cống”, bức thư sau “Quang Trung lại nói vì được tin có đến hơn một trăm chiếc thuyền “lạ”, trưng cờ Thanh và khí giới Thanh đang cướp bóc cư dân miền duyên hải nên ngài phải vội vã quay về Phú Xuân” [3, tr. 223]. Sau đó, ông lại lấy lý do là đau ốm hay thành Thăng Long “vượng khí đã tiêu, dân cư thưa thớt” để trì hoãn việc ra thành Thăng Long nhận sắc phong mà ép nhà Thanh phải vào Thuận Hoá. Trong khi đấy, hai viên quan của triều Thanh cũng được lệnh là phải làm lễ tuyên phong ở Thăng Long cho nên không dám vào Phú Xuân theo lời mời của Quang Trung. Sau đó, Nguyễn Huệ cho người giả làm Ông ra Thăng Long đón lệnh tiếp đón sắc thư và bài thư ngự chế của vua Càn Long. Việc sắc phong cho Quang Trung là một thắng lợi ngoại giao lớn của nhà Tây Sơn, nó chính thức phủ nhận cơ sở pháp lý để tồn tại của nhà Lê và sự chính thống của nhà Tây Sơn.Vua Quang Trung giả sang nhà Thanh: Mùa xuân năm 1790, Phúc Khang An giục Quang Trung sửa hành trang sang triều cận vua Thanh như hẹn ước. Nhưng vua Quang Trung lấy cớ là mẹ chết, phải chịu tang, rồi xin cho con là Quang Thuỳ đi thay. Phúc Khang An liền cho người sang Đại Việt bảo cho vua Quang Trung biết rằng nếu không thể đi được thì nên tìm một 21người có dung mạo giống nhà vua đi thay. Vì thế Phạm Công Trị đóng vai Quang Trung giả rồi cùng “Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Vũ Danh Tiêu, Nguyễn Tiến Lỗ, Đỗ Văn Công” [40, tr. 524] đem theo đủ lễ vật và thêm hai thớt voi đực sang Yên Kinh dự lễ bát tuần thượng thọ của vua Càn Long. Vua Quang Trung giả được đón tiếp trọng thể và ban thưởng hậu hĩnh. “Trong lúc sứ bộ đang ở Yên Kinh thì bọn giặc biển đánh phá miền duyên hải Trung Quốc giáp với nước ta. Tướng Trung Hoa là Trần Diệu Cần nhờ viên biên tướng Việt Nam là Phạm Quang Chương giúp sức, tiêu diệt được bọn giặc biển” [45, tr. 139]. Vì thế vua Càn Long đã ban thưởng cho Quang Chương rất hậu hĩnh càng tỏ ra tin tưởng tấm lòng thành thật của vua Quang Trung. Cuộc đón tiếp vua Quang Trung giả ấy “tốn tiền bạc hơn cả quân phí một cuộc viễn chinh lớn” [30, tr. 50] đủ cho thấy thắng lợi ngoại giao này rực rỡ như thế nào. Phái bộ này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ của nhà Thanh. “Tháng 4 năm Tân Hợi [1791], triều đình nhà Thanh cho đem đày bọn cựu thần nhà Lê đi các nước. Còn Lê Chiêu Thống và gia đình hắn bị giam lỏng tai “Tây An Nam dinh” trong kinh thành Yên Kinh” [6, tr. 317]. Như vậy mưu đồ phục thù của bon xâm lược nhà Thanh bị dẹp tan.Bỏ lệ cống người vàng: Từ Lê Thái Tổ đến thế kỷ XVIII, để “trả tội” giết Liễu Thăng, viên tướng tài năng của nhà Minh, đã thành lệ, mỗi năm nước Đại Việt phải đúc người vàng làm lễ cống. Năm 1789, Phúc Khang An đã đòi Nguyễn Huệ theo lệ cũ cống người vàng nhưng Nguyễn Huệ đã sai Ngô Thì Nhậm viết một bức thư trong đó có trình bày đủ lý lẽ, không có tội với nhà Lê cũng không có tội với nhà Thanh đưa cho Phúc Khang An đề nghị vua Thanh bỏ lệ cống người vàng. Và Càn Long đã phải nhượng bộ, lệ cống người vàng được bãi bỏ hẳn. Từ năm 1792, triều Thanh đặt cho Đại Việt một lễ cống độc đáo [2 năm – 1 lần] không quy định cống phẩm, trong thực tế nó trở thành danh nghĩa vì theo lời Càn Long trong dụ viết thì: “ta đánh giá ý thức của 22vương cao hơn các loại và số lượng cống vật”. Trên thực tế, từ năm 1792, cống phẩm của Đại Việt là những đồ vật độc đáo như “các chiến lợi phẩm thu đựoc trên chiến trường ở các nước láng giềng phía Tây, những sách binh pháp cũng như những quyển sách ghi về chế độ mục nát của Lê Chiêu Thống” [38, tr. 77]. Những tặng phẩm ấy vừa có ý nghĩa biểu dương sức mạnh của quân đội Tây Sơn, vừa nói lên lòng tự hào về nghệ thuật quân sự của dân tộc, vừa vạch rõ cho bọn phong kiến nhà Thanh biết rằng những hành động theo gót bọn phản động nhà Lê, xâm lược Đại Việt là trái với nguyện vọng của nhân dân Đại Việt, không được nhân dân Đại Việt ủng hộ và nhất định phải thất bại.Cầu hôn công chúa Mãn Thanh và đòi lại đất Lưỡng Quảng: Khoảng giữa năm 1792 vua Quang Trung sai người làm biểu sang nhà Thanh cầu hôn và xin đất Lưỡng Quảng để đóng đô và người được cử đi sứ nước Thanh làm nhiệm vụ là Vũ Văn Dũng. Cả hai yêu cầu trên đều được vua Càn Long bằng lòng nhưng chỉ cho một tỉnh làm đất đóng đô. Công việc ngoại giao đang tiến hành thuận lợi thì phải bỏ dở vì vua Quang Trung mất. Trong chính sách ngoại giao của nhà Tây Sơn, Quang Trung còn chủ trương liên kết và giúp đỡ những tổ chức nghĩa quân Trung Quốc đang chống lại triều đình Mãn Thanh, khiến triều đình phải lo đối phó với họ, không có thời gian rảnh rỗi để nhòm ngó vào Bắc Hà. Quang Trung cũng liên kết với tổ chức Thiên địa hội ở Tứ Xuyên. Tại vùng duyên hải Quảng Đông, Phúc Kiến có lực lượng các toán nghĩa quân mà được biết dưới cái tên “giặc tàu ô” tương đối quan trọng với hơn 100 chiến thuyền đã nhận được sự giúp đỡ và ủng hộ của Quang Trung. Quang Trung đã phong cho 12 người thủ lĩnh của họ làm tổng binh và ban bằng sắc, ấn tín Đại Việt cho họ. Những toán nghĩa quân này đồng thời làm một lúc hai nhiệm vụ: đánh phá các miền duyên hải Trung Quốc, giữ chân quân đội nhà Thanh không cho chúng xâm lấn Bắc Hà, 23và tiến xuống vùng biển Bình Khang, Bình Thuận, hợp tác với quân đội Nguyễn Nhạc đánh phá vùng duyên hải Gia Định. Phát triển quan hệ thông thương, buôn bán cũng là một trong những mục tiêu quan trọng của ngoại giao giai đoạn này nhằm phát triển kinh tế đất nước, tăng thêm nội lực. Dưới thời trị vì của vua Quang Trung, quan hệ ngoại thương với Trung Quốc là đáng kể và phát triển nhộn nhịp nhất. Ngày 4 tháng 12 năm 1789, trong đạo chỉ của Càn Long về việc thông thương với Đại Việt nêu rõ: “Còn việc thông thương với An Nam, từ khi bị cấm đến nay, nước ấy không có hàng hoá của nội địa. Những vật dụng hàng ngày của dân gian tất là thiếu thốn. Nay nước ấy đã thành tâm quy phụ, giữ chức phiên bang, thì nhân dân hạt ấy đều là xích tử của ta. Ta nên cho mở cảng thông thương, sớm ngày nào thì dân được lợi ngày ấy. Vả lại, An Nam vừa bị nạn binh đao, làng mạc tan nát, tài lực đều hết, lại càng phải kíp cho thông thương ngay, để hoá vật chỗ này lưu thông sang chỗ khác, mà nhân dân được giàu có. Vậy chuẩn sức cho Đốc phủ miền duyên hải cho mở các cửa cảng và cho thông thương như trước” [dẫn theo 26, tr. 23]. Qua năm Nhâm Tý [1792], vua Quang Trung sai Võ Kỉnh Thành, Trần Ngọc Thuỷ sang triều đình nhà Thanh hiến thiệp, xin mở cửa ải Bình Thuỷ ở Cao băng và Du Thôn ở Lạng Sơn để cho Bắc Nam qua lại buôn bán với nhau được miễn thuế, lại xin lập nha hàng ở phủ Nam Ninh tỉnh Quảng Tây để người Nam qua đó sinh sống, vua Càn Long đều chấp thuận những điều này. Triều đại Quang Trung tuy ngắn ngủi nhưng thời đại Quang Trung lại là một trong những thời đại có những thắng lợi ngoại giao rực rỡ nhất. Bằng chính sách ngoại giao khéo léo, Quang Trung đã thực hiện thành công các vấn đề: Ngăn chặn âm mưu phục thù của 50 vạn quân Thanh Triều đình Mãn Thanh phải chính thức thừa nhận Quang Trung là vua nước An Nam24 Yêu cầu Càn Long trao trả bè lũ Lê Chiêu Thống, thủ tiêu hoàn toàn ý đồ phục thù, xoá bỏ hẳn tình trạng chiến tranh giữa hai nước Những thắng lợi ngoại giao với Mãn Thanh đã giúp Quang Trung giữ yên mặt Bắc, tập trung lực lượng xây dựng đất nước và chuẩn bị đánh Gia Định.2.2. Ngoại giao với các quốc gia ở Đông Nam Á lục địaTừ rất sớm Đông Nam Á đã là một khu vực lịch sử - văn hoá một chỉnh thể được sản sinh trong một môi trường và điều kện lịch sử cụ thể. Đặc biệt, các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á lục địa, mối liên hệ giữa các nước được thiết lập từ rất sớm do có chung một không gian địa lý, chung một cội nguồn văn hoá và đặc biệt là có chung số phận lịch sử. Nếu như đại dương là yếu tố liên kết các quốc gia Đông Nam Á hải đảo thì đặc trưng lịch sử của các quốc gia Đông Nam Á lục địa hay bán đảo là “những bộ tộc kiên cường nhất, đã liên tục thiên di về phương Nam” [15, tr.33] và chỉ có những đồng bằng phì nhiêu mới cung cấp được tương đối đầy đủ vật tư cho phép thành lập những quốc gia lớn này. Khác với Trung Hoa, điểm xuất phát cho thể chế trung ương tập quyền là vì lợi ích của một dòng họ mà đứng ra xưng đế thì ở các quốc gia Đông Nam Á lục địa, đó là sự đại diện cho cả nước, cả một dân tộc. Phải chăng vì thế mà các quốc gia Đông Nam Á có khả năng chống lại các cuộc xâm lăng từ bên ngoài, bảo vệ nền văn hoá truyền thống chống đồng hoá. Đồng thời, bằng tính “bản địa hoá”, các quốc gia Đông Nam Á cũng tiếp thu được những tinh hoa văn hoá lớn của châu Á và biến nó thành đặc trưng văn hoá của riêng mình. Và những đặc điểm này đã trở thành sợi dây liên kết các quốc gia trong khu vực. Quan hệ giữa Đại Việt và các quốc gia trong khu vực diễn ra từ rất lâu trong lịch sử như là một tất yếu khách quan dựa trên cơ sở phát triển ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân. Suốt 1000 năm Bắc thuộc, quan hệ giữa Đại Việt với các nước Đông Nam Á bị giảm sút hoặc chấm dứt về mặt nhà nước nhưng quan hệ thương mại giữa nhân dân Đại Việt 25

Video liên quan

Chủ Đề