Dịch vụ ngân hàng đại lý được cung ứng cho

Nghiệp vụ ủy thác và đại lý của các ngân hàng thương mại được thực hiện theo quy định của pháp luật. Điều 106 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi năm 2017 quy định về nghiệp vụ ủy thác và đại lý của ngân hàng thương mại như sau:

Điều 106. Nghiệp vụ ủy thác và đại lý
Ngân hàng thương mại được quyền ủy thác, nhận ủy thác, đại lý trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, quản lý tài sản theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”

Ủy thác là việc một bên [bên ủy thác] giao vốn bằng tiền cho một bên khác [bên nhận ủy thác] để thực hiện hoạt động theo quy định đối với đối tượng ủy thác, bên ủy thác chịu mọi rủi ro, bên nhận ủy thác được hưởng phí ủy thác. Hoạt động đại lý ngân hàng là việc cung ứng dịch vụ tài chính cho khách hàng bởi một đối tác bên thứ ba thay mặt cho tổ chức nhận tiền gửi hoặc/và tổ chức cung ứng dịch vụ tiền di động được cấp phép. Ngân hàng thương mại được quyền ủy thác, nhận ủy thác, đại lý trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kinh doanh bảo hiểm, quản lý tài sản. Nghiệp vụ ủy thác và đại lý của các NHTM được thực hiện như sau: -Đối với ủy thác. Thời hạn ủy thác là khoảng thời gian được tính từ thời điểm bên nhận ủy thác bắt đầu thực hiện nội dung ủy thác cho đến thời điểm hoàn thành nội dung ủy thác, được quy định tại hợp đồng ủy thác. Bên ủy thác phải giao cho bên nhận ủy thác một khoản vốn nhất định để thực hiện nội dung ủy thác. Đồng thời, bên ủy thác phải trả cho bên nhận ủy thác một khoản phí được quy định tại hợp đồng ủy thác. NHTM chỉ được thực hiện ủy thác, nhận ủy thác theo quy định này đối với các hoạt động sau đây: 1. Cho vay. Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. 2. Cho thuê tài chính. Cho thuê tài chính là một dạng cho thuê tài sản, nhưng khác về căn bản so với các loại cho thuê tài sản khác là có sự chuyển dịch về cơ bản các rủi ro và các lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản thuê. Ủy thác cho thuê tài chính là việc bên ủy thác ủy thác cho bên nhận ủy thác để cho thuê tài chính đối với khách hàng thuê tài chính. 3. Góp vốn, mua cổ phần. Góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng là việc tổ chức tín dụng góp vốn cấu thành vốn điều lệ, mua cổ phần của các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác, bao gồm cả việc cấp vốn, góp vốn vào công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng; góp vốn vào quỹ đầu tư và ủy thác vốn cho các tổ chức khác góp vốn, mua cổ phần theo các hình thức nêu trên. Việc góp vốn, mua cổ phần là phương thức đầu tư, kinh doanh của các NHTM. Ủy thác góp vốn, mua cổ phần là việc bên ủy thác ủy thác cho bên nhận ủy thác để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng. 4. Đầu tư vào dự án sản xuất, kinh doanh. NHTM được ủy thác, nhận ủy thác để đầu tư vào dự án sản xuất kinh doanh của các tổ chức khác nhằm thu lợi nhuận. Nhận ủy thác đầu tư vào dự án sản xuất, kinh doanh là việc NHTM nhận ủy thác của nhà đầu tư dự án để đầu tư vốn vào dự án sản xuất, kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. 5. Mua trái phiếu doanh nghiệp. Trái phiếu là một loại chứng nhân nghĩa vụ nợ của tổ chức tín dụng phát hành buộc phải trả cho người sở hữu một khoản tiền cụ thể, trong một khoảng thời gian xác định, với một khoản lợi tức quy định. Trái phiếu có thời hạn từ 01 năm trở lên. Đây là một hình thức đầu tư thu lợi nhuận của các NHTM. Ủy thác mua trái phiếu doanh nghiệp là việc bên ủy thác ủy thác cho bên nhận ủy thác mua trái phiếu doanh nghiệp, bao gồm cả trái phiếu chuyển đổi. -Đối với đại lý: NHTM phải đáp ứng các điều kiện và tuân thủ các quy định về hoạt động đại lý bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. NHTM không được sử dụng phí bảo hiểm thu được cho các mục đích khác ngoài các thỏa thuận tại hợp đồng đại lý bảo hiểm. Hoạt động đại lý bảo hiểm của tổ chức tín dụng phải được ghi trong Giấy phép được NHNN Việt Nam cấp cho tổ chức tín dụng. 1. Nội dung hoạt động: Hoạt động đại lý bảo hiểm của tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp bảo hiểm gồm một hoặc một số các hoạt động sau đây: Giới thiệu khách hàng: Tổ chức tín dụng giới thiệu khách hàng có nhu cầu mua bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện chào bán bảo hiểm. Chào bán bảo hiểm: Tổ chức tín dụng chào bán trực tiếp, giải thích điều kiện, điều khoản của sản phẩm bảo hiểm cho khách hàng có nhu cầu mua bảo hiểm; hoặc chào bán bảo hiểm thông qua các phương thức điện tử, bảo hiểm trực tuyến hoặc các phương thức khác phù hợp với quy định của pháp luật. Thu xếp việc giao kết hợp đồng bảo hiểm: Tổ chức tín dụng hướng dẫn, hỗ trợ cho khách hàng lập hợp đồng bảo hiểm, tiếp nhận hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và thu xếp việc giao kết hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận tại hợp đồng đại lý bảo hiểm và quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. Thu phí bảo hiểm: Tổ chức tín dụng thu hộ các khoản phí bảo hiểm từ khách hàng theo thỏa thuận tại hợp đồng đại lý bảo hiểm. Thu xếp giải quyết bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm:Tổ chức tín dụng hỗ trợ, hướng dẫn khách hàng về thủ tục yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm, nhận hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm từ khách hàng và chuyển lại cho doanh nghiệp bảo hiểm để thẩm định, ra quyết định bồi thường, trả tiền bảo hiểm. Trường hợp được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền, tổ chức tín dụng bồi thường, chi trả tiền bảo hiểm cho khách hàng. Thực hiện các hoạt động khác có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng đại lý bảo hiểm phù hợp với quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm và theo ủy quyền của doanh nghiệp bảo hiểm.

2. Quyền, nghĩa vụ của NHTM hoạt động đại lý bảo hiểm: NHTM có các quyền của đại lý bảo hiểm theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. NHTM có các nghĩa vụ của đại lý bảo hiểm theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm và các nghĩa vụ sau đây: Giải thích cho khách hàng các sản phẩm bảo hiểm được phân phối thông qua tổ chức tín dụng không phải là sản phẩm của NHTM; Quản lý, lưu trữ danh sách các nhân viên trong NHTM trực tiếp thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thỏa thuận tại hợp đồng đại lý bảo hiểm; Cung cấp đầy đủ, chính xác cho doanh nghiệp bảo hiểm thông tin về các khoản phí bảo hiểm thu được, các khoản chi trả quyền lợi bảo hiểm và các khoản thanh toán khác theo thỏa thuận tại hợp đồng đại lý bảo hiểm; Thanh toán toàn bộ phí bảo hiểm thu được cho doanh nghiệp bảo hiểm sau khi trừ đi hoa hồng đại lý bảo hiểm, các khoản chi trả quyền lợi bảo hiểm và các khoản thanh toán khác theo thỏa thuận tại hợp đồng đại lý bảo hiểm; Cung cấp đầy đủ, chính xác và đối chiếu với doanh nghiệp bảo hiểm về các thông tin cần thiết từ khách hàng mà NHTM có nghĩa vụ thu thập.

Luật Hoàng Anh

Nghị định về TTKDTM sắp ban hành sẽ quy định việc giao ngân hàng đại lý làm các lĩnh vực thanh toán

Thúc đẩy tài chính toàn diện

Báo cáo nghiên cứu của Viện Chiến lược Ngân hàng [NHNN] đối với mô hình này chỉ ra rằng, hiện trên thế giới tồn tại hai mô hình đại lý ngân hàng. Thứ nhất, mô hình ngân hàng làm chủ: một tổ chức tài chính được cấp phép hoạt động mà điển hình là ngân hàng cung cấp dịch vụ tài chính thông qua một đại lý. Đồng nghĩa với việc ngân hàng phát triển và cung ứng sản phẩm, dịch vụ tài chính nhưng phân phối chúng qua đại lý. Ngân hàng vẫn là đơn vị cung cấp dịch vụ tài chính, đồng thời là người quản lý, duy trì tài khoản của khách hàng. 

Thứ hai, mô hình phi ngân hàng làm chủ: tương tự với mô hình ngân hàng làm chủ, chỉ khác biệt ở chỗ tổ chức chủ quản đại lý là một tổ chức vận hành mạng viễn thông/điện thoại di động và thực hiện giao dịch thông qua tài khoản tiền điện tử của khách hàng thay vì tài khoản ngân hàng.

Đại lý ngân hàng được xem là một trong những kênh phân phối mang tính đổi mới, giúp mở rộng sự tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính. Thông qua đại lý thường là các cửa hàng tạp hoá, hiệu thuốc, bưu điện hoặc cửa hàng bán lẻ xăng dầu, các dịch vụ ngân hàng cơ bản như thanh toán hoá đơn, rút/chuyển tiền, gửi tiết kiệm... được cung cấp tới người dân một cách thuận tiện ở vùng sâu, vùng xa, những nơi không có chi nhánh NHTM. Hoạt động đại lý ngân hàng được coi là sáng kiến nổi bật nhất cho thực hiện mục tiêu thúc đẩy tài chính toàn diện ở các quốc gia.

Trao đổi với một chuyên gia, vị này nêu lên trường hợp phổ cập tài chính của Malaysia. Theo đó, chương trình phát triển mạng lưới đại lý cho ngân hàng của NHTW Malaysia vào năm 2012 là một trong 10 sáng kiến có tầm ảnh hưởng lớn trong khuôn khổ Chiến lược phát triển khu vực tài chính Malaysia giai đoạn 2011 - 2020 mở rộng tiếp cận tới đối tượng dân cư chưa được tiếp cận với dịch vụ ngân hàng.

Việc triển khai dịch vụ ngân hàng đại lý đã mở rộng đáng kể tầm bao phủ, đem các dịch vụ tài chính tới gần hơn với nhóm người dân chưa được tiếp cận dịch vụ ở Malaysia. Cuối năm 2016, mạng lưới đại lý ngân hàng đã đạt 7.984 đại lý - gấp 17 lần con số 460 tại thời điểm cuối năm 2011; có hơn 100 triệu giao dịch được thực hiện với tổng giá trị giao dịch là 2,1 tỷ USD. Mô hình này đã giúp các nhà băng có thể tiết kiệm tới hơn 80% chi phí thành lập điểm cung ứng dịch vụ và 60% chi phí giao dịch so với qua mạng lưới chi nhánh ngân hàng truyền thống.

Trong những giải pháp phát triển đa dạng các mô hình sản phẩm, dịch vụ tài chính tại Khung chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện của Việt Nam cũng có đặt ra việc triển khai mô hình cung ứng dịch vụ ngân hàng qua đại lý được uỷ quyền. Theo đó đề nghị cần áp dụng thí điểm cho việc chi trả trợ cấp Chính phủ theo mô hình hoạt động ngân hàng qua đại lý, đồng thời ban hành quy định hướng dẫn việc cung ứng dịch vụ theo mô hình ngân hàng đại lý.

Xây dựng khung khổ pháp lý

Theo ông Ondrej Sedlon - Giám đốc Phát triển mạng lưới toàn cầu của Air Bank, một trong những điều kiện đặt ra hàng đầu khi muốn đẩy mạnh phát triển sản phẩm dịch vụ ngân hàng đó là cần lấy khách hàng làm trung tâm, tăng cường cơ cấu và cơ sở hạ tầng của ngân hàng.

Song song với đó, các ngân hàng phải xem xét cách thức, phương tiện mới để đảm bảo phục vụ khách hàng tốt hơn; đẩy mạnh phát triển thêm nhiều kênh bán sản phẩm với những sản phẩm dịch vụ thiết kế đa dạng, tiện dụng với người dân, đặc biệt với người dân vùng sâu, vùng xa như tư vấn tài chính, quản lý tài sản…

Cho tới nay, Việt Nam đã có ba mô hình đại lý ngân hàng được triển khai và đi vào hoạt động. Cụ thể, MB kết hợp với Viettel: các dịch vụ được thực hiện gồm nộp tiền vào tài khoản mở tại MB hoặc tại các ngân hàng khác; rút tiền từ tài khoản của khách hàng mở tại MB; chuyển khoản cho tài khoản mở tại MB hoặc tại ngân hàng khác; chuyển tiền cho người nhận bằng CMTND/Thẻ căn cước.

PG Bank và Petrolimex: PG Bank hợp tác sử dụng mạng lưới các xí nghiệp, chi nhánh và công ty xăng dầu thành viên của Petrolimex cung ứng dịch vụ chuyển tiền cho người nhận chưa có tài khoản tại PG Bank [bằng CMTND/Hộ chiếu] và chuyển tiền cho người nhận có tài khoản tại PG Bank [nộp tiền vào tài khoản của người nhận mở tại PG Bank].

Vietcombank và M_Service: triển khai dịch vụ chuyển tiền giá trị nhỏ dựa trên nền tảng Ví điện tử MoMo.

Liên quan đến việc phát triển mô hình ngân hàng đại lý tại Việt Nam, phần đông các chuyên gia đều đồng tình rằng, cần xây dựng khuôn khổ pháp lý cho mô hình đại lý ngân hàng do ngân hàng làm chủ hoạt động, trong đó phải có tối thiểu một số vấn đề như: khái niệm về đại lý ngân hàng; điều kiện tối thiểu để trở thành ngân hàng đại lý; các dịch vụ ngân hàng/tài chính mà một đại lý ngân hàng có thể cung cấp; vai trò và trách nhiệm, nghĩa vụ giữa đại lý ngân hàng - ngân hàng chủ quản - NHNN và khách hàng; quy định tính độc quyền giữa ngân hàng chủ quản và đại lý ngân hàng; quy định mức phí thu giữa khách hàng và đại lý ngân hàng, giữa đại lý ngân hàng và ngân hàng chủ quản; giới hạn giá trị giao dịch đối với từng dịch vụ mà đại lý ngân hàng cung ứng…

Được biết, sắp tới, NHNN sẽ ban hành một Nghị định về TTKDTM, trong đó có nội dung liên quan tới việc giao ngân hàng đại lý làm các lĩnh vực thanh toán.

Cùng với khung khổ pháp lý hướng dẫn hoạt động của mô hình này, cũng cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung những nội dung có liên quan tại các văn bản pháp luật khác tạo điều kiện hoạt động hiệu quả cho mô hình này. Đặc biệt, NHNN với vai trò cơ quan chủ quản nghiên cứu và sớm trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn về mở tài khoản theo cấp độ, xác thực khách hàng trên nền tảng kỹ thuật số.

Mới đây, Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Trương Hoà Bình đã giao Bộ Công an tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để đưa vào vận hành, khai thác trong năm 2020; phối hợp với Văn phòng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương hoàn thiện hệ thống hạ tầng đồng bộ, thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu công dân phục vụ giải quyết thủ tục hành chính, dịch vụ công trực tuyến…

“Đây sẽ là cơ sở tạo nền tảng cho việc phát triển các kênh cung ứng dịch vụ tài chính đổi mới, trong đó có mô hình đại lý ngân hàng”, một chuyên gia chia sẻ.

Video liên quan

Chủ Đề