Em hiểu thế nào về cụm từ loạn 12 sứ quân

Skip to content

Loạt bài
Lịch sử Việt Nam
Thời tiền sử
Hồng Bàng
An Dương Vương
Bắc thuộc lần I [207 TCN – 40]
Nhà Triệu [207 – 111 TCN]
Hai Bà Trưng [40 – 43]
Bắc thuộc lần II [43 – 541]
Khởi nghĩa Bà Triệu
Nhà Tiền LýTriệu Việt Vương [541 – 602]
Bắc thuộc lần III [602 – 905] Mai Hắc Đế

Phùng Hưng

Tự chủ [905 – 938] Họ Khúc Dương Đình Nghệ

Kiều Công Tiễn

Nhà Ngô [938 – 967]
Loạn 12 sứ quân
Nhà Đinh [968 – 980]
Nhà Tiền Lê [980 – 1009]
Nhà Lý [1009 – 1225]
Nhà Trần [1225 – 1400]
Nhà Hồ [1400 – 1407]
Bắc thuộc lần IV [1407 – 1427] Nhà Hậu Trần

Khởi nghĩa Lam Sơn

Nhà Hậu Lê
   Nhà Lê sơ [1428 – 1527]
   Lê trung hưng

[1533 – 1789]

Nhà Mạc [1527 – 1592]
Trịnh–Nguyễn
phân tranh
Nhà Tây Sơn [1778 – 1802]
Nhà Nguyễn [1802 – 1945]
Pháp thuộc [1887 – 1945]
Đế quốc Việt Nam [1945]
Chiến tranh Đông Dương [1945 – 1975] Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Quốc gia Việt Nam Việt Nam Cộng hòa

Cộng hòa Miền Nam Việt Nam

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam [từ 1976]
Xem thêm
  • Vua Việt Nam
  • Nguyên thủ Việt Nam
  • Các vương quốc cổ
  • Niên biểu lịch sử Việt Nam
sửa

Sơ đồ vị trí quân sự chiếm đóng của 12 sứ quân.

Loạn 12 sứ quân [chữ Nôm: 亂12使君; chữ Hán: 十二使君之亂, Thập nhị sứ quân chi loạn] là một giai đoạn nội chiến diễn ra vào cuối thời nhà Ngô, kéo dài từ năm 944 sau khi Ngô Quyền mất cho đến khi Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước, lập ra nhà Đinh năm 968, được ghi chép trong phần Bản kỷ Ngô sứ quân Ngô Xương Xí.

Cuộc loạn lạc này có nguyên nhân sâu xa từ quá trình phân hóa xã hội thời Bắc thuộc, dẫn đến việc xuất hiện tầng lớp thổ hào, quan lại có thế lực mạnh về kinh tế, chính trị và tạo ra sự phân tán cát cứ. Thực chất của cuộc nội chiến này là việc đấu tranh giành quyền lực tối cao trên đất Tĩnh Hải quân của các thủ lĩnh địa phương khi nhà Đường suy yếu, người Việt có cơ hội đứng lên tranh giành quyền lãnh đạo. Giai đoạn này có mầm mống từ đầu thế kỷ X và có cơ hội phát triển mạnh từ khi Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, các nơi không chịu thuần phục, các thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng, nhiều người còn xưng Vương như An vương Ngô Nhật Khánh, Vũ Ninh vương Nguyễn Thủ Tiệp, Quang Hiển quốc vương Kiều Thuận, Quảng Trí quân Nguyễn Khoan hoặc tranh ngôi vua như Lã Xử Bình, Dương Huy, Đỗ Cảnh Thạc, Kiều Công Hãn và đem quân đánh chiếm lẫn nhau.

Giai đoạn 12 sứ quân kéo dài hơn 20 năm [944 – 968] và kết thúc khi Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt – nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên trong lịch sử của nước Việt Nam.

Năm 905, nhà Đường suy yếu, Khúc Thừa Dụ là Hào trưởng Chu Diên, được dân chúng ủng hộ, đã tiến quân ra chiếm đóng phủ thành Đại La, tự xưng là Tiết độ sứ. Họ Khúc đã mở đầu thời kỳ tự chủ của người Việt sau hơn 1000 năm Bắc thuộc.

Năm 906, tướng Nguyễn Nê theo lệnh vua Đường đem 7000 quân sang An Nam đòi họ Khúc triều cống. Nguyễn Nê dựng bản doanh ở Thành Quả, lấy vợ Việt sinh ra ba con trai sau này là các sứ quân Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp và Nguyễn Siêu.[1] Cũng trong thời kỳ nhà Đường suy yếu, nhiều thủ lĩnh Trung Hoa chạy loạn xuống Tĩnh Hải quân lập ấp mà con cháu họ sau này trở thành các sứ quân như Đỗ Cảnh Thạc và Trần Lãm.

Năm 918, Khúc Hạo mất, Khúc Thừa Mỹ lên thay hèn yếu, bất lực dù đã có Đại La [Hà Nội] vẫn không khống chế nổi các hào trưởng địa phương, phải cầu viện nhà Hậu Lương [Trung Quốc]. Quân Nam Hán tiến sang, bắt Khúc Thừa Mỹ và đem về Quảng Châu.

Năm 931, hào trưởng Dương Đình Nghệ từ Ái châu đánh đuổi Thứ sử Lý Tiến của nước Nam Hán, giải phóng thành Đại La. Lưu Cung sai Trần Bảo mang quân sang tiếp viện. Dương Đình Nghệ chủ động mở cửa thành nghênh đón địch, tiêu diệt viện binh Nam Hán, chém chết Trần Bảo. Sau đó ông tự lập làm Tiết độ sứ, dùng Ngô Quyền, Đinh Công Trứ [thân sinh của Đinh Bộ Lĩnh], Kiều Công Tiễn làm nha tướng.

Năm 937, Kiều Công Tiễn, hào trưởng Phong Châu, một tướng dưới quyền đã giết hại Dương Đình Nghệ để cướp quyền với lý do Đình Nghệ là người gây ra cái chết của Khúc Thừa Mỹ, chúa cũ của Tĩnh Hải quân.[2] Hai cháu nội Tiễn là Kiều Công Hãn và Kiều Thuận sau này trở thành các sứ quân ở gần khu vực Phong Châu.

Năm 938, Ngô Quyền là con rể Dương Đình Nghệ ra Đại La giết Kiều Công Tiễn rồi dẹp giặc Nam Hán ở sông Bạch Đằng, lên ngôi Vua, lập ra nhà Ngô, dựng lại quyền tự chủ. Trong số các tướng có Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, Sứ quân Kiều Công Hãn và Sứ quân Phạm Bạch Hổ. Tàn dư họ Kiều còn lại là Sứ quân Kiều Thuận chạy về chiếm vùng núi Hồi Hồ và liên kết với Ma Xuân Trường thâu tóm các tộc trưởng miền núi.

Sơ đồ các khu vực cát cứ của các sứ quân[cần dẫn nguồn]

Năm 944, Ngô Quyền mất, con trai Dương Đình Nghệ là Dương Tam Kha cướp ngôi, tự lập mình làm vua, xưng Dương Bình vương. Ngô Xương Ngập [con trưởng Ngô Quyền] chạy về nhà một hào trưởng là Phạm Lệnh Công ở làng Trà Hương [Hải Dương]. Dương Tam Kha ba lần sai quân đi bắt Ngô Xương Ngập mà không được.

Từ khi Dương Tam Kha lấy ngôi của nhà Ngô, thêm nhiều nơi không chịu thần phục. Đặc biệt là loạn ở hai thôn Đường – Nguyễn, nhiều thủ lĩnh nổi lên chống đối như Sứ quân Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm [thôn Đường] và Sứ quân Nguyễn Khoan nổi dậy ở Tam Đái [thôn Nguyễn], Sứ quân Phạm Bạch Hổ là con của Phạm Lệnh Công chiếm Đằng Châu, Sứ quân Trần Lãm chiếm giữ ở Bố Hải Khẩu.

Năm 950, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn [con Ngô Quyền] đi đánh 2 thôn Đường Lâm và Nguyễn Gia Loan ở Thái Bình. Ngô Xương Văn cho rằng đây là các ấp vô tội và thuyết phục các tướng dẫn quân quay lại lật đổ Dương Tam Kha. Xương Văn không giết Tam Kha, chỉ giáng xuống làm Chương Dương công. Ngô Xương Văn tự xưng làm Nam Tấn Vương, đóng đô ở Cổ Loa, cho người đón anh trai Ngô Xương Ngập về cùng làm vua, là Thiên Sách Vương. Lúc đó cùng tồn tại hai vua là Thiên Sách Vương và Nam Tấn Vương, sử sách gọi là Hậu Ngô Vương.

Năm 951, Hậu Ngô Vương tiến đánh Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư hơn một tháng không được đành mang Đinh Liễn về Cổ Loa làm con tin. Cũng từ đó Ngô Xương Ngập chuyên quyền, không cho Xương Văn tham dự chính sự nữa.

Năm 954, Ngô Xương Ngập bị bệnh thượng mã phong mà chết, chỉ còn một vua là Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn.

Sau khi Thiên Sách vương mất, thủ lĩnh ở quận Thao Giang là Chu Thái quật cường không thần phục nhà Ngô. Nam Tấn vương thân chinh đi đánh, chém được Chu Thái.[3] Cũng sau thời gian này, Ngô Xương Văn đi đánh giặc Lý Huy/Dương Huy ở châu Tây Long, đóng quân ở cửa Phù Lan, suốt tháng trời giặc tan mới rút quân trở về.

Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh thôn Đường tức Đường Lâm của sứ quân Ngô Nhật Khánh và thôn Nguyễn Gia Loan của sứ quân Nguyễn Thái Bình bị phục binh bắn nỏ chết.[4] Khi Ngô Xương Xí nối ngôi, Ngô Nhật Khánh là anh em cùng họ cũng kéo quân từ Đường Lâm về Cổ Loa tranh giành.[5]

Cũng trong năm 965 Thứ sử Phong Châu Kiều Công Hãn kéo quân về triều đình Cổ Loa cùng tranh ngôi vua với Lã Xử Bình,[6][7] con của Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí phải lui về giữ đất Bình Kiều, trở thành Ngô Sứ quân. Theo sử gia Ngô Thì Sĩ “thì lúc đó Nam Tấn mới mất, trong nước rối ren, Đinh Liễn có công dẹp loạn, lại được phong tước, chứ chẳng như những con tin tầm thường nhân lúc loạn lạc mà trốn về”. Đinh Liễn sau 15 năm làm con tin ở Cổ Loa đã trở về Hoa Lư, cùng cha Đinh Bộ Lĩnh sang đầu quân cho Sứ quân Trần Lãm ở Thái Bình.

Năm 966 Thứ sử Dương Huy, Thứ sử Kiều Công Hãn, Tham mưu Lã Xử Bình và Nha tướng Đỗ Cảnh Thạc tranh nhau làm vua.[8] Đinh Bộ Lĩnh giết được Lã Xử Bình, kiểm soát được thành Cổ Loa. Các tướng Kiều Công Hãn, Đỗ Cảnh Thạc thua chạy về Phong Châu và Đỗ Động, nổi dậy thành sứ quân.

Các sứ quân ra mặt đánh chiếm lẫn nhau: Phạm Bạch Hổ tấn công Trần Lãm, Lã Đường tấn công Đỗ Cảnh Thạc; Kiều Công Hãn tấn công Nguyễn Khoan; Nguyễn Thủ Tiệp giết Dương Huy chiếm Vũ Ninh và tự xưng là Vũ Ninh vương.[9]

Năm 967, Sứ quân Trần Lãm mất, Sứ quân Ngô Nhật Khánh từ Đường Lâm, Đỗ Động Giang tập hợp 500 con em Ngô Tiên chúa đánh Bố Hải Khẩu, khi đến đất Ô Man thì bị Ngô phó sứ chặn đánh phải bỏ về.[10] Đinh Bộ Lĩnh liền cất quân đi đánh, không bộ lạc nào ở đó không hàng phục. Các sứ quân Phạm Bạch Hổ, Ngô Nhật Khánh, Ngô Xương Xí đem quân về hàng, lực lượng họ Đinh ngày càng lớn mạnh. Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp các sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Nguyễn Khoan, Kiều Công Hãn, Kiều Thuận.

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh tiếp tục đánh dẹp các sứ quân Lý Khuê, Lã Đường và thống nhất Tĩnh Hải quân, lên ngôi Hoàng đế ở kinh đô Hoa Lư, chính thức lập ra triều đại nhà Đinh trong lịch sử Việt Nam.

Đến năm 966, hình thành đầy đủ 12 sứ quân chiếm giữ các địa phương:

  1. Ngô Xương Xí, tức Ngô Sứ quân giữ Bình Kiều [Triệu Sơn – Thanh Hóa].[11]
  2. Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm [Sơn Tây, Hà Nội].
  3. Đỗ Cảnh Thạc tự xưng là Đỗ Cảnh Công, giữ Đỗ Động Giang [Thanh Oai, Hà Nội].
  4. Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu [Hưng Yên].
  5. Kiều Công Hãn tự xưng Kiều Tam Chế, giữ Phong Châu – Bạch Hạc [Việt Trì-Lâm Thao, Phú Thọ].
  6. Kiều Thuận tự xưng là Kiều Lệnh Công, giữ Hồi Hồ – Cẩm Khê [Phú Thọ].
  7. Nguyễn Khoan tự xưng Nguyễn Thái Bình, giữ Tam Đái [Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc].
  8. Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt [Thanh Trì, Hà Nội].
  9. Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công, giữ Tiên Du [Bắc Ninh].
  10. Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng Công, giữ Siêu Loại [Thuận Thành, Bắc Ninh].
  11. Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải Khẩu – Kỳ Bố [Thái Bình].
  12. Lã Đường tự xưng là Lã Tá Công, giữ Tế Giang [Văn Giang, Hưng Yên].

Theo Việt sử kỷ yếu: “Từ khi Dương Tam Kha chiếm vị xưng vương, lòng người không phục. Các thổ hào có quân đội hùng cứ mỗi người một phương, chiếm giữ quận ấp, xung đột tranh giành ảnh hưởng, tiêu diệt lẫn nhau. Một nước phân liệt chia thành nhiều giang sơn. Quốc sử chép là Thập nhị sứ quân. Con số 12 đây là không kể các tù trưởng miền rừng núi và mấy thố hào ít nổi tiếng”.[12]

Có ý kiến cho rằng số sứ quân trên mang tính ước lượng cho phù hợp với con số 12 châu Tĩnh Hải quân vì theo các tài liệu lịch sử và thần tích còn lưu lại, một số nhân vật tương tự nhưng không được kê vào danh sách sứ quân trên. Điển hình như cuốn Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đảo [Trung Hoa] ghi:

Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Ngô Xương Văn chết, tham mưu của Văn là Ngô Xử Bình, cùng Phong Châu Thứ sử Kiều Tri Hựu, Vũ Ninh châu Thứ sử Dương Huy, Nha tướng Đỗ Cảnh Thạc, bọn ấy cùng tranh lập. Mười hai châu của Giao Chỉ đại loạn, trộm cướp cùng dấy.

Có thể trong số các nhân vật: Lã Xử Bình, Dương Huy,… hoặc không có thực ấp, không phải là thổ hào, thứ sử hoặc đã chết tại thời cực thịnh của 12 sứ quân.

Theo cuốn “Gốc và Nghĩa từ Việt thông dụng” của Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin năm 1998 thì từ “Sứ quân” được dịch là “Vua cai trị” [sứ: cai trị, quân: vua]. Ở Trung Hoa, Sứ quân còn là cách gọi tôn xưng dành cho người nắm giữ chức đầu của một châu mục nào đó, tức Thứ sử [Theo định nghĩa của từ điển Từ nguyên].[13] Cách gọi này được dùng trong các văn bản từ đời Hán cho đến đời Thanh.

Trong các sứ quân trên:

  • Ngô Xương Xí và Ngô Nhật Khánh là quý tộc nhà Ngô; Phạm Bạch Hổ, Đỗ Cảnh Thạc, Kiều Công Hãn là tướng nhà Ngô; các sứ quân còn lại được xác định là các thủ lĩnh địa phương.[14].
  • 5 trong số 12 thủ lĩnh cát cứ có gốc là người Hoa: Đỗ Cảnh Thạc gốc người Quảng Lăng ở tỉnh Giang Tô, Trần Lãm là người gốc Quảng Đông; Nguyễn Khoan, Nguyễn Siêu, Nguyễn Thủ Tiệp là 3 anh em gốc người Phúc Kiến.[15]±
  • Kiều Công Hãn, Kiều Thuận là 2 anh em, cháu nội Kiều Công Tiễn.
  • Lực lượng Sứ quân Trần Lãm sau khi sứ tướng mất hợp nhất về với Sứ quân Đinh Bộ Lĩnh.

Các sứ quân thường được mô tả thân hình dũng mãnh, khí phách anh hùng như: Phạm Bạch Hổ có thân hình vạm vỡ, mạnh mẽ như hổ, thông minh hơn người, văn võ song toàn; Đỗ Cảnh Thạc bị bọn cướp xẻo mất một bên tai, lòng căm thù sôi sục, quyết tìm thầy học võ; Nguyễn Thủ Tiệp mình dài tiếng to, ai nghe thấy tiếng nói cũng phải giật mình, người ta gọi là ông Sấm;[16]; Kiều Thuận khi sinh ra có ánh sáng lạ tràn ngập khắp ngôi nhà; Nguyễn Siêu chết trôi sông 3 tháng không nát, nước da vẫn tươi nguyên…

Cuốn chính sử Việt Nam “Lịch triều hiến chương loại chí” trang trọng xếp 12 sứ quân vào danh sách dòng chính thống các bậc đế vương. Trong số các sứ quân cai trị ở vùng chiếm đóng, nhiều người đã xưng Vương hoặc được tôn xưng là Vương như:

  • Ngô Xương Xí, hiệu Ngô Sứ quân [吳使君], là hậu duệ nhà Ngô, từng làm Vương nhưng trong danh sách những vị Quân chủ Việt Nam thì ông không được thừa nhận.[17].
  • Nguyễn Thủ Tiệp, vốn xưng Lệnh Công [令公], sau xưng Vũ Ninh vương [武宁王], giống tên hiệu một vị vua thời Tam Quốc Triều Tiên.
  • Ngô Nhật Khánh, vốn xưng Lãm Công [覽公], sau xưng An vương [安王].[18]
  • Nguyễn Khoan, xưng làm Thái Bình [太平], sau xưng Quảng Trí quân [瀇智君], tức một vị Quân vương có đức lớn tài cao, rộng hiểu biết và đầy tình bác ái, biết canh tân mỹ tục.[19].
  • Phạm Bạch Hổ, được người dân một số vùng tôn sùng như một vị Vương. Các đền thờ của ông ở Hưng Yên và Nam Định đều được gọi là đền Vua Mây và có bức đại tự ở chính cung tôn vinh 4 chữ: “Thái Bình vương phủ” [太平王府].
  • Trần Lãm được người dân lập đền thờ ở nhiều nơi trong đó thành phố Thái Bình có di tích Miếu Vua Lãm.
  • Kiều Thuận, cũng được hậu thế tôn vinh như là một vị Vương. Trong ngôi đền Trù Mật, trên long ngai thờ Kiều Thuận có bốn chữ vàng “Quang Hiển quốc vương” [光顯國王].[20]
  • Kiều Công Hãn được gọi là Long Kiều vương [隆橋王], Đỗ Cảnh Thạc là Độc Nhĩ Đại vương [獨耳大王]. Đây là 2 sứ quân trực tiếp giành ngôi Vương ở triều đình Cổ Loa khi Nam Tấn vương Ngô Xương Văn mất[21].
TT Sứ quân Nơi đóng quân Sự nghiệp Ghi chú
1 Trần Lãm
Trần Minh Công
Bố Hải Khẩu
Thái Bình
Trần Lãm [?-967] là người gốc Hoa, sau trở thành một sứ quân mạnh trấn giữ vùng cửa biển sông Hồng, có tiềm lực về kinh tế dựa vào lợi thế của nghề đánh cá biển.[22] Lực lượng của Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu có sự liên kết, phối hợp với Đinh Bộ Lĩnh. Khi Trần Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh hợp nhất lực lượng Bố Hải Khẩu về Hoa Lư để đánh dẹp các sứ quân khác.
2 Ngô Xương Xí
Ngô Sứ quân
Bình Kiều
Thanh Hóa
Ngô Xương Xí vốn là dòng dõi nhà Ngô. Khi Ngô Xương Văn mất, các tướng Lã Xử Bình, Kiều Tri Hựu, Đỗ Cảnh Thạc, Dương Huy tranh nhau làm vua. Ngô Xương Xí phải rời bỏ Kinh đô về chiếm vùng núi Bình Kiều, Thanh Hóa, trở thành một sứ quân. Ngô Sứ quân chiếm đóng và xây dựng thành Bình Kiều. Sau ông cùng với Phạm Bạch Hổ và Ngô Nhật Khánh hàng phục nhà Đinh.
3 Đỗ Cảnh Thạc
Đỗ Cảnh Công
Đỗ Động Giang
Hà Nội
Đỗ Cảnh Thạc [912-967] vốn người gốc Trung Hoa. Ông từng là tướng nhà Ngô rồi Dương Tam Kha. Tham gia tranh ngôi vua khi Ngô Xương Văn mất. Đỗ Cảnh Thạc lập hành cung có cung thành chắc chắn và hào sâu bao quanh, gồm 72 trại sở, tu tạo thuyền chiến, tích trữ lương thảo, binh sĩ và trở thành một sứ quân rất mạnh ở vùng Đỗ Động Giang. Lực lượng của ông giao tranh hơn một năm với lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh rồi bị giết năm 967.
4 Phạm Bạch Hổ
Phạm Phòng Át
Đằng Châu
Hưng Yên
Phạm Bạch Hổ [910 – 972] vốn là tướng nhà Ngô, trấn giữ Hải Đông [vùng Quảng Ninh, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên ngày nay]. Khi nhà Ngô mất, ông trở thành một sứ quân mạnh, được tôn xưng là Vua Mây. Sau một số lần giao tranh, ông hàng phục nhà Đinh. Hiện được nhiều nơi ở vùng châu thổ sông Hồng lập đền thờ.
5 Kiều Công Hãn
Kiều Tam Chế
Phong Châu
Phú Thọ
Kiều Công Hãn [?-[[967] vốn là tướng nhà Ngô. Giữ chức Thứ sử Phong Châu, từng tham gia tranh ngôi vua khi Ngô Xương Văn mất và trở thành một trong 12 sứ quân chiếm giữ 3 châu Hào, Thái, Phong. Kiều Tam Chế cho xây thành Tam Giang rồi thành Phù Lập ở Phong Châu và mở rộng căn cứ chiếm đóng. Năm 967 khi giao chiến với quân Hoa Lư, trên đường tháo chạy bị một hào trưởng là Nguyễn Tấn chặn đón chém chết ở khu vực đền Gin, Nam Định ngày nay.
6 Nguyễn Khoan Nguyễn Thái Bình

Quảng Trí Quân

Tam Đái
Vĩnh Phúc
Nguyễn Khoan [906 – 967] vốn là con của một vị tướng Trung Hoa, có công chiêu mộ và huấn luyện dân binh vùng chiếm đóng để xây dựng lực lượng và phát triển kinh tế. Nguyễn Khoan là sứ quân rất mạnh, được dân bản xứ tôn xưng là Quảng Trí Quân, cai trị triều đình nhỏ ở Tam Đái. Sau ông bị lực lượng Hoa Lư tấn công, chống không nổi và bị giết.
7 Ngô Nhật Khánh Ngô Lãm Công

An Vương

Đường Lâm
Hà Nội
Ngô Nhật Khánh [?-979] vốn là dòng dõi hoàng thân nhà Ngô. Sau cũng trở thành sứ quân mạnh chiếm đóng ở quê hương Đường Lâm. Khi Ngô Xương Xí nối ngôi, Ngô Nhật Khánh cũng kéo quân từ Đường Lâm về Cổ Loa tranh giành[23], tự xưng An Vương. Giữ Đường Lâm, mở rộng địa bàn sang Cổ Loa và Đỗ Động Giang, Bố Hải Khẩu… Sau hàng phục nhà Đinh, trở thành phò mã. Khi vua Đinh mất, Nhật Khánh chạy sang Chiêm Thành đem quân tấn công Hoa Lư bị bão dìm chết năm 979 ở cửa Thần Phù.
8 Nguyễn Siêu
Nguyễn Hữu Công
Tây Phù Liệt
Hà Nội
Nguyễn Siêu [924-967] cùng với 2 sứ quân khác là con của một vị tướng Trung Hoa. Khi giàu mạnh, Nguyễn Siêu nuôi dưỡng môn đệ trên 8.000 người, binh mã có trên 10 vạn, không ngừng thu phục anh hào, thế lực ngày càng lớn. Nguyễn Siêu trở thành một sứ quân rất mạnh có thành hào vững chắc. Lực lượng của ông bị đánh bại sau lần tấn công thứ hai của Đinh Bộ Lĩnh.
9 Kiều Thuận
Kiều Lệnh Công
Hồi Hồ
Phú Thọ
Kiều Thuận [?-?] thuộc lực lượng của Kiều Công Tiễn. Gia tộc họ Kiều của ông vốn là một thế lực lớn ở Phong Châu. Ông xây dựng căn cứ Tam Thành, xây thành Hưng Hóa, mở rộng sự liên kết với các hào trưởng, tộc trưởng miền núi. Kiều Thuận trở thành một sứ quân mạnh, có địa bàn rộng lớn và vững chắc ở xa các sứ quân khác. Sau ông bị lực lượng Hoa Lư tấn công, chống không nổi và bị giết.
10 Nguyễn Thủ Tiệp Nguyễn Lệnh Công

Vũ Ninh Vương

Tiên Du
Bắc Ninh
Nguyễn Thủ Tiệp [908-967] là con của một vị tướng Trung Hoa. Ông kế thừa sự nghiệp của cha với nhiều của cải. Ông trở thành một sứ quân mạnh. Sau mở rộng thực ấp, lấy cả châu Vũ Ninh. Ông tự xưng là Vũ Ninh vương. Khi bị quân Hoa Lư tấn công ông tháo chạy về Cần Hải [Nghệ An] giao tranh vài trận rồi chết ở đó.
11 Lý Khuê
Lý Lãng Công
Siêu Loại
Bắc Ninh
Lý Khuê [?-968] là một thổ hào địa phương, sau trở thành một sứ quân trong thời loạn 12 sứ quân. Ông vốn là một hào trưởng, chiếm đóng tại vùng Siêu Loại giáp ranh Bắc Ninh và Hưng Yên ngày nay. Năm 968 ông bị tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan.
12 Lã Đường
Lã Tá Công
Tế Giang
Hưng Yên
Lã Đường vốn là một thổ hào địa phương ở vùng Tế Giang. Khi nhà Ngô suy yếu, Lã Đường tự chiêu mộ và xây dựng lực lượng cát cứ, dựa vào địa thế hiểm yếu bùn lầy, lau sậy để cố thủ. Sau ông bị lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh tấn công, chống không nổi và bị giết.

Các thế lực khác mặc dù bản chất cũng là các sứ quân [là hào trưởng, có thực ấp và quân lính] nhưng do theo về với Đinh Bộ Lĩnh nên không được nhắc tới trong chính sử như sau:

TT Thổ hào Nơi đóng quân Sự nghiệp Ghi chú
1 Nguyễn Tấn Trại Âu Hóa
Nam Định
An Lá xưa vốn là vùng đất hoang hóa, người dân ở trại Âu Hóa [nay là vùng Xích Thổ, Ninh Bình] theo Nguyễn Tấn về đây lập ấp nên cũng đặt tên là trại Âu Hóa. Năm 966, đất nước xảy ra loạn 12 sứ quân, Nguyễn Tấn đứng ra chiêu dân, luyện tập võ nghệ. Năm 967, sứ quân Kiều Công Hãn bại trận từ Phong Châu chạy qua vùng Âu Hóa thì bị Nguyễn Tấn đem quân ra đánh, chém vào cổ, bỏ chạy đến làng Din thì chết. Từ đây, Nguyễn Tấn hết lòng giúp sức cho Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước.
2 Phạm Đông Nga Làng Mậu Hòa Hoài Đức

Hà Nội

Ông có công tập hợp dân chúng khởi dựng làng Mậu Hòa do đó mà dân làng lập đền thờ ông tại đền Mậu Hòa nằm ven bờ đê sông Đáy, thuộc xã Minh Khai, huyện Hoài Đức – Hà Nội. Khi có loạn 12 sứ quân ông đã đem quân theo Đinh Bộ Lĩnh và trở thành tướng tài, được phong Tổng đốc đại vương.
3 Phạm Hán,
Phạm Phổ
Mai Khu
Hà Nam
Hai anh em Phạm Hán và Phạm Phổ gặp lúc có loạn 12 sứ quân, bèn kết giao hào kiệt bốn phương, chiêu mộ trai tráng thiết lập đồn lũy trên đất Mai Khu và đánh nhau với sứ quân Phạm Phòng Át và Ngô Nam vài mươi trận; hai ông giữ phần thắng, thanh thế vang dậy. Sau Phạm Hán được phong An định công, Phạm Phổ được phong Thống lĩnh công, được ân lộc nghìn hộ.
4 Phạm Hạp
Phạm Cự Lượng
Trà Hương
Hải Dương
Hai anh em ông thuộc thế lực hào trưởng họ Phạm ở Trà Hương. Phạm Hạp cùng với em trai Phạm Cự Lượng đã tập hợp hơn 2000 người, ngựa từ quê đến Hoa Lư phò Đinh Bộ Lĩnh tham gia dẹp loạn 12 sứ quân. Theo thần tích đình Hướng Nghĩa, xã Minh Thuận, Vụ Bản, Nam Định thì Phạm Hạp chính là người đánh bại và chém chết sứ quân Nguyễn Khoan ở Tam Đái. Sau ông làm quan nhà Đinh. Khi Vua Đinh mất, lo sợ Lê Hoàn cướp ngôi Vua, ông cùng các quan đại thần nổi dậy chống cự và bị Lê Hoàn giết. Hai anh em ông được liệt vào danh sách “Giao châu thất hùng”,tức 7 anh hùng Giao Châu thời bấy giờ.
5 Nguyễn Phúc Thời Trại Khả Khu
Thái Bình
Gặp thời 12 sứ quân, Nguyễn Phúc đã chiêu binh, xây dựng lực lượng, sắm sửa vũ khí thành lập một căn cứ riêng ở Khả Khu, xung quanh làng đào hào đắp luỹ, lập lên bốn điếm canh giữ bốn góc làng. Từ đó Nguyễn Phúc có đủ điều kiện, uy quyền để cát cứ một vùng riêng, một giang san riêng giữa vùng đất Đằng Châu [tỉnh Thái Bình]. Sau ông hàng phục Đinh Bộ Lĩnh, được phong làm quan.[24]
6 Lê Lương Ái Châu
Thanh Hóa
Lê Lương là một hào trưởng Ái Châu thời 12 sứ quân. Sau Đinh Tiên Hoàng lên ngôi phong hào trưởng Lê Lương, cai quản cả một vùng đất nằm trong phạm vi “đông đến Phân Dịch, nam đến Vũ Long, tây đến đỉnh núi MaLa, bắc đến lèn Kim Cốc” [gồm ba huyện Đông Sơn, Thiệu Hóa, Quảng Xương – Thanh Hóa ngày nay] và cho con cháu Lê Lương đời đời được làm quan coi đất ấy.[25]
7 Lê Chương,
Lê Du
Làng Kho Nho Quan

Ninh Bình

Khi có loạn 12 sứ quân, Lê Chương và em trai Lê Du cùng tập hợp 2000 quân sĩ chia quân đóng 2 đồn. Đồn Thượng phía Đông do Lê Du chỉ huy, tự xưng là Thanh Y đại tướng quân. Đồn Hạ phía Tây do Lê Chương chỉ huy, tự xưng là Hiển Quang đại tướng quân. Sau 2 ông theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp các sứ quân và được giao cai quản vị trí cũ.
8 Đinh Nga Kim Bảng
Hà Nam
Đinh Nga tập hợp trai tráng quanh vùng với những người tài giỏi như Đinh Thiết, Đinh Ngân, Phạm Đức, Trần Huy, Đinh Mỹ. Họ đã giúp ông huấn luyện binh sĩ, xây dựng căn cứ. Đinh Nga sau theo về ủng hộ Đinh Bộ Lĩnh, ông từng đem quân đến giải vây cho Đinh Bộ Lĩnh và thừa thắng tấn công tiêu diệt Đỗ Cảnh Thạc tại Đỗ Động Giang. Đinh Bộ Lĩnh lên làm vua đã ban thưởng cho Đinh Nga chức Tướng quân Chỉ huy sứ và cử về trấn trị tại địa bàn cũ, được hưởng lộc ấp ở huyện Cổ Bảng.[26]
9 Đào Ngọc Sâm Gia Lộc
Hải Dương
Đào Ngọc Sâm sau khi rời quê hương đến vùng Hải Dương đã chiêu mộ dân binh được hơn 2000 người luyện tập binh pháp, sau có công giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp 2 sứ quân nhà Ngô và giúp Lê Hoàn đánh giặc Tống.[27]
10 Cao Điền Công,
Cao Đỗ Công
Gia Lâm
Hà Nội
Cao Điền Công và em trai Cao Đỗ Công là những nhân vật lịch sử dưới thời 12 sứ quân. Đỗ Công và Điền Công đã lập doanh cư thực ấp tại Kim Sơn, Gia Lâm, Hà Nội ngày nay. Sau 2 ông hàng phục nhà Đinh và tiếp tục đánh dẹp các sứ quân khác.[28]
11 Bạch Tượng,
Bạch Địa
Ứng Hòa
Hà Nội
Bạch Tượng cùng Bạch Địa là con trai gia đình tộc trưởng Bạch Lân ở Hoan Châu. Khi đất nước lâm vào cảnh 12 sứ quân cát cứ. Hai anh em Bạch Tượng và con bà dì là Đô Đài bèn đến phủ Ứng Thiên tụ tập dân chúng lập nên trang Nguyễn Xá sau ông theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp sứ quân ở Sơn Tây và trở thành tướng nhà Đinh, được Vua Đinh Tiên Hoàng tiếp tục ban thực ấp ở Động Phí ngày nay.[29]
12 Đặng Sỹ Nghị, Đặng Sỹ Phan,

Đặng Sỹ Lẫm

Kim Thành – Hải Dương Đặng Sỹ Nghị là người văn võ tinh thông, khi Đinh Bộ Lĩnh tuyển quân đánh dẹp loạn 12 sứ quân, ông chiêu mộ binh lính, gia thần, sỹ tử được hơn 6.000 người dẫn đến ứng tuyển và được Đinh Bộ Lĩnh phong làm ” Đặng Sỹ thống lãnh đại tướng quân”; Khi lên ngôi Đinh Tiên Hoàng Đế phong ông làm “Lễ Bộ Tả thị lang” rồi trấn thủ Hoan Châu. Đền Phú Mỹ Xuân Hoa thuộc thôn Phú Nội, xã Bình Dân thờ Đặng Sỹ Nghị cùng với 2 thuộc tướng của ông là Đặng Sỹ Phan và Đặng Sỹ Lẫm.[30]
13 Võ Trung Kim Động – Hưng Yên Võ Trung chiêu mộ được 10.000 quân tinh nhuệ ở Hưng Yên, sau ông đưa toàn bộ quân binh gia nhập lực lượng Hoa Lư giúp Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân. Võ Trung đã giúp Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp các sứ quân Lã Xử Bình, Ngô Xương Xí. Đinh Tiên Hoàng phong Võ Trung lần lượt giữ chức Tham nghị triều chính, Binh bộ thượng thư, đốc trấn châu Hoan, tổng trấn Hải Dương. [31]

Có thể bạn quan tâm  Catechin là gì? Chi tiết về Catechin mới nhất 2021

Ngoài trừ vị trí Bình Kiều của Ngô Xương Xí và Hồi Hồ của Kiều Thuận thuộc vùng núi, nhà nghiên cứu Lê Văn Siêu chỉ ra rằng hầu hết lãnh địa của các sứ quân đều dọc theo sông Hồng và sông Đuống, nơi có ruộng đất phì nhiêu, dân cư đông đúc và thuận tiện giao thông đường thủy[32]. Lê Văn Siêu cho rằng loạn 12 sứ quân trong đó nhiều sứ quân nổi dậy không hẳn vì lý do tranh bá đồ vương mà có thể vì lý do kinh tế[33]; Đại Việt sử ký toàn thư ghi về sự kiện này:

Nam Tấn Vương mất, các hùng trưởng đua nhau nổi dậy chiếm cứ quận ấp để tự giữ.[34]

Có tới 5 sứ quân vốn là người gốc Hoa ở phương Bắc chạy loạn về phía nam để thử thời vận và không được sự hậu thuẫn nào từ chính quốc. Các sứ quân này cũng như các sứ quân người Việt khác, không chủ trương mở đất làm rộng căn cứ mà chỉ cố thủ ở nơi hiểm yếu để chờ biến cố từ phương Bắc[35]. Ông cho rằng chỉ có hai sứ quân họ Ngô thực sự có ý đồ khôi phục nhưng lực lượng nhỏ yếu không đủ để thống nhất[36].

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Sơn cho rằng loạn sứ quân không phải một ngày mà có. Trong thời họ Khúc, họ Dương và họ Ngô cầm quyền, các thế lực phong kiến cát cứ không dám cựa quậy, vì các vị lãnh đạo quốc gia bấy giờ được nhân dân hoàn toàn cảm phục. Họ Khúc nổi tiếng về đức độ và lòng ái quốc. Họ Dương, họ Ngô là những anh hùng giải phóng dân tộc. Dân chúng đâu có chịu vì những kẻ mưu đồ quyền lợi riêng tư để chống lại với các thủ lĩnh uy danh sáng ngời đó. Nhưng khi Ngô Quyền qua đời, Dương Tam Kha phụ lời ủy ký, mối biến loạn đã có sẵn nay mới có cơ hội để bột phát.[37]

Giáo sư Trần Quốc Vượng coi thời kỳ loạn 12 sứ quân như là “Sự hoài cổ tiền Bắc thuộc“.[38] Theo Giáo sư, thế kỷ X là một sự đảo lộn chính trị, nhưng khuynh hướng chính là tiến bộ, tiến tới nền tự chủ của nước nhà. Nhiều sử sách Trung Hoa đã nói: “Dân Việt rất khó cai trị, rất thích làm loạn”. Chính quyền trung ương quân chủ nhà Đường suy yếu và chết hẳn vào năm 907 để Trung Hoa mở ra cục diện “Ngũ đại Thập quốc” kéo dài hơn nửa thế kỷ. Đấy là thời cơ thuận tiện để dân Việt nổi dậy dành chính quyền tự chủ mà khởi đầu là họ Khúc ở Hồng Châu vốn là một hào trưởng địa phương. Lợi dụng sự trống chỗ của Tiết độ sứ cai quản An Nam, Khúc Thừa Dụ đã nổi dậy kéo quân về Đô hộ phủ và tự xưng Tiết độ sứ năm 905. Khúc Thừa Dụ mất năm 907, con ông là Khúc Hạo chỉ để tang cha có 7 ngày đã bắt tay cầm quyền trị nước, cải cách hành chính, giảm tô thuế để sinh lợi cho dân. Nhưng đến Khúc Thừa Mỹ hèn yếu, bất lực và thần phục nhà Hậu Lương là một trong ngũ đại ở Trung Hoa, Khúc Thừa Mỹ đã đi bước lùi của lịch sử vì đã có Đại La [Hà Nội] vẫn không khống chế nổi các hào trưởng địa phương, phải cầu viện ngoại viện nhà Lương. Quân Nam Hán tiến sang, bắt Khúc Thừa Mỹ và đem về Quảng Châu. Nhưng lại có hào trưởng ở Ái Châu là Dương Đình Nghệ diệt tướng Nam Hán, xưng Tiết độ sứ. Hào trưởng Châu Phong là một thế lực lớn ngoại biên gần châu thổ sông Hồng đã kéo quân giết Dương Đình Nghệ. Ngô Quyền – là con rể Dương Đình Nghệ – đã kết liễu Kiều Công Tiễn rồi dẹp giặc bên Nam Hán ở sông Bạch Đằng, dựng lại quyền tự chủ. Sử cũ ghi chép chuyện đánh lẫn nhau rồi bên yếu cầu ngoại viện. Thực chất của cuộc nội chiến này là sự đấu tranh giành quyền lực tối cao trên đất Việt của các thủ lĩnh địa phương. Chính quyền quân chủ Trung ương nhà Đường suy tàn rồi biến mất tạo ra một khoảng trống quyền lực ở đất Việt [An Nam đô hộ phủ], một cái “hẫng hụt trung ương” mà nhiều hào trưởng địa phương có tham vọng điền vào chỗ trống ấy.

Do vậy thời kỳ “Thập nhị sứ tướng quân” không chỉ như là một cuộc loạn sau thời Ngô Quyền mất. Cái “loạn” ấy có mầm mống ngay sau năm 905, hay còn từ trước đó nữa vì trong số 12 sứ quân mà sử cũ chép theo nhau có đến 2 ông sứ quân họ Kiều là cháu nội của Kiều Công Tiễn ở Phong Châu, 2 ông sứ quân họ Ngô thuộc dòng dõi Ngô Quyền, 3 ông họ Nguyễn là con của tướng Bắc triều và ông sứ quân họ Đỗ – Đỗ Cảnh Thạc mà từ đời Đỗ Viện – Đỗ Tuệ Độ thế kỷ thứ IV đã là một thế lực lớn ở Đỗ Động Giang [Thanh Oai – Hà Nội]…

Loạn 12 sứ quân dẫn đến tình trạng xóa bỏ chính quyền Trung ương, xu hướng chia cắt phân tán lực lượng tạo điều kiện thuận lợi cho các thế lực xâm lược mà trực tiếp là cường quyền Trung Hoa thâu tóm và khôi phục lại ách đô hộ cũ. Cuốn “Lịch sử Việt Nam” của Ủy ban Khoa học xã hội năm 1971 viết:

“Các thế lực phong kiến nổi dậy, mỗi người hùng cứ một phương và tranh giành nhau quyết liệt… thôn tính lẫn nhau. Loạn 12 sứ quân đã gây ra biết bao tổn thất, đau khổ cho nhân dân và đi ngược lại nguyện vọng hòa bình, thống nhất của dân tộc“.

Việc vua Đinh Tiên Hoàng khôn khéo kết hợp dùng võ công và biện pháp chiêu hàng các sứ quân để sớm chấm dứt loạn 12 sứ quân là rất kịp thời, vì không lâu sau đó nhà Tống duỗi tới Quảng Châu, diệt nước Nam Hán [971], áp sát biên giới Đại Cồ Việt. Nếu không có sự xuất hiện của Đinh Bộ Lĩnh để thống nhất quốc gia bị chia sẻ tan nát thì Việt Nam khó thoát khỏi họa xâm lăng từ phương Bắc tái diễn khi nhà Tống hoàn thành việc thống nhất Trung Hoa.

Tượng đài Đinh Tiên Hoàng Đế ở thành phố Ninh Bình.

Đinh Bộ Lĩnh là con Đinh Công Trứ làm quan Thứ sử ở Hoan Châu. Cha mất sớm, ông theo mẹ về quê sinh sống nương nhờ người chú ruột. Lớn lên, Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở vùng Hoa Lư chờ thời cơ đến. Đầu tiên ông mở rộng căn cứ của mình từ vùng rừng núi Hoa Lư ra vùng đồng bằng ven biển sông Hồng bằng cách cùng con trai là Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của Sứ quân Trần Minh Công, tức Trần Lãm, ở Bố Hải Khẩu [Thái Bình]. Sau đó ông được Trần Minh Công trao binh quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.

Cuộc chiến thắng của họ Đinh thật vang dội và đã quyết định tình thế thời bấy giờ vì những hào kiệt của Giao Châu hầu hết đều có mặt dưới cờ của Đinh Bộ Lĩnh [Giao Châu thất hùng gồm: Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, Phạm Cự Lạng]. Sau những chiến công oanh liệt liên tiếp ông được dân chúng tôn làm Vạn Thắng Vương.[39]

Trong nhiều trường hợp, hoàn cảnh, tùy vào thực trạng mỗi sứ quân mà Đinh Bộ Lĩnh tìm cách đánh thích hợp, hoặc bằng quân sự, hoặc bằng liên kết, hay dùng mưu dụ hàng.

Năm 965, sau khi Ngô Xương Văn mất, các lực lượng của Lữ Xử Bình, Kiều Công Hãn, Đỗ Cảnh Thạc, Dương Huy cùng tranh lập ở triều đình Cổ Loa. Với sự trợ giúp của con trai Đinh Liễn trước đó từng bị hai vua Hậu Ngô vương bắt làm con tin, Đinh Bộ Lĩnh chính thức khởi đầu chiến dịch đánh dẹp của mình. Năm 966, phe Lã Xử Bình bị tiêu diệt, Đinh Bộ Lĩnh kiểm soát được Cổ Loa và đuổi các thế lực tranh lập khác khỏi kinh đô.

Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc là một sứ quân rất mạnh, có thành cao hào sâu. Theo thần phả, Đỗ Cảnh Thạc là người trí dũng mưu lược, Đinh Bộ Lĩnh phải bàn mưu tính kế mà đánh. Ban đêm, Đinh Bộ Lĩnh cho quân bao vây 4 mặt thành và tiến đánh bất ngờ vào Trại Quyền. Bấy giờ Đỗ Cảnh Thạc đang ở đồn Bảo Đà, quân tướng không ứng cứu được nhau, bị mất cả thành lũy, đồn trại, lương thực bèn bỏ thành chạy. Hai bên giao tranh hơn một năm sau, Đinh Bộ Lĩnh hạ được thành. Đỗ Cảnh Thạc bị trúng tên chết.

Sứ quân Kiều Công Hãn đóng tại Phong Châu. Trước thế mạnh của Sứ quân Đinh Bộ Lĩnh, Kiều Công Hãn đem quân xuống phía nam để hợp sức với Ngô Xương Xí. Khi đến thôn Vạn Diệp [xã Nam Phong, Nam Trực, Nam Định] bị một hào trưởng địa phương là Nguyễn Tấn đem quân chặn đánh, Kiều Công Hãn bị thương chạy đến Lũng Kiều thì mất.[40]

Sứ quân Nguyễn Siêu chiếm Tây Phù Liệt [Thanh Trì, Hà Nội]. Được tin Đinh Bộ Lĩnh sắp đánh, Nguyễn Siêu đem 1 vạn quân đóng ở Thanh Đàm dùng Nguyễn Trí Khả làm tiên phong, Trần Côn làm tá dực, Nguyễn Hiền làm tổng quản các đạo quân, ngày đêm luyện tập, đào hào đắp lũy để phòng bị. Trong trận giao tranh đầu tiên Đinh Bộ Lĩnh bị mất 4 tướng là Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết và Cao Sơn. Lần thứ 2 Đinh Bộ Lĩnh bày binh bố trận giao chiến, Nguyễn Siêu chia một nửa quân ở lại giữ thành, một nửa cùng sứ tướng vượt sông Hồng tìm viện binh của các sứ tướng khác. Gần tới bờ bắc, gặp gió lớn, thuyền bị đắm. Đinh Bộ Lĩnh biết tin, bèn sai võ sĩ nửa đêm phóng lửa đốt doanh trại. Quân Nguyễn Siêu tan, Nguyễn Siêu tử trận.[41]

Sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du cũng không chống nổi Đinh Bộ Lĩnh, bỏ chạy về Cần Hải [Cửa Cồn, Quỳnh Lưu, Nghệ An] đánh nhau vài trận rồi chết ở trang Hương Ái.[42]

Cuối năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẫn quân lên vùng Tam Đái, Nguyễn Khoan chống không nổi, tử trận. Hai tướng và hai bà vợ của ông tự vẫn ở Ao Nâu, cạnh gò Đồng Đậu.

Sau khi Đinh Bộ Lĩnh tấn công thành Hồi Hồ, tướng quân Kiều Thuận chống không nổi đành vượt sông Hồng chạy sang thành Mè kết hợp với Ma Xuân Trường chống lại Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh đánh chiếm thành Mè, Kiều Thuận tử trận. Ma Xuân Trường chạy lên Yên Bái trốn thoát.[43][44]

Sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại đánh nhau với lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh bị thua chạy và mất ở làng Dương Xá [nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội].[45]

Đầu năm 968, sau khi chiếm lại vùng Bắc Ninh, vốn do các sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp và Lý Khuê cát cứ, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh chuyển quân về Siêu Loại, cho Đinh Liễn và Nguyễn Bặc đem ba ngàn quân tiến đánh quân Lã Đường. Lã Đường chủ trương tản quân, đóng giữ chỗ hiểm yếu. Khi quân Hoa Lư đi đông thì tránh mà đi lẻ là chặn đánh, diệt một vài lính, rồi lại bỏ chạy. Nguyễn Bặc bày kế cho quân Hoa Lư tập trung, tập kích quân lương tiếp vận của quân Lã Đường. Trong vòng 7 ngày, vòng đai phòng thủ bên ngoài của quân Lã Đường bị tiêu diệt hoàn toàn, Đinh Liễn, Nguyễn Bặc đánh sâu vào trung tâm, bắt được Lã Đường, chém chết, thu phục hoàn toàn đất Tế Giang.

Để thực hiện nhiệm vụ dẹp loạn và thống nhất đất nước, Đinh Bộ Lĩnh đã khôn khéo vận dụng kế sách chính trị kết hợp với quân sự. Khi lực lượng còn non yếu, ông đã liên kết với Sứ quân Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu [Kỳ Bố] [Thái Bình] rồi thu phục được Phạm Bạch Hổ ở Đằng Châu [Hưng Yên] về và phong làm Thân vệ Đại tướng quân.

Nhiều vị tướng nhà Đinh vốn là thổ hào địa phương, thực chất họ cũng có tiềm lực trở thành các sứ quân như: Võ Trung, Nguyễn Tấn, Phạm Đông Nga, Phạm Hán, Phạm Phổ, Phạm Hạp, Phạm Cự Lượng, Nguyễn Phúc Thời, Lê Lương, Lê Chương, Lê Du, Đinh Nga, Đào Ngọc Sâm, Cao Điền, Cao Đỗ, Bạch Tượng, Bạch Địa, Đào Lang, Lưu Quyền, Phạm Quảng, Lê Cát Bạo, Lý Mộc Trang, Đinh Hùng Lực, Nguyễn Ninh, Nguyễn Tĩnh, Trương Ma Ni, Lê Khai, Đặng Sỹ Nghị, Phùng Cường Bạo, Từ Hải cũng được Đinh Bộ Lĩnh thu phục và trở thành những công thần dẹp loạn.

Cuối cùng khi lực lượng đủ mạnh ông không tiêu diệt mà hàng phục Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm [Hà Nội], Ngô Xương Xí ở Bình Kiều [Thanh Hóa] vốn là những hậu duệ nhà Ngô để lấy lòng thiên hạ.

Các sứ quân chiếm đóng các vùng và lập căn cứ, xây thành lũy. Một vài thành lũy trong số đó còn tồn tại lâu dài về sau, thậm chí được sử dụng lại. Chẳng hạn như thành Đỗ Động của Đỗ Cảnh Thạc tại Thanh Oai sau này được quân Minh sử dụng trong cuộc chiến chống phong trào khởi nghĩa Lam Sơn vào cuối năm 1426[46]. Thành Tam Giang của Kiều Công Hãn sau được nhà Trần sử dụng làm căn cứ quân sự. Các tòa thành như thành Hồi Hồ, thành Bình Kiều hiện vẫn còn dấu tích.

Hiện nay, ở Nam Định, Thanh Hoá, Hà Nội… có rất nhiều di tích thờ Đinh Tiên Hoàng, các tướng lĩnh và cả các sứ quân. Trong số các vị tướng thời Đinh có rất nhiều vị đến đây từ các vùng đất khác nhau. Những dấu tích cho thấy ở đây chính là vùng chịu sự ảnh hưởng và địa bàn gây dựng lực lượng của nhiều sứ quân hay các vị “hùng trưởng” khác như Phạm Bạch Hổ, Kiều Công Hãn, Lã Đường, Ngô Nhật Khánh, Nguyễn Khoan, Trần Lãm… dần dần trở thành nơi hội tụ và đối đầu quyết liệt của hào kiệt bốn phương.[47]

Có thể bạn quan tâm  Trametes là gì? Chi tiết về Trametes mới nhất 2021

Trong danh sách thống kê có 267 vị tướng thời Đinh trong đó quê hương các tướng phân bố như sau: Ninh Bình 42 tướng, Hà Nội 43 tướng, Thái Bình 25 tướng, Thanh Hóa 20 tướng, Nam Định 21 tướng, Hải Dương 24 tướng, Bắc Ninh 16 tướng, Hà Nam 23 tướng, Hưng Yên 20 tướng, Hải Phòng 8 tướng, Vĩnh Phúc 2 tướng, Cao Bằng 2 tướng, Nghệ An 4 tướng, Bắc Giang 8 tướng, Phú Thọ 4 tướng, Trung Hoa 5 tướng.

Trong danh sách thống kê các di tích về thời Đinh, hiện có 500 di tích liên quan tới Vua Đinh và 267 vị tướng thời Đinh trong đó Hà Nội: 96 di tích, Nam Định 36 di tích, Ninh Bình gần 150 di tích, Thái Bình 46 di tích, Hưng Yên 29 di tích, Hải Dương 29 di tích, Hà Nam 28 di tích, Hải Phòng 8 di tích, Bắc Ninh 10 di tích, Nghệ An 13 di tích, Thanh Hóa 10 di tích, Phú Thọ 7 di tích, Bắc Giang 5 di tích, Vĩnh Phúc 6 di tích, Thái Nguyên 4 di tích. Các tỉnh khác cũng có di tích thời Đinh như Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, An Giang, Hòa Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Đăk Lắc, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu…

Nhiều di tích thờ các bộ tướng và sứ quân trở thành điểm đến nổi tiếng của các địa phương như:
Di tích lịch sử cấp Quốc gia: Đình Làng Phú Khê ở Hoằng Phú huyện Hoằng Hoá tỉnh Thanh Hoá; đình Bến ở Văn Giang và đền Mây ở thành phố Hưng Yên; đền Trù Mật ở thành phố Phú Thọ; đền Gin và đền Xám ở Nam Trực, Nam Định; đền Gia Loan ở Yên Lạc, Vĩnh Phúc; đình Đông Phù ở Thanh Trì, đình Yên Bình ở Gia Lâm, đình Cổ Hiền và đền Tam Xã ở Quốc Oai, Hà Nội; đình Ném Đoài ở thành phố Bắc Ninh; đình Bo ở thành phố Thái Bình, đền Khai Long ở Đô Lương, Nghệ An…

Xét trên lợi ích quốc gia, việc cát cứ của các sứ quân đi ngược lại nguyện vọng thống nhất của dân tộc. Nhưng có thể thấy trong bối cảnh đất nước rơi vào tình trạng vô chủ, việc các vị hào trưởng có thế lực quân sự mạnh, thiết lập chính quyền, duy trì trật tự tại địa phương để nhân dân có thể sống yên bình trong vùng đất của họ là điều cần thiết và thuận lòng dân, dù việc này không có tính toàn cục và chỉ diễn ra trong một thời đoạn ngắn, điều đó lý giải vì sao các sứ quân vẫn được nhân dân trong vùng chiếm đóng lập đền thờ cho dù số đền thờ này là quá ít ỏi so với số lượng đền thờ các trung thần nhà Đinh có công dẹp loạn. Sách “Việt Nam phong sử” bình rằng:

“Nói đến việc tranh nhau thì mười hai sứ quân chẳng tránh khỏi tội; nói về cuộc thống nhất thì mười hai sứ quân lại là có công vì lẽ nó tạo cơ hội cho Đinh Tiên Hoàng thống nhất được quốc gia mà không bị kẻ ngoài cướp đoạt,… người Nam làm vua nước Nam, chắc hẳn 12 Sứ quân có linh thiêng cũng ngậm cười ở nơi chín suối…”

Chiến tranh kết thúc năm 968. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu Đinh Tiên Hoàng, lập ra triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt. Thắng lợi của Đinh Bộ Lĩnh là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập trong nhân dân.

  • Tướng nhà Đinh
  • Nhà Ngô
  • Nhà Đinh
  • Đinh Tiên Hoàng
  • Đại Việt Sử ký Toàn thư.
  • Nguyễn Danh Phiệt [1990], Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội.
  • Lê Văn Siêu [2004], Việt Nam văn minh sử cương, Nhà Xuất bản Thanh niên.

  1. ^ Trương Đình Tưởng, sách Những nhân vật lịch sử thời Đinh Lê – Nhà Xuất bản VHDT trang 200.
  2. ^ Theo Thiên Nam ngữ lục, bản diễn Nôm bằng thơ lục bát về lịch sử Việt Nam thì khi giết Dương Đình Nghệ, Kiều Công Tiễn viện cớ rằng chính Đình Nghệ là người gây ra cái chết của Khúc Thừa Mỹ, chúa cũ của Tĩnh Hải quân, do đó Công Tiễn trả thù cho chủ nên mới giết Đình Nghệ.
  3. ^ Đặng Xuân Bảng, Việt sử cương mục tiết yếu, tr. 61. “Trước đây, người Thao Giang là Chu Thái quật cường không chịu phục. Vương đích thân đi đánh. Bắt Thái đem chém”.
  4. ^ Xem bài “Về quê hương của Ngô Quyền” – Trần Quốc Vượng – Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội, số 101, tháng 8/1967, tr. 60-62.
  5. ^ Nghiên cứu của PGS TS Lê Hồng Lý, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa trong cuốn “Lễ hội Việt Nam” – Nhà Xuất bản VHTT, trang 840.
  6. ^ Sách Thập quốc Xuân thu quyển 60 của Ngô Nhậm Thần đời Thanh ghi: “Ngô Xương Văn chết, Tham tá của Văn là Lã Xử Bình cùng với Thứ sử Phong Châu Kiều Tri Hựu tranh nhau gây loạn, Đinh Bộ Lĩnh dẫn con là Liễn đánh bại Xử Bình”.
  7. ^ Việt sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng [1828-1910] đời Nguyễn ghi: Bấy giờ, viên Tham tá của Ngô Xương Văn là Lữ Xử Bình tranh ngôi với Thứ sử Phong Châu là Kiều Tri Hựu. Bộ Lĩnh cùng con là Liễn đánh phá được. Liễn thừa thắng bức hàng Phạm Phòng Át, phá Đỗ Động [Đỗ Cảnh Thạc], đi tới đâu thắng tới đó, hiệu là Vạn Thắng Vương.
  8. ^ Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ khắc in năm 1800 ghi:
    [Xét Thập quốc thế gia Ngô Xương Văn mất ở Giao Châu, tướng tá của ông là Lã Xử Bình và Thứ sử Phong Châu là Kiều Tri Hựu tranh nhau lên thay. Giao Chỉ đại loạn, Đinh Liễn ở Giao Châu đánh tan hai người ấy, Xưởng giao cho Liễn làm Tiết độ Giao Châu… Bính Dần năm thứ 16 [966]… Bọn quan Tham mưu của Ngô vương là Ngô Xử Bình [một bản chép là Ứng Bình], Thứ sử Phong Châu là Kiều Tri Hựu, Thứ sử châu Vũ Ninh là Dương Huy, Nha tướng là Đỗ Cảnh Thạc tranh nhau lên ngôi. Trong nước khắp nơi nổi loạn, ai nấy đều chiếm cứ quận ấp, mưu thôn tính lẫn nhau].
  9. ^ Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình – Trương Đình Tưởng, Nhà Xuất bản Thế giới, tr. 36.
  10. ^ Sơ thảo: Bài sử khác cho Việt Nam
  11. ^ Có sách cho rằng Bình Kiều ở Khoái Châu, Hưng Yên. Phần lớn các tài liệu và ở đền Vua Đinh – Cố đô Hoa Lư có bản đồ chỉ ra Bình Kiều ở Thanh Hóa.
  12. ^ Xem cuốn “Việt sử kỷ yếu”, tác giả Trần Xuân Sinh, Nhà Xuất bản Hải Phòng, trang 77.
  13. ^ Từ nguyên, Thương vụ ấn thư quán, 1997, tr. 0111.
  14. ^ Nguyễn Danh Phiệt, sách đã dẫn, tr. 37.
  15. ^ Nguyễn Danh Phiệt, sách đã dẫn, tr. 29, 30, 33.
  16. ^ Theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, Nguyễn Thủ Tiệp còn một tên hiệu nữa là Ba An quân, mình dài tiếng to, ai nghe thấy tiếng nói cũng phải giật mình, người ta gọi là ông Sấm [Lôi Công]. Đến khi khởi binh, Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh công, đóng giữ huyện Tiên Du, sau lấy cả Vũ Ninh, tự xưng là Vũ Ninh vương, giống tên hiệu một vị vua trong thời kì Tam Quốc Triều Tiên.
  17. ^ “Những vị Quân chủ Việt Nam không được thừa nhận”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014.
  18. ^ Đại Việt sử ký toàn thư chép: Ngô Nhật Khánh là con cháu của Ngô Tiên chúa Quyền, trước xưng là An Vương, cùng 12 sứ quân mỗi người chiếm giữ một vùng.
  19. ^ Hào khí miền đất yên vui[liên kết hỏng]
  20. ^ “Lễ hội đền Trù Mật”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2015.
  21. ^ Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ khắc in năm 1800 ghi: Bính Dần năm thứ 16 [966]… Bọn quan Tham mưu của Ngô vương là Ngô Xử Bình, Thứ sử Phong Châu là Kiều Tri Hựu, Thứ sử châu Vũ Ninh là Dương Huy, Nha tướng là Đỗ Cảnh Thạc tranh nhau lên ngôi. Trong nước khắp nơi nổi loạn, ai nấy đều chiếm cứ quận ấp, mưu thôn tính lẫn nhau.
  22. ^ Thần tích đình Bo cho biết Bố Hải Khẩu là trung tâm của vùng đất phía nam sông Luộc, kéo dài xuống vùng ven biển Nam Định ngày nay. Trần Lãm theo cha là Trần Đức, vốn người Quảng Đông, đến cư ngụ và mở mang vùng đất ven biển thuận lợi cho nông, ngư nghiệp này. Từ Trần Đức đến Trần Lãm, dòng họ này đã trở thành một thế lực giàu có về tài sản, mạnh mẽ về nhân lực mà uy tín về danh tiếng vang dội từ những năm đất nước còn dưới quyền quản lý của vương triều Ngô. Chính vì vậy, cũng không đợi tới khi vương triều Ngô tan rã hoàn toàn vào năm 965, mà muộn nhất từ năm 951, trước khi đẩy lùi được cuộc tấn công của Xương Văn và Xương Ngập ở động Hoa Lư: “ Đinh Bộ Lĩnh cùng với con là Đinh Liễn đi theo Sứ quân Trần Minh Công [Trần Lãm]. Minh Công thấy Bộ Lĩnh là người khôi ngô khác thường, có độ lượng nên giao cho binh quyền”.
  23. ^ Căn cứ vào công bố của nhà nghiên cứu PGS. TS. Lê Hồng Lý, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa trong cuốn “Lễ hội Việt Nam” – Nhà Xuất bản VHTT, trang 840.
  24. ^ “Đình Khả”. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2015.
  25. ^ Thế kỷ X: Xây dựng và bảo vệ Quốc gia độc lập, Tự chủ và thống nhất thời Khúc – Ngô – Đinh – Tiền Lê
  26. ^ “Đền Ba Dân”. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2015.
  27. ^ “Miếu Rồng thờ Đào Ngọc Sâm”. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2015.
  28. ^ “ĐÌNH – NGHÈ KIM SƠN”. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2015.
  29. ^ Lịch sử vị thành hoàng làng Động Phí
  30. ^ Đền Phú Mỹ Xuân Hoa
  31. ^ Việt Nam kho tàng dã sử; Biên soạn: Vũ Ngọc Khánh – Phạm Minh Thảo Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin 2004
  32. ^ Lê Văn Siêu, sách đã dẫn, tr. 45.
  33. ^ Lê Văn Siêu, sách đã dẫn, tr. 46.
  34. ^ Đại Việt sử ký toàn thư quyển V
  35. ^ Lê Văn Siêu, sách đã dẫn, tr. 46-48.
  36. ^ Lê Văn Siêu, sách đã dẫn, tr. 47.
  37. ^ Xem Việt sử toàn thư, Phần 3 – Việt Nam trên đường độc lập – Chương 1.
  38. ^ Từ Hoa Lư đến Thăng Long, in trong Văn hóa Thăng Long – Hà Nội – Hội tụ và tỏa sáng, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia H.2002, trang 67-78.
  39. ^ Việt sử toàn thư, Phạm Văn Sơn, trang. 116.
  40. ^ Ngày nay cứ đến 10-3 âm lịch, nhân dân làng Gin lại đánh cá để tế, tưởng nhớ Kiều Công Hãn, trong khi nhân dân An Lá [đều ở Nam Trực, Nam Định] lại gói bánh để tế, tưởng nhớ chiến công của Nguyễn Tấn, nên dân gian có câu: “làng Gin đánh cá, làng Lá gói bánh”.
  41. ^ Nguyễn Danh Phiệt, sách đã dẫn, tr. 196.
  42. ^ Theo thần tích làng Tiên Xá, thành phố Bắc Ninh.
  43. ^ Ngày nay, thị xã Phú Thọ còn dấu tích thành Mè. Làng Trù Mật xã Văn Lung thị xã Phú Thọ có đền thờ Ma Xuân Trường và Kiều Thuận.
  44. ^ TRONG NỀN VĂN HÓA DÂN GIAN ĐẤT TỔ [Nguyễn Hữu Nhàn] Lưu trữ 2014-03-09 tại Wayback Machine, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Phú Thọ
  45. ^ Theo thần tích ở xã Bình Sơn [Thuận Thành, Bắc Ninh].
  46. ^ GS Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn xác định thành đất Thanh Oai nằm ở Bình Đà, huyện Thanh Oai, Hà Nội. Trong giai đoạn trước, dân vùng này nổi tiếng với nghề làm pháo. Nguồn: Khởi nghĩa Lam Sơn, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân, năm 2005.
  47. ^ Nam Định – Địa bàn trọng yếu trong sự nghiệp thống nhất đất nước của Đinh Bộ Lĩnh

  • Mười hai sứ quân tại Từ điển bách khoa Việt Nam

loạn 12 sứ quân loạn 12 sứ quân là thời kỳ như thế nào loạn 12 sứ quân là gì loạn 12 sứ quân là tình trạng 12 sứ quân loạn 12 sứ quân nghĩa là gì thế nào là loạn 12 sứ quân loạn 12 sứ quân là tình trạng gì 12 sứ quân là gì em hiểu thế nào là loạn 12 sứ quân tình trạng loạn “mười hai sứ quân” gây ra hậu quả gì? loạn 12 sứ quân diễn ra vào thời điểm nào dẹp loạn 12 sứ quân loạn 12 sứ quân là thời kì như thế nào 12 sứ quân là ai loạn 12 sứ quân là tình trạng của loạn 12 sứ quân là tình trạng loạn 12 sứ quân gây ra hậu quả gì loạn 12 sứ quân là j loạn 12 sứ quân diễn ra vào thời gian nào loạn 12 sứ quân” là thời kì như thế nào? loan 12 su quan đinh bộ lĩnh liên kết với sứ quân nào để dẹp loạn 12 sứ quân

lược đồ loạn 12 sứ quân

LADIGI – Công ty dịch vụ SEO TOP giá rẻ, SEO từ khóa, SEO tổng thể cam kết lên Top Google uy tín chuyên nghiệp, an toàn, hiệu quả.

Tôi là La Trọng Nhơn - người xây dựng nên LADIGI.VN, tôi có niềm đam mê với Digital Marketing. Tôi muốn xây dựng website này để chia sẻ đến những bạn gặp khó khăn khi bắt đầu vào nghề, có thể tiếp cận kiến thức đúng đắn và thực tế thông qua website này.

Vì tính chất bảo mật ĐƯỜNG LINK nên chúng tôi cần xác minh bằng CODE*

HƯỚNG DẪN LẤY CODE [CHỈ MẤT 10 GIÂY]

Bước 1: COPY từ khóa bên dưới [hoặc tự ghi nhớ] hộp xà phòng cảm ứng Bước 2: Vào google.com.vn và tìm từ khóa. Sau đó, nhấp vào kết quả này của trang này
Bước 3: Kéo xuống cuối trang bạn sẽ thấy nút LẤY CODE

===============================

NETFLIX có ưu điểm gì:

- Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu.

- Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.

- Cài trên điện thoại, máy tính, tablet, SmartTv, box đều xem được.

Video liên quan

Chủ Đề