Giai đoạn 1911 đến 1920, là giai đoạn quan trọng nhất vì sao

Một số hình ảnh

Thời kỳ 1911 - 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc

Quảng cáo

Năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc sang phương Tây tìm đường cứu nước.

Việc Hồ Chí Minh ra nước ngoài xuất phát tứ ý thức dân tộc, từ hoài bão cứu nước. Qua cuộc hành trình đến nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc, tư bản, đế quốc. Người đã xúc động trước cảnh khổ cực, bị áp bức của những người dân lao động. Người nhận thấy ở đâu nhân dân cũng mong muốn thoát khỏi ách áp bức bóc lột.

Nhờ những bài học từ buổi thiếu niên về lý tưởng "bốn bể đều là anh em" và "năm châu hợp làm một nhà",

Nguyễn Tất Thành không chỉ đau với nỗi đau của dân tộc mình, Người còn xót xa trước nỗi đau vong nô của các dân tộc khác. Từ lòng yêu thương đồng bào mình. Hồ Chí Minh càng đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ trên toàn thế giới. Ở Người đã nảy sinh ý thức về sự cần thiết phải đoàn kết những người bị áp bức để đấu tranh cho nguyện vọng và quyền lợi chung. Có thể xem đây là biểu hiện đầu tiên của ý thức về sự đoàn kết quốc tế giữa các dân tộc thuộc địa nhằm thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc.

Với lòng yêu nước nồng nàn. Hồ Chí Minh kiên trì chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ. Người chú ý xem xét tình hình các nước, suy nghĩ về nhiều điều mắt thấy tai nghe, hăng hái học tập, tham gia các cuộc diễn thuyết của nhiều nhà chính trị và triết học. Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Vécxây, đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do. dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp, làm cho nhân dân thế giới và nhân dân Pháp phải chú ý tới tình hình Việt Nam và Đông Dương.

Cuộc hành trình qua năm châu bốn biển đã không chỉ hình thành ở Hồ Chí Minh tình cảm và ý thức đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức, mà còn rèn luyện Người trở thành một người công nhân có đầ đủ phẩm chất, tư tưởng, tâm lý của giai cấp vô sản. Thực tiễn trong gần 10 năm đi tìm đường cứu nước, nhất là khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L 'Humamié số ra ngày 16 và 17-7-1920. Người đã "cảm động, phấn khơi, sáng tỏ, tin tưởng., vui mừng đến phát khóc.

Luận cương của V.I.Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào, đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hoài bão được ấp u bấy lâu nay ở Người. " Luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc địa đến với Người như một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình cảm cách mạng mà Người hàng nung nấu".

Việc biểu quyết tán thành Đệ tam Quốc tế [Quốc tế III], tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp [tháng 12-1920], trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đã đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Nguyễn Ái Ọuốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản.

Việc xác định con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc là công lao to lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh, trong thực tế, Người "đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân ta đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là con đường giải phóng duy nhất mà Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra cho nhân dân lao động và tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới".

Bài tiếp theo

  • Thời kỳ 1921 - 1930 : Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
  • Thời kỳ 1930 - 1945 : Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường cách mạng
  • Thời kỳ 1945 - 1969 : Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện
  • Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước
  • Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
  • Về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
  • Quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
  • Quan niệm Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội

Quảng cáo

Báo lỗi - Góp ý

Tìm đường cứu nước [1911-1920]

18 Tháng Mười, 2010 8:44 Sáng

17148

Share

Facebook

Twitter

Pinterest

WhatsApp

Email

Print

Ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Văn Ba xin làm phụ bếp trên tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin [Amiral Latouche Tréville], một tàu lớn vừa chở hàng vừa chở khách của hãng Năm Sao đang chuẩn bị rời cảng Sài Gòn đi Mácxây [Marseille], Pháp.

Ngày 5-6-1911, trên con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin, từ bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn [nay là thành phố Hồ Chí Minh], Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước.

Về mục đích ra đi của mình, năm 1923 Người đã trả lời một nhà báo Nga rằng:

“Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”[1]. Một lần khác trả lời một nhà văn Mỹ, Người nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”[2].

Theo hành trình của tàu, Nguyễn Tất Thành đã dừng chân ở cảng Mácxây, cảng Lơ Havơrơ [Le Havre] của Pháp. Những ngày đầu tiên trên đất Pháp, được chứng kiến ở Pháp cũng có những người nghèo như ở Việt Nam, anh nhận thấy có những người Pháp trên đất Pháp tốt và lịch sự hơn những tên thực dân Pháp ở Đông Dương.

Không dừng lại ở Pháp, năm 1912, Nguyễn Tất Thành làm thuê cho một chiếc tàu của hãng Sácgiơ Rêuyni đi vòng quanh châu Phi, đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, BồĐào Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Xênêgan, Rêuyniông… Đến đâu anh cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Một trong những cảnh ấy anh đã trông thấy ở Đaca [Dacar]: “Đến Đaca, bể nổi sóng rất dữ. Tàu không thể vào bờ. Cũng không thể thả canô xuống vì sóng rất to. Để liên lạc với tàu, bọn Pháp trên bờ bắt những người da đen phải bơi ra chiếc tàu. Một, hai, ba, bốn người da đen nhảy xuống nước. Người này đến người kia, họ bị sóng bể cuốn đi”[3]. Cảnh tượng đó làm cho Nguyễn Tất Thành rất đau xót. Anh liên tưởng một cách tự nhiên đến số phận của người dân Việt Nam, đồng bào khốn khổ của anh. Họ cũng là nạn nhân của sự hung ác, vô nhân đạo của bọn thực dân. Những sự việc như vậy diễn ra khắp nơi trên đường anh đi qua, tạo nên ở anh mối đồng cảm sâu sắc với số phận chung của nhân dân các nước thuộc địa.

Nguyễn Tất Thành theo con tàu tiếp tục đi qua Máctiních [Martinique] [Trung Mỹ], Urugoay và Áchentina [Nam Mỹ] và dừng lại ở nước Mỹ cuối năm 1912. Tại đây, anh có dịp tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng trong lịch sử. Anh vừa đi làm thuê để kiếm sống vừa tìm hiểu đời sống của những người lao động Mỹ. Anh đã đến thăm quận Brúclin [Brooklin] của thành phố Niu Oóc [New York]. Anh đi xe điện ngầm đến khu Háclem [Harlem] để tìm hiểu đời sống và cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc của những người da đen.

Với mục đích ra đi để tìm hiểu, do vậy, trong thời gian tàu dỡ hàng và lấy hàng, Nguyễn Tất Thành đã tranh thủ lúc rỗi rãi đi xem xét nhiều nơi, từ những khu phố hoa lệ nổi tiếng thế giới với những ngôi nhà cao chọc trời ở Niu Oóc đến những ngôi nhà ổ chuột ở khu Háclem.

Dừng chân ở nước Mỹ không lâu nhưng Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận ra bộ mặt thật của đế quốc Hoa Kỳ. Đằng sau khẩu hiệu “cộng hòa dân chủ” của giai cấp tư sản Mỹ là những thủ đoạn bóc lột nhân dân lao động rất tàn bạo. Anh cảm thông sâu sắc với đời sống của người dân lao động da đen và rất căm giận bọn phân biệt chủng tộc, hành hình người da đen một cách man rợ, mà sau này anh đã viết lại trong bài báo Hành hình kiểu Linsơ.

Khoảng đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu rời Mỹ trở về Lơ Havơrơ, sau đó sang Anh. Đến nước Anh, để kiếm tiền sinh sống, anh nhận cào tuyết cho một trường học, rồi làm thợ đốt lò. Công việc hết sức nặng nhọc, nhưng sau mỗi ngày anh đều tranh thủ thời gian học tiếng Anh.

Từ nước Anh, Nguyễn Tất Thành gửi thư liên hệ với cụ Phan Châu Trinh, lúc này đang ở Pháp, thông báo tình hình sinh hoạt, học tập của mình, hỏi thăm tình hình người thân của cụ Phan. Trong thư Nguyễn Tất Thành cũng bày tỏ và thăm dò ý kiến của cụ Phan về tình hình thời cuộc.

Cuối năm 1913, sau hai tuần nghỉ việc vì bị cảm, Nguyễn Tất Thành đến làm thuê ở khách sạn Đraytơn Cơớc, đại lộ Đraytơn, khu Oét Ilinh [Drayton Court, Drayton Av., West Ealing], phía tây Luân Đôn.

Một thời gian sau, Nguyễn Tất Thành lại chuyển sang làm phụ bếp ở khách sạn Cáclơtơn [Carlton], phố Hây Makét, một khách sạn sang nổi tiếng ở Luân Đôn. Nguyễn Tất Thành làm việc dưới sự điều khiển của vua bếp Étcốpphie [Escophier], một người Pháp có tư tưởng tiến bộ. Nguyễn Tất Thành được giao nhiệm vụ thu dọn và rửa bát, đĩa, nồi, chảo, v.v.. Những người giàu có khi ăn uống rất lãng phí, bỏ thừa khá nhiều, có khi cả một phần tư con gà. Anh gói lại những miếng ngon đưa cho nhà bếp. Ông Étcốpphie chú ý tới việc làm đó và hỏi anh: “Tại sao anh không quẳng thức ăn thừa vào thùng như những người kia?

– Không nên vứt đi. Ông có thể cho người nghèo những thứ ấy.

– Ông bạn trẻ của tôi ơi, anh nghe tôi. Ông Étcốpphie vừa nói vừa cười và có vẻ bằng lòng. Tạm thời anh hãy gác ý nghĩ cách mạng của anh lại một bên, và tôi sẽ dạy cho anh cách làm bếp, làm ngon anh sẽ được nhiều tiền. Anh bằng lòng chứ?”[4].

Từ đó, ông chuyển anh vào chỗ làm bánh với mức lương cao hơn.

Tại Anh, Nguyễn Tất Thành đã hăng hái tham dự những cuộc diễn thuyết ngoài trời của nhiều nhà chính trị và triết học, tham gia Hội những người lao động hải ngoại, ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Airơlen. Cũng trong thời gian này anh được đọc một tờ báo Anh đưa tin về ông Terence Mac Swiney, Thị trưởng thành phố [Cork], nhà đại ái quốc Airơlen, đấu tranh chống đế quốc Anh, bị bắt. Trong tù ông đã tuyệt thực. Ông nằm nghiêng một phía, không ăn, không cử động hơn 40 ngày và hy sinh. Hàng ngàn người Airơlen lưu vong nối nhau thành hàng dài trên đường phố Luân Đôn đưa tiễn ông Mac Swiney về yên nghỉ tại Cork. Nguyễn Tất Thành hết sức xúc động và cảm phục tinh thần bất khuất của ông: “Can đảm biết bao! Dũng cảm biết bao! Một dân tộc có những người như ông Cúc sẽ không bao giờ đầu hàng”[5].

Giữa lúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra ác liệt, tình hình Đông Dương đang có những biến động, vào khoảng cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp để có điều kiện trực tiếp hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp.

Trở lại Pháp, đến Thủ đô Pari, lúc đầu Nguyễn Tất Thành ở phố Sarôn [Charonne] trong một thời gian ngắn; từ ngày 7 đến 11-6-1919 ở nhà số 10, phố Xtốckhôm [Stokholm]; ngày 12-6-1919, chuyển đến ở nhà số 56 phố Mơxiên lơ Pơranhxơ [Monsieur le Prince]; tháng 7-1919, ở nhà số 6, phố Vila đê Gôbơlanh [Villa des Gobelins], quận 13; ngày 14-7-1921, chuyển đến ở nhà số 12, phố Buyô. Trong tháng 7-1921, Nguyễn Tất Thành chuyển đến nhà số 9, ngõ Côngpoanh [Compoint], quận 17, một trong những khu lao động nghèo nhất của Thủ đô nước Pháp. Ngày 14-3-1923, anh đến ở nhà số 3, phố Mácsê đê Patơriácsơ.

Thời gian đầu khi tới Pari, chưa có giấy tờ hợp pháp, Nguyễn Tất Thành được các đồng chí trong Ban đón tiếp những người lao động nhập cư của Đảng Xã hội Pháp giúp đỡ. Trong khi chờ các đồng chí tìm cho giấy tờ quân dịch hợp pháp, anh phải sống ẩn náu, hạn chế đi lại để tránh sự kiểm tra của cảnh sát. Cuộc sống của anh lúc đó gặp rất nhiều khó khăn. Vừa hoạt động chính trị, vừa phải kiếm sống một cách chật vật, khi thì làm thuê cho một hiệu ảnh, khi thì vẽ thuê cho một xưởng đồ cổ mỹ nghệ Trung Hoa, nhưng anh vẫn kiên trì, hăng say học tập và hoạt động. Anh thường xuyên gặp gỡ với những người Việt Nam ở Pháp, có tư tưởng và khuynh hướng tiến bộ như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường. Nguyễn Ái Quốc từng bước tham gia vào cuộc đấu tranh của phong trào công nhân và lao động Pháp.

Khoảng đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Khi được hỏi vì sao vào Đảng, anh trả lời: Vì đây là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”.

Năm 1918, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Ngày 18-6-1919, đại biểu các nước đế quốc tham gia chiến tranh họp Hội nghị ở Vécxây [Versailles] [Pháp]. Hội nghị này còn gọi là Hội nghị hoà bình Pari, nhưng thực chất đó là nơi chia phần giữa các nước đế quốc thắng trận và trút hậu quả chiến tranh lên đầu nhân dân các nước thua trận và các dân tộc bị áp bức. Văn kiện chính của hội nghị là Hiệp ước Vécxây xác định sự thất bại của nước Đức và các nước Đồng minh của Đức, phân chia lại bản đồ thế giới theo hướng có lợi cho các đế quốc thắng trận, chủ yếu là Mỹ, Anh, Pháp.

Thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Tất Thành cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo ra bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Vécxây. Dưới bản Yêu sách Nguyễn Tất Thành ký tên: Nguyễn Ái Quốc. Đây là lần đầu tiên tên gọi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện. Nguyễn Ái Quốc tới lâu đài Vécxây gửi bản Yêu sách cho văn phòng Hội nghị, sau đó lần lượt gửi bản Yêu sách đến các đoàn đại biểu các nước Đồng minh dự hội nghị. Hầu hết các đoàn đại biểu đều có thư trả lời Nguyễn Ái Quốc.

Bản Yêu sách gồm tám điểm:

1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị;

2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;

3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận;

4. Tự do lập hội và hội họp;

5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương;

6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ;

7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;

8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ [6].

Nguyễn Ái Quốc còn tự tay viết Yêu sách bằng hai thứ tiếng: một bản bằng chữ quốc ngữ theo thể văn vần, nhan đề Việt Nam yêu cầu ca và một bản chữ Hán nhan đề An Nam nhân dân thỉnh nguyện thư. Anh đến Nhà in Sácpăngchiê, số 70 phố Gôbơlanh, bỏ tiền túi của mình thuê in 6.000 bản Yêu sách của nhân dân An Nam để phân phát trong các cuộc hội họp, míttinh, phát đi nhiều nơi và bí mật gửi về Việt Nam.

Thực dân Pháp bắt đầu chú ý tới người có tên Nguyễn Ái Quốc. Trong một lần đến theo dõi buổi nói chuyện ở Hội trường Hooctiquyntơ tại Pari, viên mật thám Pháp Pôn Ácnu [Paul Arnoux] chuyên theo dõi người Việt Nam sống ở Pari, tận mắt chứng kiến Nguyễn Ái Quốc đang phân phát truyền đơn in bảnYêu sách cho những người có mặt, đã phải thốt lên dự cảm: “Con người thanh niên mảnh khảnh và đầy sức sống này có thể là người sẽ đặt chữ thập cáo chung lên nền thống trị của chúng ta ở Đông Dương”[7].

Bản Yêu sách phản ánh nguyện vọng của nhân dân Việt Nam không được hội nghị xem xét. Đối với dư luận Pháp, Yêu sách cũng không có tiếng vang như mong muốn, nhưng lại tác động mạnh mẽ đến người Việt Nam trong nước và nước ngoài. Một người Việt Nam với tên gọi Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm đưa vấn đề chính trị của Việt Nam ra quốc tế, đòi cho Việt Nam có những quyền cơ bản chính đáng, thiết thực. Đây là dấu hiệu mới của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trên đường đi tới độc lập dân tộc. Qua việc bản Yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy, như sau này Người đã viết:

“Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn”[8] và “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”[9].

Từ yêu cầu thực tiễn đấu tranh, Nguyễn Ái Quốc thấy cần phải học viết báo để tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Phong trào công nhân và chủ nghĩa xã hội ở Pháp đã đưa anh đến với hoạt động báo chí. Trong hai năm 1919-1920, Nguyễn Ái Quốc đã viết 5 bài báo. Bài đầu tiên làVấn đề bản xứ [10], đăng trên báo Nhân đạo [L’ Humanité],ngày 2-8-1919.

Bài báo nhắc lại những nội dung chính bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Vécxây, tháng 6-1919, khẳng định nguyện vọng đó của nhân dân Việt Nam là chính đáng; đồng thời tố cáo, lên án những chính sách cai trị cùng các thủ đoạn đàn áp, cướp bóc của thực dân Pháp ở Đông Dương và tin tưởng rằng nhân dân tiến bộ Pháp sẽ đồng tình, ủng hộ cuộc đấu tranh vì tự do và công lý của nhân dân Việt Nam.

Báo Dân chúng [Le Populaire] đăng bài Đông Dương và Triều Tiên [11] của Nguyễn Ái Quốc. Bài báo nhắc đến sắc lệnh của Thiên Hoàng công bố tại Tôkyô ngày 19-8-1919 với nội dung định rõ quyền bình đẳng giữa người bản xứ Triều Tiên với người Nhật trong tất cả các luật lệ. Bài báo so sánh chính sách cai trị của đế quốc Nhật ở Triều Tiên và đế quốc Pháp ở Đông Dương, nghiêm khắc lên án chính sách ngu dân của Pháp và đặt câu hỏi: Nước Pháp có thể đối với Đông Dương ít nhất một cách sáng suốt như Nhật đối với Triều Tiên không?

Qua các bài báo trên, chúng ta thấy rõ về mặt tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc là một người yêu nước tiến bộ, căm thù chủ nghĩa thực dân Pháp. Khát vọng của Người là đấu tranh giải phóng dân tộc, nhưng làm thế nào và đi theo hướng nào để đạt được mục đích đó, Nguyễn Ái Quốc vẫn còn đang tìm kiếm.

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ. Đầu năm 1919, Lênin và những người theo chủ nghĩa Mác ủng hộ lập trường của Lênin họp đại hội ở Mátxcơva, thành lập Quốc tế III – tức Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng sản đã kiên quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông.Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được Đại hội lần thứ hai Quốc tế Cộng sản họp năm 1920 thông qua, đã vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Lần đầu tiên trên báo Nhân đạo, ngày 16 và 17-7-1920 đã đăng Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Tên đầu bài có liên quan đến vấn đề thuộc địa lập tức thu hút sự chú ý của Nguyễn Ái Quốc. Trong văn kiện này, Lênin phê phán mọi luận điểm sai lầm của những người đứng đầu Quốc tế II về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, lên án mạnh mẽ tư tưởng sô vanh, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ích kỷ, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ của các đảng cộng sản là phải giúp đỡ thật sự phong trào cách mạng của các nước thuộc địa và phụ thuộc, về sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản các nước tư bản với quần chúng cần lao của tất cả các dân tộc để chống kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến.

Luận cương của Lênin đã chỉ cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào. Sau này, khi kể lại sự kiện quan trọng đó, Người nói:

“Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”!

Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” [12].

Từ bản Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, trong đó có cách mạng Việt Nam. Niềm tin ấy là cơ sở tư tưởng để Nguyễn Ái Quốc vững bước đi theo con đường cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác-Lênin. Quyết tâm đi theo con đường của Lênin vĩ đại, Nguyễn Ái Quốc xin gia nhập Uỷ ban Quốc tế III, do một số đồng chí trong Đảng Xã hội Pháp lập ra, nhằm tuyên truyền vận động gia nhập Quốc tế III.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp từ ngày 25 đến ngày 30-12-1920, tại thành phố Tua [Pháp], đã tranh luận gay gắt về việc gia nhập Quốc tế III hay ở lại Quốc tế II, thành lập Đảng Cộng sản, hay giữ nguyên Đảng Xã hội. Nguyễn Ái Quốc tham dự đại hội với tư cách là đại biểu chính thức và duy nhất của các nước thuộc địa Đông Dương.

Tại phiên họp buổi chiều ngày 26-12-1920, Nguyễn Ái Quốc được mời phát biểu. Trong bài phát biểu, Người lên án chủ nghĩa đế quốc Pháp, vì lợi ích của nó, đã dùng lưỡi lê chinh phục Đông Dương và trong suốt nửa thế kỷ, nhân dân Đông Dương không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm. Bằng những sự thật, Nguyễn Ái Quốc tố cáo những sự tàn bạo mà bọn thực dân Pháp đã gây ra ở Đông Dương, và cho rằng:

“Đảng Xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức”, rằng “Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa… đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa…”. Nguyễn Ái Quốc kết thúc bài phát biểu bằng lời kêu gọi thống thiết:

“Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi!” [13].

Tại đại hội lịch sử này, cùng với những người cách mạng chân chính của nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và Người cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đó là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và trong lịch sử cách mạng nước ta. Nếu như cuộc đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị Vécxây năm 1919 mới là phát pháo hiệu thức tỉnh nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp, thì việc Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đã đánh dấu một bước chuyển biến quyết định, bước nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người: Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lênin. 40 năm sau nhìn lại sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:

“Cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được học tập truyền thống cách mạng oanh liệt và được rèn luyện trong thực tế đấu tranh anh dũng của công nhân và của Đảng Cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, đã từ một người yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa” [14].

Như vậy, từ năm 1911 đến năm 1920, là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc khảo sát, nghiên cứu để lựa chọn con đường giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ của bọn thực dân, phong kiến. Người đã vượt qua ba đại dương, bốn châu lục Á, Âu, Phi, Mỹ. Trải qua những tháng năm lao động kiếm sống, thâm nhập đời sống thực tế của những người lao động nhiều nước trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc thấy rõ cảnh bất công, tàn bạo của xã hội tư bản, anh vô cùng xúc động trước đời sống khổ cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước. Đến một số nước thuộc địa châu Phi, Người thấy rõ ở đâu người dân mất nước cũng khổ cực như nhau. Bước đầu anh rút ra kết luận quan trọng là: ở đâu chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác và vô nhân đạo, ở đâu nhân dân lao động cũng bị áp bức, bóc lột rất dã man; các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù chung là bọn đế quốc thực dân. Anh nhận rõ giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước đều là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là kẻ thù. Sau này anh đã khái quát thành một chân lý:

“Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” [15].

Cũng từ thực tế lao động, học tập, thâm nhập đời sống những người lao động, phân tích tình hình chính trị thế giới, tiếp cận với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn, đó là con đường cách mạng vô sản mà sau này Người đã đúc kết:

“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [16].

Sự lựa chọn và hành động của Nguyễn Ái Quốc phù hợp với trào lưu tiến hóa của lịch sử, chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản, đã kéo theo cả một lớp người Việt Nam yêu nước chân chính đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó chủ nghĩa Mác – Lênin bắt đầu thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam từ đây có một phương hướng mới.

1. Báo Ogoniok, số 39, ngày 23-12-1923.

2. Báo Nhân dân, ngày 18-5-1965.

3. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.23.

4. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr.29.

5. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr.29.

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1, tr.435-436.

7. Hồng Hà: Thời thanh niên của Bác Hồ, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1976, tr.81.

8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 416.

9. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 33.

10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 6-10.

11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 11-14.

12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr. 127.

13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 23-24.

14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.241.

15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 266.

16.Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr. 314.

Nguồn Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam

Share

Facebook

Twitter

Pinterest

WhatsApp

Email

Print

Bài trướcThời niên thiếu [1890-1911]

Bài tiếp theoChuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam [1920 – 1930]

Ý nghĩa lịch sử ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước

16 Tháng Sáu, 2020

Sinh ra và lớn lên trước cảnh nước mất, nhân dân Việt Nam rơi vào cảnh thống khổ lầm than, Nguyễn Tất Thành [Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh] quyết tâm đến tận “sào huyệt” của chủ nghĩa tư bản để tìm hiểu hòng tìm ra con đường cứu nước.
1. Hành trình ra đi tìm đường cứu nước
Bắt đầu từHuế, tháng 5 năm1909, Nguyễn Tất Thành xuất phát từ Huế và đi theochamình làcụ Phó bảngNguyễn Sinh Sắcvào huyện Bình Khê thuộc tỉnhBình Định. Tháng 9 năm 1909, Nguyễn Tất Thành được cha gửi đếnQuy Nhơnđể học thêmtiếng Phápvớithầy giáoPhạm Ngọc Thọ dạy tại Trường tiểu học Pháp – bản xứ Quy Nhơn theo chương trình lớpcao đẳng.
Tháng 8 năm 1910, Nguyễn Tất Thành rời Quy Nhơn, đi vào Sài Gòn. Từ nửa sau tháng 9 năm 1910 đến trước tháng 2 năm 1911, Nguyễn Tất Thành dạy học ởtrường Dục Thanhthuộc tỉnhPhan Thiết[nay là tỉnh Bình Thuận].
Ngày2 tháng 6năm1911, Nguyễn Tất Thành xin làm việc ở tàu Đô đốc Latouche-Tréville của hãng vận tải Hợp nhất [Compagnie des Chargeurs réunis], thường được gọi nôm na là hãng Nǎm Sao đang chuẩn bị rờiCảng Sài GònđiMarseille, Pháp. Lúc tàu này cập cảng Sài Gòn, Ông xuống tàu và gặp viên thuyền trưởng tên là: Lui E-du-a Mai-sen. Ông thuyền trưởng hỏi rằng anh có thể làm được việc gì? Ông trả lời: Tôi có thể làm bất cứ công việc gì. Sau đó thuyền trưởng nhận Thành vào làm phụ bếp.
Ngày 3 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành bắt đầu làm việc ở tàu Đô đốc Latouche-Tréville, nhận thẻ nhân viên của tàu với tên mới là Văn Ba. Lúc này trên tàu cũng có một ngườithủy thủViệt Nam làm việc có tên gọi là Nguyễn Văn Ba. Lương của Văn Ba được lãnh là 50 franc Pháp, trong khi những ngườibồi bànPháp làm việc rất nhàn nhã lãnh lương gấp 3 lần lương của ông.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành trong công việc là người phụ bếp chính thức lên đường sang Pháp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville để tìm “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi”
2.Tiếp thu học thuyết Mác – Lê nin
Từ nǎm 1911 đến nǎm 1920, Nguyễn Tất Thành đã đến nhiều nước ở bốn châu lục là châu Âu, châu Phi , châu Mỹ, châu Á, để nghiên cứu và học hỏi để tìm đường cứu nước. Nǎm 1919 các nước đế quốc thắng trận họp Hội nghị Véc-xây [Versailles] để phân chia thị trường thế giới. Nhân dịp này Nguyễn Ái Quốc [tên mới của Nguyễn Tất Thành] thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, đã gửi tới Hội nghị Véc-xây bản yêu sách “tám điểm” đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam.
Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo [L’Humanité- Pháp], Nguyễn Ái Quốc đọc được tác phẩm “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I Lê nin. Sau này nhớ lại với niềm vui sướng khôn tả, Hồ Chí Minh viết:“Luận cương của V.I Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta.
Nguyễn Ái Quốc là đại biểu duy nhất của nhân dân Đông Dương tham dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tua [Tours]. Tại Đại hội này Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác, chống lại những người cơ hội, tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương, kêu gọi giai cấp công nhân và nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước thuộc địa khác. Tại Đại hội này Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản [Quốc tế III] và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Như vậy là trong quá trình tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã đi qua bốn châu lục, khảo sát nhiều nước thuộc địa và những nước tư bản tiên tiến điển hình thời bấy giờ, đã tiếp xúc nhiều người, nhiều nhà tư tưởng nhưng tất cả chưa mang lại lời giải cho cách mạng Việt Nam, chỉ có Lê nin và Quốc tế III là ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng thuộc địa, nên trong tác phẩm Đường Cách Mệnh Người chỉ rõ:bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mã khắc tư và Lê nin.
Người đã tham gia nhiều hoạt động thực tiễn và lý luận rất sôi nổi như: tham gia Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa, viết bài và tham gia xuất bản báo [tờ Le Paria], viết bài tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê nin về Việt Nam và các nước thuộc địa.
Như vậy là đã rõ, khi tiếp cận được chủ nghĩa Mác – Lê nin, Nguyễn Ái Quốc từ người yêu nước trở thành người cộng sản và đã dứt khoát lựa chọn con đường đi theo chủ nghĩa xã hội cho cách mạng Việt Nam, theo quỹ đạo của cách mạng vô sản. Tuy đã là người cộng sản và tin theo chủ nghĩa Mác – Lê nin nhưng con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản là thế nào? thì năm 1920 Nguyễn Ái Quốc chưa thể hình dung được.
Chính trong quá trình hoạt động cách mạng sôi nổi và phong phú đó, với sự mẫn tiệp về chính trị, cùng với sự am tường sâu sắc về lý luận và thực tiễn và đặc biệt hơn là sự vững vàng, bản lĩnh và rất dũng cảm Nguyễn Ái Quốc đặt vấn đề rằng: học chủ nghĩa Mác – Lênin là học cái tinh thần cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết những vấn đề của cách mạng nước ta.
3. Ý nghĩa của việc tìm ra con đường cứu nước
Năm 1920, khi Hồ Chí Minh bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lê nin thì vào giai đoạn này,Việt Namthuộc quyền thống trị của thực dân Pháp, nhiều cuộc khởi nghĩa, nổi dậy đã diễn ra nhưng thất bại. Nhiều xu hướng cải cách, đổi mới được dấy lên nhưng cũng chưa đạt kết quả khả quan. Trong thời gian này, có nhiều lý thuyết, nhiều chủ nghĩa, nhiều con đường và phương pháp để đấu tranh, thời điểm này cũng có nhiều người Việt Nam đi ra nước ngoài theo nhiều diện khác nhau.
Từ việc tìm hiểu, nghiên cứu những bài học lịch sử và khảo nghiệm thực tiễn, Nguyễn Tất Thành thấy rằng mọi cách tiến hành ở trong nước, hay đi ra nước ngoài, sangTrung QuốchayNhật Bản[phong trào Đông Du] đều không đạt kết quả tốt. Vì muốn:Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu.
Sự kiện Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 05/6/1911 có ý nghĩa vô cùng to lớn. Trước hết thể hiện sự thính nhạy về thực tiễn tình hình với sự lựa chọn hành trình xuất phát từ thành phốSài Gòn. Đây là bước ngoặt lớn, việc Hồ Chí Minh chọnSài Gònsau này được lý giải là do lúc bấy giờ Sài Gòn là cửa ngõ của xứ Nam Kỳ có những công ty tàu biển lớn chạy đường Pháp – Đông Dương rất thuận lợi cho việc sang Pháp. Đây cũng là nơitự dohơn các xứ khác ở Việt Nam trong việc đi lại, tìm kiếm công ăn việc làm, dễ kiếm cơ hội xuất ngoại. Sài Gòn, nơi ông dừng chân trong thời gian ngắn nhất nhưng lại có vai trò quyết định đối với sự lựa chọn con đường cứu nước do được tiếp xúc với nhiều luồng thông tin đa dạng làm cho chủ nghĩa yêu nước của con người Việt Nam phát triển, mà sau này đã trở thành biểu tượng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, và trong cuộc tái thiết và phát triển đất nước lênxã hội chủ nghĩa. Nhưng ở độ tuổi 21 – người thanh niên của vùng xứ Nghệ cách Sài Gòn hàng nghìn km của thời cát cứ phong kiến, đi lại khó khăn của những năm đầu thế kỷ 20 ở nước ta mà nhìn ra và chọn thành điểm xuất phát để đi nước ngoài đó quả là một sự thấu suốt kinh ngạc.
Thứ hai, cuộc hành trình tìm đường cứu nước của Bác Hồ đã tạo nên những bước ngoặt lớn trongcách mạng Việt Nam, đã làm thay đổi hướng phát triển củalịch sửvà thay đổi số phận của cảdân tộc Việt Namtrongthế kỷ 20.
Thứ ba, việc lựa chọn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Lê nin đã mở ra ở Cách Mạng tháng 10 năm 1917 đã đem lại những thành tựu vĩ đại trong thực tế cho nước ta như: hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, với thắng lợi của Cách mạng tháng 8 – 1945, Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 giải phóng Miền Bắc, chiến thắng 30/4/1975 giải phóng đất nước. Tiến hành cách mạng XHCN với sự nghiệp đổi mới 33 năm qua thành công, đem lại những thành tựu trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, tính đến cuối năm 2018 tăng trưởng kinh tế nước ta đạt 6,98%, thu nhập bình quân của người Việt 2640 USD, tuổi thọ người Việt đạt 73 tuổi, 63/63 tỉnh, thành phố đã đạt phổ cập trung học cơ sở….
Dù đã đi xa, nhưng người chiến sỹ cộng sản kiên trung và dũng cảm Nguyễn Ái Quốc đã để lại cho chúng ta một mẫu mực trong việc nhanh nhạy với tình hình thời cuộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện nước ta, từ đó định hướng cho sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta, hướng vào mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh mà Đảng ta đang phấn đấu.

TS. Ngô Hoàng Anh – CN.Lê Thị Nghệ
[Trường Chính Trị tỉnh Kon Tum]

Video liên quan

Chủ Đề