Hình ảnh chim phượng trong văn hóa việt nam năm 2024
Trong nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam, chim phượng là hình ảnh quen thuộc, có mặt hầu khắp mọi nơi, thường được sử dụng như một yếu tố trang trí trên kiến trúc, trên các đồ dùng trong nghi lễ và thờ cúng…Thời chế độ quân chủ phong kiến, tồn tại nhiều thế kỉ, người Việt đã rất quen thuộc với hình tượng chim phượng và coi chim phượng là một biểu trưng của vương quyền, ước vọng đó đã đưa chim phượng trở thành hình tượng điển hình trong nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam. Ảnh minh họa Hoa văn hình chim phượng được trang trí từ thời Đinh và Tiền Lê (cuối thế kỉ X), trên những viên gạch nền vuông to của thời Đinh – Tiền Lê tìm thấy tại khu vực đền thờ vua Đinh, vua Lê ở Trường Yên, Ninh Bình. Đến thời Lý, hình chim phượng được trang trí khá nhiều trên các di tích của tầng lớp quý tộc, dấu tích còn đến hôm nay trên thành bậc của hai ngôi chùa: chùa Bà Tấm và chùa Hương Lãng, ở vườn Bách Thảo, Hà Nội; trên bia đá chùa Diên Phúc, Hưng Yên; ở tháp Chương Sơn và ở thành Thăng Long xưa. Sang thời Trần, hoa văn hình chim phượng tiếp tục chạm, trang trí rộng rãi. Đó là hình chim phượng trên bia ở chùa Thiệu Long, chim phượng đang bay, chở các nhạc công thiên thần ở chùa Thái Lạc, hoặc đôi chim phượng ngậm hoa đang bay chầu mặt trời ở chùa Bối Khê. Hình chim phượng được khắc ở bệ đá chùa Thanh Sam, chùa Long Đẩu, chùa Ngọc Khánh; hoa văn hinh chim phượng trên đất nung ở chùa Hang. Thời Lê Sơ, trang trí hình chim phượng lại được chạm khắc trên bia đá. Các hình chim phượng này có trên một số bia mộ thời Hồng Đức như: bia lăng bà Kính Phi họ Nguyễn (1485); bia lăng Đường Vương, con trai vua Lê Thánh Tông (1492); bia lăng Cẩm Vinh, con gái vua Lê Thánh Tông (1498). Chim phượng là đặc trưng tiêu biểu của hoàng hậu, vương phi, gắn với hình ảnh của nữ giới. Vì vậy, chim phượng thường được trang trí ở các bức bình phong, trên nóc mái ngói của các chùa dành riêng cho nữ. Chim phượng dùng trang trí trên khung bia dành cho các công chúa, trên hộp đựng con dấu, và trên một số đồ vật dành riêng cho phụ nữ. Những thời kì sau, chim phượng không chỉ được chạm nhiều ở đền, chùa, lăng tẩm mà còn được trang trí rất phổ biến ở đình làng. Thời Mạc, đó là các hình chim phượng bay chầu trong mây, chạm gỗ trên vì nóc đình Tây Đằng (Hà Tây cũ); chim phượng trên chạm gỗ đình Thổ Hà, đình Lỗ Hạnh, Bắc Giang. Thời Lê Trung Hưng, là hình chim phượng chầu mặt trời, chạm đá trên bia đình Đôn Lương, Hải Phòng; hình chim phượng ngậm hoa, tiên nữ cưỡi chim phượng, chạm gỗ ở đình Phong Cốc, Quảng Ninh; hình chim phượng múa, chạm gỗ ở đình Chu Quyến (Hà Tây cũ). Thời Lê Mạt, là hình phượng bay ngậm cành hoa, tiên nữ cưỡi chim phượng thổi sáo, chạm gỗ ở đình Hoành Sơn, Nghệ An. Truyền thuyết kể nhiều chuyện về chim phượng thường bay chở những bậc thánh nhân, hiền triết, những người tu hành, những ẩn sĩ của Đạo giáo lên chỗ thiên đình xa xôi, nơi ở của những người bất tử. Chim ph Gạch trang trí hình tượng chim phượng dùng để lát nền cung điện nhà Đinh, cố đô Hoa Lư. Trong văn hóa Việt Nam, Trung Hoa, Triều Tiên... chim phượng là một hình ảnh mang tính biểu tượng đặc biệt, là một trong Tứ linh, gồm Long, Ly, Quy, Phượng (Rồng, Lân, Rùa, Phượng). Lá đề hình phượng bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 - 13, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam. Theo truyền thuyết, phượng hoàng là chúa tể của 360 loài chim, mang nhiều đức tính, phẩm hạnh cao đẹp cũng như những quyền năng đặc biệt sánh ngang thánh thần. Đầu phượng hoàng triều Trần - Hồ (thế kỷ 14-15). Thư tịch cổ viết rằng, loài chim huyền thoại này có 5 màu sắc tượng trưng cho năm đức tính: ngay thẳng, lương thiện, công bằng, chung thủy và lòng quảng đại. Hình phượng trang trí trên đĩa gốm hoa lam thời Lê sơ, thế kỷ 15. Tương truyền, chim phượng lộ diện vào thời thái bình, ẩn mình khi loạn lạc. Phượng hoàng xuất hiện là điềm báo thánh nhân hoặc hiền triết ra đời. Vì điều này nên nó là biểu tượng cho thái bình, thịnh trị. Cặp phượng chầu bằng gỗ, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18. Có truyền thuyết mô tả cơ thể của chim phượng tương ứng với các thiên thể: Đầu của nó là bầu trời, mắt là mặt trời, lưng là mặt trăng, chân là trái đất, đuôi là các hành tinh. Do đó, phượng hoàng là sự liên kết giữa con người và vũ trụ. Bức bình phong trang trí hình tượng chim phượng khảm sứ ở lăng mộ Lệ Thiên Hoàng Hậu (vợ cả vua Tự Đức) ở Huế. Ngoài các ý nghĩa đã đề cập, chim phượng cũng được coi là hình ảnh tượng trưng cho phụ nữ quý tộc, hoàng gia thời phong kiến. Hình chim phượng trang trí trên hộp trầu bằng vàng thời Nguyễn, niên hiệu Minh Mạng thứ 5 (1824). Về mặt tạo hình, phượng hoàng là sự kết tinh vẻ đẹp và sự mềm mại thanh lịch duyên dáng của các loài chim khác nhau, nổi bật là công và trĩ. Hình chim phượng trang trí trên lồng ấp được làm bằng vàng thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20. Hình tượng phượng hoàng xuất hiện trong văn hóa Việt từ rất sớm. Có người cho rằng hình tượng chim Lạc trên trống đồng Đông Sơn chính là sự khắc họa có tính điển hình đầu tiên về chim phượng. Hình chim phượng trên đài thờ bằng bạc thời Nguyễn. Ở Việt Nam, hình tượng chim phượng xuất hiện trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật ở hầu hết các thời đại lịch sử. Linh vật này có một vai trò nổi bật trong văn hóa nghệ thuật thời Nguyễn. Hình tượng chim phượng chạm khắc trên khay rượu thời Nguyễn được trưng bày tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế. Ngày nay, hậu thế có thể chiêm ngưỡng hình tượng chim phượng của vô số cổ vật được tạo tác tinh xảo cũng như các họa tiết trang trí hoa mỹ trong hệ thống kiến trúc cung đình Huế... Mời quý độc giả xem video: Giải mã thông điệp ý nghĩa trống đồng Đông Sơn. Nguồn: Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội. |