Công thức tính chi phí ngắn hạn

Tổng chi phí trung bình trong dài hạn là gì? Đặc điểm và đường LRATC?

Trong ngắn hạn, một số đầu vào là cố định trong khi những đầu vào khác có thể thay đổi. Mặt khác, về lâu dài, công ty có thể thay đổi tất cả các đầu vào của mình. Chi phí dài hạn là chi phí tối thiểu để tạo ra bất kỳ mức sản lượng nhất định nào khi tất cả các yếu tố riêng lẻ đều thay đổi. Đường cong chi phí dài hạn giúp chúng ta hiểu được mối quan hệ hàm số giữa chi phí sản xuất và chi phí sản xuất dài hạn.

Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568

1. Tổng chi phí trung bình trong dài hạn là gì?

Tổng chi phí trung bình trong dài hạn [LRATC] là một số liệu kinh doanh đại diện cho chi phí trung bình trên một đơn vị đầu ra trong dài hạn, trong đó tất cả các yếu tố đầu vào được coi là có thể thay đổi và quy mô sản xuất có thể thay đổi. Đường chi phí trung bình dài hạn cho thấy tổng chi phí thấp nhất để tạo ra một mức sản lượng nhất định trong thời gian dài.

Chi phí đơn vị dài hạn hầu như luôn luôn nhỏ hơn chi phí đơn vị ngắn hạn bởi vì, trong khung thời gian dài hạn, các công ty có thể linh hoạt thay đổi các thành phần lớn trong hoạt động của họ, chẳng hạn như nhà máy, để đạt được hiệu quả tối ưu. Mục tiêu của cả ban quản lý công ty và nhà đầu tư là xác định giới hạn thấp hơn của LRATC.

Tổng chi phí trung bình trong dài hạn [LRAC] cho thấy chi phí thấp nhất của công ty trên mỗi đơn vị ở mỗi mức sản lượng, với giả định rằng tất cả các yếu tố sản xuất đều thay đổi. Đường cong LRAC giả định rằng công ty đã chọn kết hợp yếu tố tối ưu, như được mô tả trong phần trước, để tạo ra bất kỳ mức sản lượng nào. Do đó, chi phí mà nó chỉ ra là chi phí thấp nhất có thể cho mỗi mức sản lượng. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là điều này không có nghĩa là các điểm tối thiểu của mỗi đường ATC ngắn hạn nằm trên đường LRAC.

Tổng chi phí trung bình trong dài hạn là đơn giá để sản xuất một đầu ra nhất định khi tất cả các yếu tố đầu vào, thậm chí cả vốn vật chất, đều biến đổi. Giả định về hành vi là doanh nghiệp sẽ chọn sự kết hợp của các yếu tố đầu vào để tạo ra số lượng mong muốn với chi phí thấp nhất có thể. Đường chi phí trung bình dài hạn thường dốc xuống ở mức sản lượng tương đối thấp và dốc lên hoặc xuống ở mức sản lượng tương đối cao.

Thông thường nhất, đường chi phí trung bình dài hạn có dạng hình chữ U, theo định nghĩa phản ánh lợi thế theo quy mô khi có độ dốc tiêu cực và sự không kinh tế về quy mô ở nơi có độ dốc dương. Nếu công ty là một đối thủ cạnh tranh hoàn hảo trên tất cả các thị trường đầu vào, và do đó giá trên mỗi đơn vị của tất cả các yếu tố đầu vào của nó không bị ảnh hưởng bởi lượng đầu vào mà công ty mua, thì có thể chỉ ra rằng ở một mức sản lượng cụ thể, công ty có lợi thế theo quy mô [tức là đang hoạt động trong vùng dốc xuống của đường chi phí trung bình dài hạn] nếu và chỉ khi nó có lợi nhuận theo quy mô ngày càng tăng, thì công ty đó chỉ là một đặc điểm của chức năng sản xuất.

Tương tự như vậy, nó không có tính kinh tế về quy mô [đang hoạt động trong một vùng dốc lên của đường chi phí trung bình dài hạn] nếu và chỉ khi nó có lợi nhuận giảm theo quy mô và không có tính kinh tế cũng như không kinh tế về quy mô nếu nó có lợi nhuận không đổi theo quy mô.Tuy nhiên, nếu công ty không phải là đối thủ cạnh tranh hoàn hảo trên thị trường đầu vào, thì các kết luận trên được sửa đổi.

2. Đặc điểm và đường LRATC:

2.1. Đặc điểm tổng chi phí trung bình trong dài hạn:

Ví dụ: nếu một công ty sản xuất xây dựng một nhà máy mới, lớn hơn để sản xuất, thì giả định rằng LRATC trên mỗi đơn vị cuối cùng sẽ trở nên thấp hơn so với nhà máy cũ do công ty tận dụng được lợi thế về quy mô nhất định hoặc lợi thế chi phí có được mở rộng quy mô sản xuất.

Khi quy mô sản xuất được mở rộng, chi phí bình quân giảm xuống, hoạt động sản xuất trở nên hiệu quả hơn và một công ty có thể trở nên cạnh tranh hơn trên thị trường. Điều này có thể dẫn đến giá cả thấp hơn và lợi nhuận lớn hơn, có thể có lợi cho cả người tiêu dùng và nhà sản xuất — đây được gọi là trò chơi tổng dương.

Xem thêm: Xác định các chi phí trong dự toán xây dựng công trình

Tổng chi phí trung bình trong dài hạn đo lường chi phí trung bình trên một đơn vị sản lượng trong thời gian dài.Trong các khung thời gian dài hạn, các công ty có thể linh hoạt hơn trong việc thay đổi hoạt động của mình.

2.2. Đường tổng chi phí trung bình trong dài hạn:

Việc tính toán LRATC có thể được biểu diễn dưới dạng đường cong cho thấy chi phí thấp nhất mà một công ty có thể đạt được cho bất kỳ mức sản lượng nào theo thời gian. Hình dạng của đường cong đó có thể gần giống với đường cong được tính cho tổng chi phí trung bình trong ngắn hạn. LRATC có thể được xem như được tạo thành từ một loạt các đường cong ngắn hạn khi một công ty cải thiện hiệu quả của mình. Bản thân đường cong có thể được chia thành ba đoạn hoặc pha. Trong thời kỳ kinh tế theo quy mô ở đầu đường cong, chi phí sẽ giảm khi công ty phát triển hiệu quả hơn và chi phí sản xuất giảm.

Những lần lặp lại đầu tiên của quá trình phát triển và lắp ráp sản phẩm mang theo chi phí phần lớn sẽ lớn hơn khi bắt đầu. Khi nhiều nhà máy và dây chuyền sản xuất ra đời, bản chất của chi phí dịch chuyển nhiều hơn theo hướng sản xuất liên tục của sản phẩm. Gánh nặng của những khoản chi đó giảm đi khi công ty dễ dàng lặp lại và tái tạo hoạt động của mình.

Tổng chi phí trung bình trong dài hạn được tạo thành từ tập hợp các đường cong chi phí trung bình ngắn hạn khi công ty cải thiện hiệu quả.

Bản thân đường cong tổng chi phí trung bình trong dài hạn có thể được chia thành ba phân đoạn hoặc ba giai đoạn: lợi thế kinh tế theo qui mô [Economies of Scale], lợi nhuận không đổi theo qui mô [Constant returns to Scale] và bất lợi thế kinh tế theo qui mô [Diseconomies of Scale].

– Lợi thế kinh tế theo qui mô nằm ở đầu đường cong, giai đoạn này chi phí giảm khi công ty hoạt động hiệu quả hơn và chi phí sản xuất của công ty giảm.

Việc phát triển sản phẩm hay các thay đổi lớn có chi phí rất lớn vào giai đoạn ban đầu, tuy nhiên khi các nhà máy và dây chuyền sản xuất được đưa vào hệ thống, chi phí sẽ thay đổi theo hướng các sản phẩm đang được sản xuất.

– Đến một thời điểm nhất định, công ty sẽ bước sang giai đoạn lợi nhuận không đổi theo qui mô khi nó tiến gần hơn đến mức hiệu quả tối đa. Dù chi phí mua nguyên liệu thô có thể giảm bằng cách mua hàng với số lượng ngày càng lớn, nó cũng có giới hạn. Hơn nữa, các qui trình công ty sử dụng cho sản phẩm theo thời gian sẽ có nhịp điệu và tốc độ sản xuất ổn định hơn.

Xem thêm: Chi phí cố định là gì? Đặc điểm và phân loại chi phí cố định?

– Nếu công ty tiếp tục tăng qui mô sản xuất, nó sẽ rơi vào giai đoạn cuối cùng của đường cong tổng chi phí trung bình trong dài hạn – bất lợi thế kinh tế theo qui mô và chi phí bắt đầu tăng lên.

Cuối cùng, công ty sẽ nhận được lợi nhuận không đổi theo quy mô khi nó tiến gần hơn đến hiệu quả cao nhất. Chi phí mua nguyên vật liệu thô có thể được giảm bớt bằng cách mua hàng với số lượng ngày càng tăng. Hơn nữa, các quy trình mà công ty sử dụng để làm cho sản phẩm của mình có thể trở nên ổn định và hợp lý hơn khi nó phát triển nhịp điệu và nhịp độ cho quy trình sản xuất của mình.

Nếu công ty tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất, công ty sẽ đạt đến một phần của đường cong nơi mà sự bất lợi về quy mô trở thành một yếu tố và chi phí tăng lên. Mặc dù một công ty có thể hợp lý hóa hoạt động, nó có thể thấy các lớp quản lý và quan liêu mới được đưa vào, có thể làm chậm quá trình sản xuất và ra quyết định tổng thể. Hoạt động càng phát triển ở giai đoạn này, chi phí sẽ tăng lên do hoạt động mất hiệu quả.

Ví dụ về Tổng chi phí trung bình trong dài hạn

Ví dụ, trong ngành công nghiệp trò chơi điện tử, chi phí để sản xuất một trò chơi rất cao. Tuy nhiên, chi phí tạo bản sao của một trò chơi, một khi đã được sản xuất, là rất thấp. Vì vậy, một khi một công ty có thể tự thành lập, mở rộng cơ sở khách hàng cho một trò chơi cụ thể và nâng cao nhu cầu cho trò chơi đó, thì sản lượng bổ sung cần thiết để đáp ứng nhu cầu đó sẽ làm giảm chi phí tổng thể về lâu dài.

Khái niệm chi phí biên [Marginal Cost] là gì? Lấy ví dụ về chi phí biên? Công thức tính chi phí biên? Mối quan hệ giữa chi phí biên với các loại chi phí khác?

Những phần chi phí tăng thêm khi sản xuất phần sản lượng đầu ra của đơn vị kinh doanh được xác định bằng một tiêu chí được gọi là chi phí biên.

Luật sư tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Chi phí biên là gì?

Khái niệm chi phí biên

Chi phí biên được hiểu là chi phí biểu thị phần chi phí tăng thêm khi sản xuất thêm một đơn vị sản lượng đầu ra. Nó cho chúng ta biết mức phí tổn mà doanh nghiệp phải bỏ ra hoặc hi sinh thêm để đánh đổi lấy việc có thêm được một đơn vị đầu ra.

Chi phí biên là phần chi phí tăng thêm tương ứng với một sản phẩm được sản xuất thêm so với số lượng dự tính ban đầu, từ chi phí biên mà ta biết được số phí tổn hay chính là mức tiền mà công ty phải bỏ ra để sản xuất thêm 1 sản phẩm nữa.

Hay hiểu theo cách đơn giản thì chi phí biên chính là sự biến đổi trong tổng chi phí sản xuất khi tăng thêm hoặc giảm đi một đơn vị sản phẩm do với dự tính ban đầu.

Mối quan hệ giữa chi phí biên với các loại chi phí khác

Sự thay đổi trong chi phí biên có thể làm biến động đến những loại chi phí khác theo hướng tăng dần hoặc giảm dần.

– Giữa chi phí biên với chi phí trung bình:

Xem thêm: Chi phí chìm là gì? Phân biệt chi phí chìm với chi phí cơ hội?

Khi chi phí biên nhỏ hơn chi phí trung bình thì chi phí trung bình sẽ được xác định là giảm cần.

Khi chi phí biên bằng chi phí trung bình thì chi phí trung bình sẽ đạt giá trị cực tiểu.

Khi chi phí biên lớn hơn chi phí trung bình thì giá trị của chi phí trung bình sẽ tăng dần.

– Giữa chi phí biên và chi phí biến đổi trung bình:

Khi chi phí biên nhỏ hơn chi phí biến đổi trung bình thì chi phí biến đổi trung bình sẽ bị giảm dần.

Khi chi phí biên bằng mức chi phí biến đổi trung bình thì chi phí biến đổi trung bình sẽ đạt giá trị cực tiểu.

Khi chi phí biên lớn hơn chi phí biến đổi trung bình thì giá trị của chi phí biến đổi trung bình sẽ được tăng dần.

Ưu điểm của chi phí biên

Xem thêm: Hệ số chi phí biến đổi là gì? Đặc điểm và cách tính hệ số chi phí biến đổi

Việc các nhà quản lý áp dụng phương pháp chi phí biên vào quá trình giải quyết công việc bởi vì nó có các ưu điểm điển hình như:

– Chi phí biên là phương pháp được sử dụng chủ yếu để giúp cho người quản lý dễ dàng so sánh được kết quả của quá trình thưc hiện kế hoạch để từ đó đưa ra được quyết định cắt giảm những hoạt động không đem lại được hiệu quả, đồng thời đối chiếu, so sánh doanh thu….

– Cách thức đơn giản, dễ dàng áp dụng đồng thời tạo ra hiệu suất hiệu quả hơn.

– Giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết định có giá trị, từ tổng hợp kết quả để đưa ra các kế hoạch sản xuất mới.

– Từ việc áp dụng chi phí biên mà có thể lựa chọn ra được sản phẩm tối ưu nhất có giá thành sản xuất không bị biến động.

Nhược điểm của chi phí biên

– Trong quá trình áp dụng chi phí biên thì người quản lý thường gặp khó khăn, hạn chế khi thực hiện các thủ tục định giá sản phẩm tồn kho.

– Trong một số trường hợp, việc sử dụng kết quả của chi phí biên để đưa ra quyết định thì sẽ khá nguy hiểm và nhiều rủi ro…

Xem thêm: Chi phí chung biến đổi là gì? Chi phí chung biến đổi và định giá sản phẩm

Chi phí biên trong tiếng anh là Marginal Cost

2. Công thức xác định chi phí biên:

Chi phí biên [MC – Marginal Cost] là sự thay đổi trong tổng chi phí hay tổng chi phí biến đổi khi thay đổi một đơn vị sản lượng.

Chi phí = thay đổi của tổng chi phí/thay đổi của tổng sản lượng.

MC = ∆TC/∆Q = dTVC/dQ

MC có thể tính bằng cách lấy đạo hàm bậc nhất của hàm TC hay hàm TVC [khi TC và TVC là hàm số]

Chi phí biên biểu thị chi phí tăng thêm cần thiết để sản xuất thêm một đơn vị sản lượng [hay mức giảm trong tổng chi phí khi sản xuất ít đi một đơn vị sản lượng].

Ví dụ 1: Một nhà sản xuất máy tính đang sản xuất 100 chiếc Laptop với tổng chi phí là 90.000USD. Khi nhà máy sản xuất chiếc Laptop thứ 101 là 90.050USD thì chi phí biên của việc sản xuất chiếc Laptop thứ 101 là 50USD.

Việc sản xuất thêm cho một đơn vị đầu ra thông thường thì rất thấp, ví dụ như chiếc Laptop thứ 101 như trên, hay là chiếc ghế trống của nhà hát nhạc kịch [không đáng giá một ly cà phê], điện năng sẽ đắt hơn cho số đơn vị đầu tiên. Lượng điện tiêu thụ nhiều hơn thì chi phí biên thấp hơn. Nhưng có nhiều trường hợp ngược lại, Chẳng hạn, chi phí biên của đơn vị tăng thêm là khá cao, nếu công ty muốn sản xuất thêm thì cần một lượng điện khá lớn, điện năng quốc gia không đủ cung cấp, nhà máy phải mua thêm lượng điện [thủy điện] bên ngoài, như vậy, lượng điện tăng thêm này đã tạo chi phí biên khá cao so với bình thường.

Ví dụ 2: Một hãng đang sản xuất 5000 đĩa CD với tổng chi phí là 20.000USD. Nếu tổng chi phí để sản xuất 5001 đĩa CD là 20.001USD thì chi phí biên của việc sản xuất đĩa CD thứ 5001 là 1USD.

Đôi khi chi phí biên của việc sản xuất thêm một đơn vị đầu ra có thể rất thấp. Ví dụ, với hãng hàng không đang còn ghế trống, chi phí tăng thêm cho một hành khách nữa chỉ đơn giản bằng chi phí của một cái bánh ngọt, hộp cơm hay một cốc nước mà không cần tăng thêm vốn [máy bay] hay lao động [phi công và tiếp viên]. Ngược lại, trong những trường hợp khác, chi phí biên của một đơn vị sản lượng tăng thêm có thể khá cao. Ví dụ, xét một công ty sản xuất điện. Trong điều kiện bình thường, công ty có thể tạo ra đủ điện chỉ bằng cách sử dụng các nhà máy hoặc phân xưởng có chi phí thấp nhất và hiệu quả nhất của nó. Nhưng vào những ngày nắng nóng, nhu cầu điện tăng cao, công ty buộc phải chạy những máy phát điện cũ không hiệu quả và có chi phí cao. Lượng điện sản xuất thêm này có được với một chi phí biên cao đối với công ty này.

3. Ví dụ về tính chi phí biên:

Ví dụ: Công ty X sản xuất 20 chiếc bút máy với tổng chi phí là 500.000 đồng, còn tổng số chi phí để sản xuất 21 chiếc bút máy là 510.000 đồng, khi đó để sản xuất thêm được chiếc bút máy thứ 21 thì công ty phải chi trả thêm số tiền là 10.0000 đồng.

Từ đó, chi phí biên để sản xuất ra chiếc bút máy thứ 21 là 10.000 đồng. Nên chi phí biên trong trường hợp này được xác định là 10.000 đồng.

Trên thực tế, nếu chi phí biên bị giảm thì cũng sẽ khiến chi phí trung bình bị giảm theo, tuy nhiên trong một số trường hợp khi chi phí biên tăng thì chi phí trung bình vẫn có thể bị giảm vì chi phí bổ sung vào không đáng kể so với khoản đầu tư ban đầu.

4. Ví dụ về xác định chi phí biên:

Nếu tổng chi phí cho việc in 300 cuốn sách là 15.000 nghìn đồng [tức 15 triệu đồng], còn tổng chi phí của việc in 301 cuốn sách là 15.030 nghìn đồng, thì trong trường hợp này, để có thêm cuốn sách thứ 301, người ta phải bổ sung thêm một khoản chi phí là 30 nghìn đồng.

Điều đó có nghĩa là chi phí biên của việc in cuốn sách thứ 301 là 30 nghìn đồng. Nói một cách khác, chi phí biên của đơn vị sản phẩm thứ q là:

trong đó TCq biểu thị tổng chi phí khi doanh nghiệp sản xuất q đơn vị đầu ra, còn TC[q-1] biểu thị tổng chi phí khi doanh nghiệp sản xuất [q-1] đơn vị đầu ra.

Khi hình thức hóa dưới dạng một công thức toán học, người ta hình dung rằng, có thể tính được chi phí biên tại từng điểm sản lượng q bất kì và định nghĩa chi phí biên theo công thức sau:

Trong đó ∆ biểu mức thay đổi của các biến số. Theo công thức trên, khi sự thay đổi trong q là tương đối nhỏ, chi phí biên MC tại mức sản lượng q, chính là giá trị đạo hàm của TC[q] tính tại điểm sản lượng q.

Là một hàm số của sản lượng, đương nhiên, mức chi phí biên phụ thuộc vào mức sản lượng. Tại các điểm sản lượng khác nhau, chi phí biên cũng khác nhau.

Đường chi phí biên, về đại thể, cũng là một đường cong hình chữ U: thoạt tiên, với sản lượng xuất phát thấp, đường chi phí biên có xu hướng đi xuống khi sản lượng tăng.

Đến một mức sản lượng nào đó, xu hướng ngược lại sẽ diễn ra. Khi này, nếu sản lượng tiếp tục tăng, chi phí biên sẽ tăng dần và đường chi phí biên trở thành một đường đi lên.

Hình dáng này của đường chi phí biên cũng có nguồn gốc từ những lí do kinh tế giải thích hình dáng đường tổng chi phí hay đường chi phí bình quân.

Khi sản lượng xuất phát còn quá thấp, sự dư thừa năng lực hay công suất của một số yếu tố sản xuất cố định cũng như một số lợi thế khác liên quan đến việc tăng qui mô sản lượng.

Điều này khiến cho việc sản xuất thêm một đơn vị sản lượng không cần phải bổ sung thêm chi phí tương ứng như mức chi phí mà mỗi đơn vị sản lượng ban đầu đòi hỏi.

Chi phí biên của mỗi đơn vị sản lượng gia tăng về sau nhỏ hơn các đơn vị sản lượng trước đó. Chi phí biên giảm dần theo đà tăng của sản lượng. Về sau, khi những lợi thế nói trên được khai thác hết, những chi phí mới xuất hiện do qui mô sản lượng quá lớn, chi phí biên chắc chắn sẽ tăng lên khi sản lượng tăng.

Có thể nói, các xu hướng diễn tiến của đường chi phí biên thực chất cũng chính là xu hướng diễn tiến của các đường tổng chi phí hay chi phí bình quân. Hoàn toàn có thể suy ra hình dáng của đường này từ những đường kia.

Video liên quan

Chủ Đề