Danh y được chữa mới cứu người bằng thuốc cứu đời bằng vẫn

      Sáng ngày 14.2, Bệnh viện Y Dược cổ truyền đã tổ chức Lễ dâng hương tưởng nhớ Đại danh Y Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác nhân ngày giỗ lần thứ 231 của Đại danh Y tại tượng đài trong khuôn viên của bệnh viện.

      Dự buổi Lễ, có lãnh đạo Bệnh viện Y Dược cổ truyền, lãnh đạo Hội đông Y tỉnh Hà Giang cùng toàn thể cán bộ viên chức, người lao động của Bệnh viện.

       Lễ giỗ là dịp để các cán bộ thầy thuốc của Bệnh viện và Hội Đông Y cùng ôn lại thân thế, sự nghiệp của Đại danh Y với những đóng góp to lớn của Ông đối với nền y học Việt. Hải Thượng Lãn Ông tên thật là Lê Hữu Trác, sinh ngày 12/11/1720, nguyên quán thôn Văn Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương [nay là xã Liêu Xá,  huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên]. Xuất thân trong một gia đình nổi tiếng khoa bảng, ông là người học cao hiểu rộng nhưng đã từ quan về để học nghề y, dành trọn cả cuộc đời mình cho sự nghiệp “trị bệnh, cứu người”.

       Sau thời gian dài nguyên cứu, đem hết tài năng, tinh thần trách nhiệm cao cả, tâm huyết chữa bệnh và giảng dạy, Ông đã lĩnh hội được nguyên lý uyên thâm của Đông y, đồng thời thu lượm những kinh nghiệm quý báu về chẩn trị, đúc kết thành hệ thống kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn lâm sàng..., trong đó có thuốc Nam, kế thừa xuất sắc sự nghiệp “Nam dược trị Nam nhân” của Tuệ Tĩnh thiền sư. Ông đã để lại nhiều tác phẩm lớn như: Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển chắt lọc tinh hoa của y học cổ truyền, được đánh giá là công trình y học xuất sắc nhất trong thời đại Việt Nam và các cuốn Lĩnh Nam bản thảo, Thượng Kinh ký sự không chỉ có giá trị về y học mà còn có giá trị về văn học, lịch sử, triết học.

      Trong suốt cuộc đời làm nghề thầy thuốc của mình, Ông đã để lại 9 điều răn dạy cho học trò cũng như tâm niệm cho bản thân. Đến nay đã hơn 200 năm, những điều răn đó vẫn còn nguyên giá trị. Cuộc đời của Ông là hình ảnh cao đẹp của người thầy thuốc, là tấm gương sáng về Y đức - Y đạo - Y thuật. Ông xứng đáng là người đã dựng “Ngọn cờ đỏ thắm” trong nền y học nước nhà, là tấm gương sáng cho muôn đời sau noi theo.

Kế thừa xuất sắc sự nghiệp “Nam dược trị Nam nhân”, gần 40 năm làm thuốc, miệt mài nghiên cứu y thuật, y lý và tận tụy cứu người, Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã sưu tầm, thu thập tổng hợp 2.854 phương thuốc hay của các bậc tiền bối lưu truyền trong dân gian. Ông để lại cho nền y học Việt một di sản quý giá với những tác phẩm được đánh giá là công trình y học xuất sắc nhất trong thời đại. Những cuốn sách này được đúc kết tinh hoa y học cổ truyền Phương Ðông và y học cổ truyền Việt Nam. Thông qua kinh nghiệm thực tiễn phong phú, Hải Thượng Lãn Ông đã xây dựng thành hệ thống toàn bộ Lý, Pháp, Phương, Dược của nền y học nước nhà. Chính vì vậy, Hải Thượng Lãn Ông được mệnh danh là “Ông Tổ của ngành Y Việt Nam”.

Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông và niềm tự hào “Sâm của người Việt”

Trong suốt cuộc đời hành y, Hải Thượng Lãn Ông luôn ưu tiên nghiên cứu các loại thảo dược trong vườn nhà. Ông đã phát hiện và bổ sung 300 vị thuốc nam vào khối di sản y học đồ sộ của mình. Trong đó phải kể đến niềm tự hào khi vô tình phát hiện về công dụng của đinh lăng lá xẻ - một loài thảo dược quý nghìn năm vô cùng gần gũi với người dân đất Việt.

Ông đã dành gần một thập kỷ để nghiên cứu về giống cây này, bởi ít có loại dược liệu nào mà toàn bộ thân, lá, đặc biệt là rễ của cây đều có tác dụng hỗ trợ bồi bổ sinh lực, trí lực, chống mệt mỏi và làm tăng sức dẻo dai của cơ thể như vậy. Theo ông, rễ đinh lăng lá xẻ có tính mát, vị ngọt, hơi đắng bổ 5 tạng, có công dụng hỗ trợ bổ khí huyết, đả thông kinh mạch, tăng sức chịu đựng, dẻo dai của cơ thể, làm nhịp tim trở lại bình thường và gia tăng sức chịu nóng với vận động viên. đinh lănghỗ trợ ổn định tim mạch và huyết áp. Ngoài ra còn có khả năng giúp tăng cân, hỗ trợ bồi bổ sức khỏe, giúp ăn ngon, ngủ tốt, tinh thần sảng khoái, khỏe mạnh, dùng làm thuốc chữa ho,....

Với phát hiện thú vị này, Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông đã nhận định đinh lăng là Nam Dương Sâm hay còn gọi là “Sâm của người Việt”, và ghi lại trong dược điển Việt Nam. Các nghiên cứu y học cổ truyền sau này cũng chỉ ra rằng rễ đinh lăng lá xẻ nên được thu hoạch vào mùa thu đông sau khi cây trồng trên 5 năm, lúc này, rễ cây mềm và chứa nhiều hoạt chất.

Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông đã ví đinh lăng là sâm của người Việt

Trong cuốn sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của Giáo Sư, Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi có viết: “đinh lăng cùng họ với nhân sâm, có các thành phần giống sâm. Ngoài ra, đinh lăng có những tác dụng dược lý tương tự như sâm”.

Trong quá trình chuẩn bị đưa anh hùng Phạm Tuân bay vào vũ trụ, Việt Nam cũng đưa dự án khoa học về y học vũ trụ: Nghiên cứu thử nghiệm tác dụng của cây đinh lăng đối với việc tăng cường thể lực của phi công vũ trụ [do Học viện Quân y thực hiện].

Đinh lăng đồng hành cùng Anh hùng, Trung tướng Phạm Tuân trong chuyến du hành vũ trụ trong dự án Intercosmos năm 1980

Phát hiện chấn động lý giải tác dụng của đinh lăng

Kế thừa tinh hoa y học dân tộc, những nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra nhiều loại vitamin, 20 acid amin,…và 8 loại Saponin trong đinh lăng với hàm lượng cao, đặc biệt trong rễ đinh lăng lá xẻ - một loại cây rất phổ biến ở nước ta.

Như chúng ta đã biết, Saponin là một trong những thành phần hóa học quan trọng có trong nhân sâm và 1 số loại thảo dược khác. Trong nhân sâm, saponin là thành phần hóa học chính, chúng sản xuất ra một hợp chất hoạt động gọi là ginsenisides có lợi cho hệ thần kinh trung ương, hệ nội tiết, hệ miễn dịch và nhiều lợi ích khác cho chức năng điều hòa của cơ thể. Điều này lý giải vì sao đinh lăng có công dụng hữu hiệu được ví như sâm.

Các nhà dược lý, dược liệu và giải phẫu bệnh lý thuộc Viện Y học Quân sự Việt Nam cũng đã nghiên cứu về đinh lăng và kết luận: Nước sắc rễ đinh Lăng giúp tăng sức đề kháng, cho thấy rõ dẻo dai của cơ thể và có tác dụng như nhân sâm. Ðặc biệt viên bột rễ đinh lăng dùng cho bộ đội, vận động viên thể dục, thể thao đều cho kết quả khả quan trong các nghiệm pháp gắng sức.

Rễ đinh lăng lá xẻ chứa nhiều vitamin, 20 acid amin và 8 loại Saponin

Đinh lăng và những công trình khoa học của thế kỷ

Phát hiện thú vị về đinh lăng đã thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên cứu khoa học trong nước và trên thế giới. Ngày càng nhiều các công trình khoa học chứng minh công dụng của loại thảo dược này. Điển hình phải kể đến các công trình nghiên cứu về tác dụng hỗ trợ chăm sóc người mắc bệnh ung bướu, xương khớp, tiểu đường, mỡ máu…

Tháng 7/2018 tác giả Nguyễn Thị Luyện và cộng sự nghiên cứu Đặc tính hạ đường huyết của saponin chiết xuất từ đinh lăng đã cho kết luận dịch chiết đinh lăng hỗ trợ làm giảm đường huyết sau ăn trên thực nghiệm. Cơ chế giảm đường huyết sau ăn là ức chế men amylase của tuyến tụy và glucosidase của nấm men. Nghiên cứu này cũng cho thấy tác dụng tiềm năng của đinh lăng trong hỗ trợ chăm sóc sức khỏe cho người tiểu đường.

Nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Khoa Y Học Cổ truyền-Đại học Y Dược TP. HCM do tác giả Nguyễn Trần Châu và Đỗ Mai Anh thực hiện đã kết luận đinh lăng có tác dụng hỗ trợ chống oxy hóa và hỗ trợ hạ cholesterol máu nhờ cấu trúc steroid ức chế sự tạo thành MDA trong quá trình peroxy hóa lipid màng tế bào.

Tháng 5/2019, tác giả Jeo-Hyung Lee Hàn Quốc nghiên cứu Dịch chiết lá đinh lăng tại Khoa Hóa sinh, Đại học Quốc gia Kangwon, Hàn Quốc đã cho kết luận dịch chiết lá đinh lăng hỗ trợ ức chế đáng kể quá trình hủy xương bằng cách giảm số lượng tế bào hủy xương, hình thành vòng hoạt hóa tế bào hủy xương và tiêu xương. Bên cạnh đó, dịch chiết lá đinh lăng giúp làm giảm biểu hiện của các GEN đánh dấu tế bào tủy xương.

Nghiên cứu tại Viện nghiên cứu và vườn bách thảo nhiệt đới Jawaharlal Nehru, Ấn Độ công bố tháng 7/2020 cho thấy đinh lăng có tác dụng hỗ trợ ngăn ngừa sự phát triển của tế bào ung bướu bằng cơ chế kích hoạt quá trình tự chết của tế bào u ác tính.

Nghiên cứu tại Khoa Hóa sinh, Đại học Quốc gia Kangwon, Hàn Quốc cũng cho thấy đinh lăng có tác dụng hạ đường huyết nhờ ức chế men α-amylase của tuyến tụy và α-glucosidase của nấm men.

Giải pháp nào nâng tầm giá trị đinh lăng, ứng dụng hiệu quả vào chăm sóc sức khỏe cộng đồng?

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu chứng minh tác dụng tuyệt vời như nhân sâm, nhưng ở Việt Nam hiện nay, đinh lăng vẫn chưa được đưa khai thác và sử dụng xứng đáng với tiềm năng giá trị vốn có.

Thực tế, các chế phẩm của đinh lăng hiện nay trên thị trường đều được bào chế bằng phương pháp truyền thống, vô tình không giữ được phần lớn hoạt chất quý của loại thảo dược nghìn năm này. Do vậy, rất cần có sự đầu tư nghiên cứu chuyên sâu ứng dụng KH&CN hiện đại vào nâng tầm giá trị đinh lăng, để tạo ra nhiều loại thực phẩm và thức uống có lợi cho sức khỏe.

Độc giả có thể tham khảo về công dụng tuyệt vời của đinh lăng Tại đây hoặc liên hệ tổng đài 1800.8019 để được tư vấn miễn phí, tỉ mỉ từ các dược sĩ.


Danh y Lê Hữu Trác, còn được biết tới với biệt hiệu Hải Thượng Lãn Ông, được mệnh danh là vị Đại danh y trong bầu trời y học Việt Nam. Những thành tựu của ông đã góp phần cho sự phát triển của nền y học Việt Nam. Dù trải qua hàng trăm năm vẫn vẹn nguyên giá trị và tính ứng dụng. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về cuộc đời, sự nghiệp và thành tựu của vị Đại danh y này.

Danh y Lê Hữu Trác còn được biết tới với đại danh Hải Thượng Lãn Ông

Danh y Lê Hữu Trác [1720 – 1791] là người con sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, Tỉnh Hải Dương [nay thuộc tỉnh Hưng Yên, huyện Yên Mỹ]. Ông sinh nhằm ngày 12 tháng 11 năm 1720 [tức năm Canh Ngọ]. Theo nhiều tài liệu cổ ghi chép lại, ông có tên gọi khác là Lê Hữu Huân [theo “Hải Dương phong vật chí”] nhưng đến nay, người đời vẫn quen thuộc gọi ông với cái tên Hải Thượng Lãn Ông.

Nhiều người cho rằng, đại danh Hải Thượng Lãn Ông [có nghĩa là ông già lười ở Hải Thượng] là do sự kết hợp giữa hai chữ cái đầu tiên của tên tỉnh và tên phủ [Tỉnh Hải Dương, Phủ Thượng Hồng]. Cũng có tài liệu cho rằng, chữ “lười” ám chỉ sự chán ghét công danh, không màng mưu lợi, quyền chức của vị danh y này.

Tượng đài của Danh y tại Hoa viên Nghĩa trang Chánh Phú Hoà

Danh y Lê Hữu Trác là người con út trong gia đình có 7 anh em. Chính vì vậy, người trong gia đình thường gọi ông là Cậu Chiêu Bảy. Gia đình ông vốn nổi tiếng bởi truyền thống đỗ đạt khoa bảng, rất nhiều người làm quan to trong triều đình. Trong đó cả 6 người anh của ông đều thi đỗ khoa cử, tiến sĩ. Cha của ông là Lê Hữu Mưu, thuở trẻ đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, được nhà vua phong chức Ngự sử, tước Bá. Chú là Lê Hữu Kiều cũng là Đại triều thần của nhà Lê.

Ngay từ nhỏ, Lê Hữu Trác đã bộc lộ tài năng thiên bẩm trong việc học hành, tinh thông sách sử nên được cha cho lên Kinh kỳ theo học. Tại đây ông nổi tiếng với trí tuệ hơn người thi đậu liền Tam trường. Ông còn cùng các bạn học lập hội “Thi xã” bên Hồ Tây để hằng ngày đối thơ, xướng họa. Tính cách ông hào sảng, thích giao du nên không chỉ được bạn đồng niên mà cả chúa Trịnh cũng hết lòng yêu quý. Tuy nhiên, không lâu sau đó vào năm ông 19 tuổi, cha ông mất [năm 1739] nên phải về nhà chịu tang, vừa lo kế nghiệp gia đình vừa lo hậu sự cho cha. 

Một năm sau đó [tức 1740], giữa thời buổi loạn lạc, Trịnh – Nguyễn – Tây Sơn tranh giành quyền lực, muôn dân lầm than, bạo loạn xảy ra khắp nơi ông đã quyết định gác lại sách vở, luyện tập võ thuật và binh thư, xung phong vào quân ngũ. Chỉ ít lâu sau, ông nhanh chóng nhận ra đây không phải là lẽ sống mà mình theo đuổi nên dù đã được đề bạt nhiều lần, ông kiên quyết từ chối. Cho tới năm 1746, sau khi người anh cả mất tại quê mẹ là huyện Hương Sơn, Nghệ An [nay là Hà Tĩnh] ông đã viện cớ xin rời khỏi quân ngũ về chăm mẹ già và các cháu nhỏ mồ côi.

Bước ngoặt của cuộc đời danh y Lê Hữu Trác xảy đến khi ông mắc trận ốm nặng. Dù đã được người nhà săn sóc và đưa đi chữa trị khắp nơi nhưng đến 2, 3 năm vẫn không có tiến triển. Sau đó có người mách, ông nhờ người đưa tới nơi của thầy thuốc tên Trần Độc ở xã Trung Cần, huyện Thanh Chương [nay là xã Nam Trung, Nam Đàn, Nghệ An]. Trần Độc vốn thi đỗ cử nhân, xong từ chối vinh hoa chốn quan trường để về quê chữa bệnh. Tiếng lành đồn xa nên ông được rất nhiều người trong vùng tín nhiệm.

Trong suốt 1 năm chữa bệnh tại đây, Lê Hữu Trác thường hay nghiên cứu sách y học “Phùng thị cẩm nang” của Trung Hoa. Với trí thông minh và khả năng hiểu sâu sắc vấn đề, ông nhanh chóng nắm bắt được chân lý trong sách và nhen nhóm đam mê học về y thuật. Trần Độc nhận thấy sự tinh thông và quyết tâm của ông, nên bày tỏ mong muốn truyền nghề.

Ở tuổi 30, danh y Lê Hữu Trác trở lại quê mẹ ở Hương Sơn, khước từ lời mời của chúa Trịnh quyết ở lại đây chuyên tâm chữa bệnh cứu người, lấy tên Hải Thượng Lãn Ông. Tuy nhiên tại đây neo người bầu bạn, lại không có nhiều thầy giỏi để ông học hỏi, Lê Hữu Trác quyết định lên kinh đô học tập, mong tìm kiếm thêm kiến thức y học mênh mông. 

Sau khoảng thời gian học tập, ông trở lại quê mẹ để chữa bệnh cứu người. Với tài năng học rộng, chẩn bệnh giỏi, bốc thuốc hay, lại không màng tới tiền tài danh lợi, ông đã chữa khỏi bệnh cho rất nhiều người dân. Có người bệnh nhiều năm không khỏi ông cũng chữa được. Chỉ qua một thập kỷ miệt mài cống hiến, tên tuổi của ông nhanh chóng vang danh khắp vùng Hương Sơn và đến tận kinh thành. 

Không dừng lại ở đó, Hải Thượng Lãn Ông còn mở thêm Hội y nhằm quy tụ các danh y từ khắp nơi đến để bầu bạn, tâm sự và chia sẻ kiến thức, học hỏi lẫn nhau. Ông cũng mở các lớp dạy y, đào tạo thế hệ thầy thuốc trẻ. Các lớp học của ông thu hút rất đông học viên tới theo học. Là một người thầy thuốc đồng thời cũng là một người thầy giáo, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác luôn căn dặn với học trò như với chính mình về nhân cách của người thầy thuốc chân chính. Trước hết, ông đề cao tính y đức, sau là tuân thủ 8 chữ “Nhân – Minh – Đức – Trí – Lượng – Thành – Khiêm – Cần” [nhân ái – sáng suốt – đức độ – tốt bụng – chân thành – khiêm tốn – cần cù]. Bên cạnh đó, đặc biệt tránh lười nhác, keo kiệt, vụ lợi, dối trá, ngu si, bất nhân, sân si, thất đức.

Năm 1782, khi đã 62 tuổi, ông nhận lệnh Chúa Trịnh hồi kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Vốn được lòng Trịnh Sâm, ông bị không ít ngự y trong thành ghen ghét. Hải Thượng Lãn Ông vốn không hề nảy sinh thù ghét, chỉ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ và mau chóng thoát khỏi chốn kinh thành. Tuy nhiên không lâu sau đó, Trịnh Sâm lâm bệnh, Trịnh Cán ốm yếu dai dẳng. Ông đành miễn cưỡng lên chữa bệnh. Dù đã được chữa khỏi nhưng do tuổi cao sức yếu, chỉ ít lâu sau Trịnh Sâm băng hà, con trai là Trịnh Cán lên kế vị. Nhân lúc triều đình đang có người tiến cử thái y mới, Hải Thượng Lãn Ông viện cớ tuổi già thoái lui về quê.

Trong suốt những năm làm thầy thuốc và đào tạo học trò, Danh y Lê Hữu Trác vẫn luôn mong muốn truyền lại y lý cho thế hệ sau thông qua những cuốn sách. Bộ “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” được ông dày công biên soạn, ghi chép và chắt lọc lại những chân lý ông đã lĩnh hội được từ các đại danh y đời trước và mất gần 10 năm [1760 – 1770] để hoàn thành. Đây là cuốn sách chứa đựng những gì tinh túy nhất trong sự nghiệp của người thầy thuốc vĩ đại này và là tài sản vô giá của nền y học Việt Nam. 

Bộ “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” được ông dày công biên soạn suốt hàng chục năm

Toàn bộ cuốn sách bao gồm 28 tập, 66 quyển về các chuyên ngành nội khoa, sản khoa, phụ khoa, da liễu, nhãn khoa. Đồng thời ông còn phê phán và chỉ ra những điểm không phù hợp khi áp dụng trong điều trị cho người Việt Nam. Trong gần 20 năm sau đó, ông vẫn tiếp tục biên soạn và cho ra đời nhiều tập sách quý giá nữa như “Y hải cầu nguyên” [1782], “Thượng kinh ký sự” [1783] trong đó phê phán nhiều thói quen xa hoa, những điều “mắt thấy tai nghe” khi ông lên kinh khám bệnh cho Thái tử, “Vận khí bí điển” [1786].

Hải Thượng Lãn Ông qua đời hưởng thọ 71 tuổi vào ngày 15 tháng 1 âm năm 1791. Để tưởng nhớ và tri ân công lao của ông, cứ vào ngày này hằng năm, người dân và người làm nghề y lại cùng nhau tề tựu tại Nhà tưởng niệm Đại danh y ở Liêu Xá dâng hương.

Dâng hương tưởng niệm danh y Lê Hữu Trác

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác chính là người thầy vĩ đại truyền cảm hứng không nhỏ tới các thế hệ trong tương lai. Đồng thời để lại kho tàng y học vô giá, đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển của y học nước nhà. Mong rằng qua bài viết trên đây, bạn đọc đã có thêm những hiểu biết về cuộc đời và sự nghiệp của vị Thánh Y này.

Video liên quan

Chủ Đề