Đánh giá về truyền An Dương Vương

Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy – Bài số 1

Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu

Trái tim lầm chỗ để trên đầu

Nỏ thần vô ý trao tay giặc

Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu

[ Tố Hữu]

Lời thơ gợi cho bạn đọc sự đau xót, tiếc thương về câu chuyện truyền thuyết “ An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” với hình ảnh của một vị vua tài giỏi sáng suốt vì dân nhưng cuối cùng lại thất bại trong một phút chủ quan để rồi đánh mất giang sơn xã tắc và mối tình éo le giữa Mị Châu- Trọng Thủy.

Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” trích từ “Truyện Rùa Vàng” trong “ Lĩnh Nam chích quái”  dựa trên khung cảnh lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta thời An Dương Vương nhưng được khúc xạ qua lời kể của nhiều thế hệ để rồi kết tinh thành hình tượng nghệ thuật đặc sắc, nhuốm màu thần kì mà vẫn thấm đẫm cảm xúc đời thường. Chuyện kể về công lao vĩ đại của vua An Dương Vương xây thành và chế tạo nỏ thành công để giữ nước nhờ sự giúp đỡ của Rùa Vàng, đồng thời cũng là câu chuyện về nguyên nhân cơ đồ nước nhà Âu Lạc “đắm biển sâu” liên quan đến mối tình Mị Châu – Trọng Thủy.

Đoạn đầu, “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” để trong lòng người đọc ấn tượng về niềm tự hào, phấn khởi trong thưở bình minh dựng nước. Trong truyền thuyết, An Dương Vương hiện lên như một vị vua toàn tài, luôn mang trong mình tinh thần chống giặc mạnh mẽ. Ông nhận ra nội lực chưa đủ mạnh thì rừng núi hiểm trở chính là chỗ dựa an toàn, nhưng muốn phát triển thì phải rời đô là tất yếu. Nhưng dời đô xuống đồng bằng cũng đồng thời là phơi lưng ra đồng bằng thách thức đối phương nên ông quyết định xây thành. Quyết định rời đô đến Cổ Loa và cho xây thành chứng tỏ ông là người sáng suốt và có bản lĩnh vững vàng. Công việc xây thành vậy mà vô cùng khó khăn “ hễ cứ đắp tới đâu là lở tới đấy”, “tốn nhiều công sức mà không thành”. Vua không nản lòng mà lập đàn trai giới cầu đảo bách thần và thần Kim Quy đã hiện lên giúp đỡ. Sự giúp đỡ của Rùa thần chứng tỏ việc xây thành Cổ Loa của An Dương Vương là hợp ý trời, hợp lòng dân nên được dân chúng ủng hộ.

Niềm tự hào, kính trọng của bạn đọc còn là khi nhận thấy một vị vua có tầm nhìn xa trông rộng. An Dương Vương đã tâm sự với thần Kim quy “Nhờ ơn thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài lấy gì mà chống?”. An Dương Vương đã ý thức đề cao cảnh giác, chuẩn bị vũ khí để chống giặc. Việc chế nỏ đây chính là sự kết hợp trí tuệ, sức mạnh của quân và dân. Sức mạnh của thứ vũ khí đó đã được thần thánh hóa, kỳ diệu hóa bằng hình tượng nỏ thần. Nỏ thần một phát giết hàng vạn tên giặc vừa là sản phẩm của trí tưởng tượng bay bổng, vừa phản ánh sự phát triển trong kĩ thuật chế tạo vũ khí của dân tộc ta. Nỏ thần là máu thịt của thần hay là của nhân dân. Nỏ thần vì thế còn là tượng trưng cho tinh thần đoàn kết, sức mạnh dân tộc, ý chí chiến thắng kẻ thù ngoại xâm. Nhờ có nội lực mạnh mẽ này mà An Dương Vương khiến quân Triệu Đà thua to khi mang quân xâm lược nước ta. Đây là bài học tích cực trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước

Như vậy, ở phần đầu tác phẩm, truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” đã khẳng định vua An Dương Vương với vai trò người đứng đầu xứng đáng được mến phục và truyền cho người đọc niềm trân trọng, biết ơn công lao to vĩ đại của vị vua này.

Trân trọng, ngợi ca công ơn của An Dương Vương với đất nước nhưng lịch sử và nhân dân vẫn thừa nhận sai lầm của vua An Dương Vương. Bi kịch mất nước là trọng tâm phần hai của “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” đã khiến người đọc đặt tay lên trán suy nghĩ. Sau tất cả, An Dương Vương đã đánh mất tinh thần cảnh giác vốn có, con người thật của mình mà ngủ quên trên chiến thắng. Trách nhiệm của An Dương Vương là khi chấp nhận lời cầu hôn của Triệu Đà, gả con gái mình cho con trai kẻ thù để đất nước rơi vào cảnh gông cùm nghìn năm Bắc thuộc. Nhà vua đã chủ quan, mơ hồ về bản chất của kẻ thù. Nhưng kết hôn chính trị trên thế giới không ít. Vậy quyết định của An Dương Vương sai ở đâu? Có lẽ là khi An Dương Vương không hề đề phòng, để cho Trọng Thủy ngang nhiên tìm hiểu, dò la khắp nơi rồi phát hiện ra bí mật quốc gia. Hoặc có lẽ là khi để con biết bí mật quốc gia, để tình cảm công tư không rõ ràng và dẫn đến mất nước. Như vậy An Dương Vương thất bại không phải là khi giặc mang quân sang đánh mới bộc lộ mà đã thể hiện từ khi đánh mất cảnh giác. Sau khi biết mất nỏ, thất bại của An Dương Vương còn là sự ỷ lại vào nỏ thần mà quên mất sức mạnh dân tộc. An Dương Vương quên rằng năm xưa mình chiến thắng quân Đà khi không có nỏ thần là bởi lãnh đạo nhân dân. Trong cơn quẫn cùng, An Dương Vương mang con gái lên ngựa bỏ chạy.

Sai lầm của người đứng đầu là không thể sửa chữa. An Dương Vương thảm bại, nước mất, dân lầm than. Ông chỉ muốn còn lại chút hơi ấm gia đình. Rùa vàng thét lớn “Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó”. Lời phán xét đanh thép của công lí về hành động vô tình phản quốc của Mị Châu khiến An Dương Vương tỉnh ngộ. Nhà vua chém chết cô con gái như một cách tự xử quyết liệt đối với chính bản thân. Quá muộn màng nhưng cuối cùng An Dương Vương đã trở về với ban đầu, đặt quyền lợi của dân tộc lên trên lợi ích bản thân mình. Cái giá phải trả cho sai lầm của người đứng đầu, cầm vận mệnh đất nước, quốc gia thật quá đắt! An Dương Vương như vậy đã trở thành bài học xương máu về thái độ trước kẻ thù.

Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” còn là câu chuyện bị kịch của mối tình éo le Mị Châu – Trọng Thủy. Mị Châu là người nặng tình và quá trong sáng. Nàng đắm chìm trong tình yêu mà không ý thức được người kia vốn là con trai kẻ thù. Xét dưới góc độ thần tử, việc cho xem nỏ thần của nàng đã mang tội chết. Nhưng đáng trách hơn là khi không nhận ra ẩn ý rõ ràng trong lời nói ly biệt của Trọng thủy mà chỉ đợi ngày đoàn viên, giặc đuổi giết nhưng vẫn rải lông ngỗng. Đặt tình yêu lên trên vận mệnh quốc gia, Mị Châu vô cùng đáng phê phán. Nhưng dưới góc độ tâm lý của người con gái đang yêu thì có thể thấy nàng đã làm tròn trách nhiệm với con tim mình. Và khi rải lông ngỗng làm dấu cho Trọng Thủy, ta có thể hiểu đó là tâm trạng khi nàng muốn gặp Trọng Thủy để hỏi tại sao Trọng Thủy lại làm như vậy. Nàng chẳng làm tròn chữ hiếu cũng như đã đẩy dân tộc vào cảnh tang thương, nàng chỉ để lời cho đời chữ tình mà thôi. Cuối cùng, trước khi chết, Mị Châu tỉnh ngộ. Nàng không xin sống mà chỉ mong mình oan. Cái nhìn nhân hậu của nhân dân ta dành cho nàng là khi thấy điều đó đã để nàng hóa ngọc thạch, máu hóa ngọc trai ở biển đông. Vì thế Mị Châu hiện lên trong hình dung của bạn đọc bây giờ  vừa đáng thương vừa đáng trách. Truyền thuyết không chỉ là lịch sử lạnh lùng với sự thật phũ phàng mà con là lòng bao dung, thương cảm cho tình yêu lứa đôi đối mặt với những âm mưu.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Cáo bệnh bảo mọi người của Mãn Giác Thiền Sư

Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” muôn đời để lại trong lòng bạn đọc nhiều suy nghĩ, cảm xúc khác biệt và những ý kiến trái chiều. Câu chuyện còn gửi gắm một giá trị nhân văn muôn đời không bao giờ thay đổi về cách giải quyết cái chung và cái riêng, việc nước và việc nhà, đặc biệt là khi bản thân là người đứng đầu, trên vai gánh vác quyền lợi của người khác.

Tác phẩm là sự đan xen giữa bi kịch tình yêu và bi kịch mất nước của cha con An Dương Vương và Mị Châu. Thông qua đó biểu lộ tư tưởng phản kháng chiến tranh xâm lược, rút ra bài học giữ nước, không nên tự mãn, ỷ lại vào vũ khí, phải cảnh giác trước mọi âm mưu thâm độc. Ngày nay xã hội phát triển nhưng theo một khía cạnh nào đó, bài học trên vẫn tồn tại và có giá trị sâu sắc.

Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy – Bài số 2

Trong tác phẩm văn học yếu tố kì ảo đóng góp vai trò rất lớn làm cho tác phẩm tăng lên sự cuốn hút, và giá trị biểu đạt của tác phẩm, như chúng ta đều thấy tác phẩm An Dương Vương và Mỵ Châu trọng thủy là một tác phẩm như thế, nó chứa đựng rất nhiều yếu tố kì ảo.

An Dương Vương và Mỵ Châu Trọng Thủy là một tác phẩm nói về quá trình dựng nước và giữ nước của An Dương Vương, từ quá trình xây dựng đất nước gian nan vất vả, khi xây dựng thành rất nhiều lần và nó đều bị đổ, nhưng rồi được sự giúp đỡ của thần Kim Quy đã cho chiếc nỏ thần, từ đó, thành được xây dựng vững chắc và không bị đổ nữa, quá trình xây dựng thành đã được ông quan tâm và chú trọng, nó giúp đỡ rất nhiều trong quá trình xây dựng nên một đất nước hùng mạnh cả về chất lượng và tinh thần nhân dân cũng luôn luôn được củng cố mạnh mẽ. An Dương Vương là một ông vua tốt đối với nhân dân luôn luôn lo cho nhân dân, nhưng rồi chỉ vì một chút sơ xảy mà để đất nước rơi vào tay kẻ thù.

Như chúng ta đều thấy yếu tố kì ảo đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm đó là, chiếc nỏ thần, mà thần Kim Quy đã trao tặng cho An Dương Vương, đây là chiếc nỏ mà có thể tiêu diệt được rất nhiều kẻ thù, thần Kim Quy đã là một yếu tố được xây dựng nên để thể hiện yếu tố kì ảo được đan xen trong tác phẩm, đó là những yếu tố thể  hiện sự mạnh mẽ trong quan niệm về các vị thần thánh, và nó gia tăng lên giá trị biểu cảm của tác phẩm. Thần Kim Quy được biểu hiện như một điều tốt lành đã giúp sức cho vị vua này thực hiện nhiệm vụ của mình đối với đất nước, tất cả nó được biểu hiện để nhằm tăng lên sự biểu đạt mạnh mẽ trong chính tác phẩm, giá trị của tác phẩm không những tăng lên mà người ta có thể tự quy một quy luật trong cuộc sống đó là ở hiền gặp lành của dân tộc Việt Nam.

Tiếp đó là hàng vạn các chi tiết kì ảo khác, chi tiết kì ảo được hiểu là những điều không có thực, nó được xây dựng để tăng lên sự biểu đạt mà tác phẩm muốn thể hiện, nó hư cấu và được tạo nên để củng cố niềm tin cho con người. Sự hư ảo, đã xuất hiện khi nhân dân luôn tin là có một vị thần, luôn giúp đỡ và trao tặng cho vưa An Dương Vương một báu vật để giúp đỡ cho cuộc đời.

Sự giúp đỡ của thần thánh đã giúp đỡ rất nhiều cho An Dương Vương, đây là yếu tố đầu tiên giúp cho tác phẩm tăng thêm tính ly kì và kì diệu trong chính tác phẩm của mình. Yếu tố thần kì nó thể hiện những dấu hiệu báo mộng cho ông vua này, ông cụ đã giới thiệu cho An Dương Vương đến để thần Kim Quy có thể giúp xây dựng thành chống giặc ngoại xâm, và cùng điều đó là cố gắng vững chắc, dựng xây lên thành trì một cách vững chắc, và có vũ khí tối tân trong tay, nó cũng giúp đỡ rất nhiều cho An Dương Vương, giúp ông tiêu diệt kẻ thù, chống giặc ngoại xâm…

Nhưng rồi lòng tham của Triệu Đà đã đẩy Trọng Thủy đến với đất nước của An Dương Vương, với mưu tính cướp mất vật dụng quý báu đó là nỏ thần, với dã tâm đó, ông đã cho Trọng Thủy sang làm rể ở nhà An Dương Vương, với dã tâm thôn tính, Triệu Đà đã sắp đặt tất cả mọi điều, lừa dối tình cảm mà Mỵ Châu dành cho mình, Trọng Thủy đã lừa dối và lấy cắp mất nỏ thần đem về cho cha, tất cả những điều đó đã gây ra những mối họa cho đất nước của An Dương Vương, khi lấy được nỏ thần đã đem quân sang xâm lược trở lại, khi động để lấy nỏ thần mới phát hiện ra nó đã bi đánh cắp.

Vua An Dương Vương là một ông vua tốt với dân, với nước, nhưng chỉ vì những chủ quan mà để đất nước rơi vào tay giặc, những điều đó đã để lại cho đất nước của chúng ta những bài học to lớn đó là, cần phải biết dựng xây đất nước, trong hoàn cảnh phải đẩy mạnh, tinh thần cảnh giác đối với kẻ thù. Nỏ thần là một yếu tố kì ảo được xây dựng trong tác phẩm, nó chỉ là một chiếc nỏ như bình thường, nhưng lại được xây dựng là nỏ thần, và có tác dụng to lớn để tiêu diệt được kẻ thù. Chính vì vậy mà Triệu Đà mới muốn có được nó bằng được và xây dựng nên màn kịch cho Trọng Thủy đi ở rể.

Với lòng tham vô đáy Triệu Đà đã gây ra rất nhiều điều xấu xa, đối với tình yêu của Mỵ Châu và Trọng Thủy, tình yêu của họ là chân thành nhưng chỉ vì lòng tham muốn thôn tính đất nước, ông đã biến nó trở thành bi kịch, ông ta vừa bị mất con, An Dương Vương bị mất nước, Mỵ Châu cũng mất đi người thân, chính những cái vô tình đó lại đấy Mỵ Châu trở thành người có tội đối với dân tộc, cô vừa đáng thương lại vừa đáng trách, đáng thương, khi bị người thân yêu của mình lừa dối, có tội khi đã đem vận mệnh của đất nước trao vào tay kẻ thù…

Những điều đó đã nói lên một tinh thần rằng cần phải nâng cao mạnh mẽ được sức mạnh và giá trị to lớn để bảo vệ nền độc lập cho nhân dân, không được lơ là mất cảnh giác đối với kẻ thù, trong tác phẩm sự thành công trong việc xây dựng các yếu tố kì ảo làm tăng lên giá trị của nó, với mỗi tác phẩm, nó biểu hiện những thành công lớn khi mà tác dụng của nó đã để lại cho người đọc nhiều bài học quý báu, bài học về sự yêu nước, về tinh thần cảnh giác trước kẻ thù xâm lược.

Trong lịch sử dân tộc văn học thường có các yếu tố kì ảo và đó là những yếu tố làm gia tăng lên sự biểu hiện và ý nghĩa giáo dục trong tác phẩm, như xưa văn học đó cũng là một sự hư cấu và ảo giác về những điều không có thật, nó được xây dựng lên để nhằm gia tăng lên giá trị biểu hiện của nó một cách mạnh mẽ và có giá trị hơn, mỗi tác phẩm đều là những tác phẩm mang lại sự vang vọng và để lại cho người đọc những cảm giác như được sống lại những giây phút hào hùng của lịch sử. Rùa thần đó cũng còn là một sự tích về một vị thần, có công lớn cho An Dương Vương xây dựng đất nước, đã có rùa thần và còn xuất hiện nỏ thần, đây là vật báu mà nó trao tặng cho ông vua An Dương Vương.

Xem thêm:  Phân tích những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa

Cả hai vật dụng này đều có tác dụng to lớn trong việc tạo thêm cho người đọc nhiều cảm giác về sự hư cấu và ảo mộng về những điều không có thật, trong tác phẩm yếu tố kì ảo còn xuất hiện đó là khi mà Mỵ Châu Mất, máu của cô đều biến thành những viên ngọc trai trên biển, nó được xây dựng để chứng minh rằng cô là một người trong sạch. Khi An Dương Vương giết Mỵ Châu xong cũng rẽ nước đi xuống biển, đây đều là những yếu tố kì ảo được xây dựng trong tác phẩm.

Yếu tố kì ảo được xây dựng nên nhằm gia tăng lên giá trị của tác phẩm và nhiều ý nghĩa của nó được biểu hiện một cách mạnh mẽ và có nhiều giá trị nhất.

Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy – Bài số 3

Truyền thuyết là lịch sử truyền miệng của nhân dân. Nếu như chức năng của thần thoại là nhận thức và lí giải các hiện tượng tự nhiên thì chức năng của truyền thuyết chủ yếu là nhận thức và lí giải lịch sử. Do đó truyền thuyết chủ yếu hướng vào để tài lịch sử, nhằm phản ánh, lí giải cá sự kiện lịch sử trọng đại, các nhân vật lịch sử có vai trò và ảnh hưởng lớn đối với sự tồn tại, phát triển của cộng đồng. Nội dung chủ yếu của truyền thuyết thường chia làm hai phần. Phần cốt lõi của những sự kiện, nhân vật lịch sử được phản ánh và phần tâm tình ý nguyện của nhân dân được gửi gắm vào trong đó và một trong những truyền thuyết tiêu biểu viết theo mô tip đó là truyền thuyết thần Kim Quy [truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ].  

Đây là một truyền thuyết lớn, một tấm bi kịch lịch sử, phản ánh được những nét cơ bản của lịch sử dân tộc thời kỳ Âu Lạc [thế kỷ thứ ba và thứ hai trước Công Nguyên]. Nó đã được đông đảo quần chúng nhân dân lưu truyền, hâm mộ và thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu sử học, văn học, nhiều nhà thơ như Cao Bá Quát, Tản Đà, Xuân Diệu, Tố Hữu… đã làm thơ về truyện này nhất là về nhân vật Mị Châu:

Một đôi kẻ Việt, người Tầu

Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương

Vuốt rùa chàng đổi móng

Lông ngỗng thiếp đưa đường

Thề nguyền phu phụ

Tình nhi nữ việc quân vương

Niệm gấm vô cảm

Trăm năm giọt lệ

Ngọc trai nước giếng

Ngòm thu khói nhang

[Tàn Đà]

Tôi kể người nghe chuyện Mị Châu 

Trái tim lầm chỗ để trên đầu 

Nỏ thần vô ý trao tay giặc 

Nên với cơ đồ đắm biển sâu

[Tố Hữu] 

Phản ánh lí giải sự thảm bại của An Dương Vương đó là nội dung của truyền thuyết này: Truyền thuyết gồm hai phần chính [có khi được kể làm hai chuyện]

Phần 1: Nói về việc An Dương Vương xây thành, chế nỏ và đánh thắng quân xâm lược Tản Đà lần thứ nhất, khiến Triệu Đà phải rút lui.

Phần 2: Nói về việc An Dương Vương mắc mưu Triệu Đà nhận lời cầu hoà, cầu hôn cho Trọng Thuỷ ở rể, mất cắp nỏ thần và cuối cùng thất bại mất nước, nhà tan.

Ở phần thứ nhất truyền thuyết tập trung nói về việc An Dương Vương xây thành, chế nỏ. Nỏ thần ở đây là một loại vũ khí đánh xa chưa có ở thời kỳ Thánh Gióng.Việc xây loa thành hình trôn ốc cũng là một bước phát triển mới của thời kỳ Âu Lạc so với thời kỳ Văn Lang. Thần Kim Quy ở đây là lực lượng siêu nhiên xuất hiện để giúp đỡ An Dương Vưcmg xây thành, chế nỏ chính là sự thần thánh hoá một nhân vật lịch sử có thật ở thời kỳ Âu Lạc đó là Cao Lỗ người có tài chế nỏ liên châu. Việc xây dựng thành Cổ Loa gặp nhiều khó khăn, trở ngại rất nhiều trong thời kỳ đầu, những khó khăn ấy nó phản ánh khó khăn trở ngại có thực. Nếu ở Thánh Gióng tập trung phản ánh thể hiện là người chiến sĩ trực tiếp đánh giặc ở chiến trường. Thánh Gióng chính là sự khái quát hoá, hình tượng hoá đội quân xâm lược đầu tiên của quÃn đội ta thời kỳ Văn Lang đội quân lý chí sử dụng vũ khí là chiếu soi sắt và nhớ từng bụi tre để đập tan quân thù thì đên truyện An Dương Vương tập trung phản ánh và thể hiện vai trò quan trọng và những phẩm chất cần thiết của người chỉ huy lãnh đạo cộng đồng dựng nước và giữ nước.

Mưu trí và sự tỉnh táo là điều kiện không thể thiếu đối với người chỉ huy. Ở thời kỳ đầu An Dương Vương được thần Kim Quy giúp đỡ, đã có đủ điều kiện để xây dựng được thành và đánh thắng quân xâm lược Triệu Đà. Nhưng sau khi dành được thắng lợi An Dương Vương đã chủ quan ỷ lại vào thành trì, vũ khí, ham mê chơi bời [đánh cờ] nên đã thất bại đau đớn. Như vậy, ở đây Thần Kim Quy là vị thần mưu trí của An Dương Vương khi được giúp đỡ thì An Dương Vương tĩnh táo nhưng khi thần ra đi thì An Dương Vương lại mất hết sáng suốt trở nên u mê điều này chứng tỏ con người còn dựa nhiều vào lực lượng sièu nhiên, phải có sự giúp đỡ của lực lượng thần kỳ thì người anh hùng mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình. Điều này chứng tỏ vai trò rất lớn của lực lượng siêu nhiên trong thể loại này.

Biết An Dương Vương có thành cổ loa kiên cố và có chiếc nỏ thần kỳ. Triệu Đà đã lập mưu cầu hoà và cho con trai Trọng Thuỷ sang cầu hoà nàng Mị Châu, An Dương Vương đã nhận lời đây là một sai lầm hết sức to lớn nó chứng tỏ sự mất cảnh giác của An Dương Vương và lòng tin vào kẻ thù của mình. Từ việc sai lầm của cha dẫn đến sự sai lầm của Mị Châu. Lần thứ nhất nàng đưa Trọng Thuỷ vào nơi để nỏ thần để y biết được bí mật và đánh tráo nó. Lần thứ hai sau khi cho Trọng Thuỷ xem nỏ thần, y đòi về thăm cha Mị Châu đã ngây thơ tin theo lời chàng và không một chút nghi ngờ khi Trọng Thuỷ nói: Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở lại thăm cha đến lúc hai nước bất hoà, nam bắc cách biệt ta muốn tìm nàng lấy gì làm dấu. Đó là một lời nói có rất nhiều… đáng ngờ. Nhưng Mị Châu vì quá yêu chàng nên không lường trước được mà tin một cách mê muội thể hiện nàng nói: Thiếp phận nữ nhi, nên gặp cách biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có chiếc áo lông ngỗng thường mặc trên mình. Đến ngã ba đường thiếp bứt lông làm dấu, chàng cứ theo vết lông ngỗng đến ta sẽ cứu được nhau. Một lòng tin không hề nghi ngờ Mị Châu không nghĩ rằng người chồng của mình sẽ phản bội lại mình. Và khi quân Triệu Đà đưa binh sang đánh cha con An Dương Vương vẫn còn nằm trong giấc mộng tin tưởng đó là cha thì say cờ còn con thì say chồng. Khi nghe quân cấp báo giặc đến gần An Dương Vương vừa bình thản ngồi đánh cờ còn nói rằng: Quân Đà không sợ nỏ thần sao chi tiết này nói lên sự chủ quan khinh địch của An Dương Vương, ông chi biết dựa vào nỏ thần nên đánh mất cảnh giác chính sự mất cảnh giác đã dẫn đến cảnh nước mất nhà tan và bi đát thay trên đường cha con chạy chốn thì Mị Châu lại chính là người gây chỉ đường cho Trọng Thuỷ đi theo sự tin tưởng một cách mù quáng vào tình yêu vợ chồng ngay lúc này Mị Châu vẫn chưa thức tỉnh được cơn say vẫn sống trong mê muội. Đến khi hai cha con đứng bên bờ biển không còn lối thoát An Dương Vương đã hét lên: Trời hại ta! Sứ Thanh Giang mau mau cứu ta, nó phản ánh sự bế tắc về đưởng đi và bế tắc trong nhận thức tư tưởng của hai cha con. Đến giờ phút này An Dương Vương vẫn nghĩ là trời hại ta nhưng điều không thể ngờ tới kẻ thủ hại cha không ai xa lạ chính là đứa con gái của mình. Thần Kim Quy hét lớn: Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó. Tiếng hét của Thần Kim Quy giống như tiếng sét đánh ngang tai nhà vua, thật là không thể ngờ đến và trong lúc tỉnh lại nhưng đã quá muộn không còn con đường nào khác là phải giết ngay kẻ thù của mình. Việc cha giết con ở đây không phải vì An Dương Vương không thương Mị Châu nhưng vì đất nước, vì cộng đồng mà An Dương Vương phải dứt tình máu mủ hỉ sinh quyền lợi của mình để bù đắp một phần nào lỗi lầm gây ra.

Xem thêm:  Bình giảng bài ca dao Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng…

Tiếng thét lớn của Thần Kim Quy nói lên sự phẫn nộ của đất nước Âu Lạc đối với sai lầm của hai cha con. Câu nói Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó rất đúng và tại sao Thần Kim Quy không nói Mị Châu là giặc? Câu nói đó cũng có nguyên nhân của nó vì Mị Châu chỉ là giặc một cách vô ý thức trong trường hợp ấy Mị Châu không hề chú ý mà đó chỉ là lòng tin bị đánh cắp và nàng cũng chấp nhận cái chết vì sự sai lầm của mình. Nàng sẵn sàng chết để chứng minh cho cha nàng thấy nàng không hề phản bội lại tổ quốc và nàng xin trước khi chết là được hoá thành chau ngọc để lau sạch mối nhục thù và tơ dạ trong trắng với cha, với tổ quốc. Trước khi chết nàng vẫn mãn nguyện không hề van xin về tội lỗi của mình. So với diễn biến tâm trạng và tình cảm của Mị Châu về phía Trọng Thuỷ hoàn toàn khác ban dầu. Chàng cầu hôn với Mị Nương không phải vì tình yêu mà vì mục đích chính trị, nhằm thực hiện âm mưu của cha mình đã sắp đặt sẵn nhưng về sau chàng đã thực sự yêu nàng say đắm, nhưng vì đất nước mà chàng phải dối lòng mình. Khi chàng theo dấu vết lông ngỗng chạy ra biển cũng là lúc Mị Nương đã bị vua cha chém đầu, chàng ôm nàng vào lòng bế nàng về tẫn ở loa thành. Từ đó Trọng Thuỷ như ngây dại và lao đầu xuống giếng mà chết. Máu của Mị Châu chảy xuống biển trai sò ăn vào thân ngọc trai. Như vậy chứng tỏ Trọng Thuỷ rất yêu Mị Châu nên chàng mới tự tử xuống giếng và cái chết của Trọng Thuỷ thật bi thảm. Đó là cái chết của một kẻ xâm lược đầy ảo vọng và si tình.

Ở đây câu chuyện kết thúc trong bi kịch đó là bi kịch về sự mất cảnh giác và mất nước đồng thời còn là bi kịch về nhân dân và tình yêu giữa Mị Châu và Trọng Thuỷ. Đồng thời ở mỗi nhân vật cũng có sự diễn biến, phát triển ít nhiều mang tính bi kịch: Sự phong phú hàm súc về nội dung, cùng với sự chặt chẽ trong kết cấu, độc đáo trong cách thể hiện đã làm cho truyền thuyết này có một sức sống hấp dẫn đặc biệt mà ít truyện dân gian nào có thể sánh được. Và đó cũng là nguyên nhân khiến cho truyện này được nhiều nhà thơ, nghệ sĩ thuộc các ngành nghệ thuật đã khai thác, chuyển thể, sử dụng.

Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy – Bài số 4

Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy đã đi đến một kết cục bi thương cho cả ba nhân vật và cũng như là sự nhẹ dạ cả tin với kẻ thù mà đã để đất nước đi vào cảnh lầm than.

Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy có kết cấu rất rõ ràng. Mở đầu đó là sự thành lập của nước Âu Lạc và chế tạo Nỏ thần để giử nước.  Đoạn này tác giả đã khái quát được lịch sữ hình thành nhà nước Âu Lạc cũng như các chính sách để bảo vệ đất nước. An Dương Vương đã cho mở cửa cái cách các chính sách mới đưa vào sản xuất. Đồng thời cũng củng cố các chế độ chính trị để giử hòa bình cho đất nước. Và cũng đưa việc xây thành vào để cũng cố chế độ quân sự được củng cố hơn. Đó là quyết sách đúng đắn chứng tỏ trí tuệ sáng suốt và bản lĩnh vững vàng của An Dương Vương.

Và việc củng cố xây thành của ông gặp nhiều khó khăn do ông dựa vào sức dân quá nhiều. Và ở đây ông đã được dược sứ Thanh Giang tức Rùa Vàng giúp đỡ, An Dương Vương xây thành chi trong vòng nửa tháng là xong. Hành động lập đàn trai giới, đón mời cụ già vào điện hỏi kế xây thành, ra cửa Đông đợi sứ Thanh Giang, nghe lời Rùa Vàng diệt trừ yêu quái,… thể hiện thái độ trân trọng hiền tài của An Dương Vương trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Có thể nói việc xây Loa Thành của An Dương vứơng là hợp ý trời, hợp lòng người, cho nên được dân chủng ủng hộ. Không chỉ vậy  An Dương Vương còn được Rùa Thần cho nỏ thần để đảm bảo được an ninh cũng như bảo vệ đất nước. Nỏ  thần tượng trưng cho sức mạnh của nhà nước Âu Lạc, tượng trưng cho trí tuệ, sức mạnh và khát vọng chiến thắng ngoại xâm.

Triệu Đà đã kéo quân sang xâm lược và thất bại nên Triệu Đà đã bắt tay làm hòa và xin được cưới con gái của  An Dương Vương là Mị Châu cho con trai mình là Trọng Thủy. Và An Dương Vương còn cho Trọng Thủy ở lại làm rể. Không ngờ đây cũng là biến cố mà đất nước Âu Lạc phải gánh chịu. Khi tin tưởng, tạo cơ hội cho kẻ thù xâm chiến đất nước.

Tiếp theo đó là Bi kịch tình yêu của Mị Châu – Trọng Thuỷ gắn liền với thất bại và về nước cùng cha dẫn quân qua xâm lược nước Âu lạc. An Duong Vương vẫn chủ quan cho rằng mình có Nỏ thần trong tay nên không sợ. Khi quân đã tới chân thành An Dương Vương mới biết đã bị tráo. Sau đó ông cùng con gái Mị Châu lên ngựa  bỏ thành chạy về phương nam.

Không ngờ đến nước này mà Mị Châu vẫn không thấu hiểu khi đi cùng cha đã rắc lông ngỗng cho quân giặc theo truy sát. Những giây phút cuối cùng Rùa Vàng lại hiện lên nói với An Dương Vương kẻ thù là người ngồi sau. Và An Dương Vương đã rút kiếm và giết con gái mình và cùng rùa vang đi xuống nước.

Hành động của Nhà vua tự tay chém chết cô con gái yêu dấu, cũng là tự xử một cách nghiêm khắc, quyết liệt đối với sai lầm của bản thân. Nhưng tất cả đểu đã quá muộn màng. Câu chuyện kết thúc thật bi thảm!

Qua truyện này tác giả muốn nói lên sự bị quan, chủ quan và sự cả tin không phân biệt ai là thù ai là bạn của An Dương Vương nên đã đẫy đất nước vào khiếp lầm than. Không chỉ vậy tác giả còn khẵng định tình yêu trong sáng của Mị Châu đã đưa nàng đến một kế thúc bi thảm khi người cha của mình đã tự tay giết chết mình. Và Qua đâác giả muốn rút ra bài học giữ nước sâu sắc: không nên chủ quan, tự mãn, ỷ lại vào vũ khí, phải luôn sáng suốt phân biệt rõ bạn thù, mài sắc cảnh giác trước mọi âm mưu thâm độc của kẻ địch.

Thanh Bình tổng hợp

Video liên quan

Chủ Đề