Lê Lợi bộ đã bố trí quân ta ở Chi Lăng như thế nào

A.Kiến thức trọng tâm

1.Cửa ải Chi Lăng và hoàn cảnh dẫn tới trận Chi Lăng

  • Chi Lăng là vùng núi đá hiểm trở, đường nhỏ hẹp, khe sâu, rừng cây um tùm.
  • Khi nhà Minh cai trị nước ta, Lê Lợi đưa quân bao vây Đông Quan, nhà Minh lo sơ đã cử hai đạo quân kéo sang phá vây.

2.Diến biến trận chiến Chi Lăng

  • Liễu Thăng cầm đầu một đạo quân tiến đánh vào Lạng Sơn.
  • Đến cửa ải Chi Lăng bị kị binh ta ra chặn đánh và dụ cho đội kị binh địch trong đó có Liễu Thăng vào ải.
  • Khi ngựa chúng bì bõm vượt qua đầm lầy, một loạt pháo nổ như sấm ra hiệu. Lập tức hai bên sườn núi, những chùm tên bắn lao vun vút.
  • Địch tối tăm mặt mũi, Liễu Thăng bị giết, quân bộ theo sau của địch cũng bị ta phục kích tấn công.
  • Quân địch hoảng sợ, hàng vạn quân Minh bị giết, số còn lại rút chạy.

3.Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Chi Lăng

  • Nguyên nhân thắng lợi:
    • Quân ta anh dũng, mưu trí đánh giặc dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi
    • Địa thế Chi Lăng có lợi cho ta.
  • Ý nghĩa lịch sử:
    • Chiến thắng Chi Lăng đã khiến cho mưu đồ cứu viện Đông Quan của quân Minh bị tan vỡ. Quân Minh phải đầu hàng và rút lui về nước.
    • Nước ta hoàn toàn độc lập
    • Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, mở đầu thời Hậu Lê.

Mục lục

  • 1 Bối cảnh lịch sử
  • 2 Lực lượng
    • 2.1 Lực lượng quân Minh
    • 2.2 Lực lượng nghĩa quân Lam Sơn
  • 3 Lê Lợi chuẩn bị chống viện binh
  • 4 Trận Chi Lăng
  • 5 Trận Cần Trạm[28]
  • 6 Trận Phố Cát
  • 7 Trận Xương Giang[35]
  • 8 Đánh bại Mộc Thạnh
  • 9 Kết quả
  • 10 Trong văn học
  • 11 Xem thêm
  • 12 Tham khảo
  • 13 Liên kết ngoài
  • 14 Chú thích

Bối cảnh lịch sửSửa đổi

Tháng 11 năm 1426, quân khởi nghĩa Lam Sơn đại phá quân Minh trong trận Tốt Động – Chúc Động, 5 vạn quân Minh bị diệt, hơn 1 vạn quân bị bắt sống, chưa kể số chạy qua sông Ninh Giang bị chết đuối.[8] Bản thân Vương Thông bị thương.[9] Kế hoạch dùng 10 vạn quân để phản công của Vương Thông bị sụp đổ khiến viên tướng này phải cố thủ trong thành Đông Quan.

Vương Thông bí thế muốn đầu hàng, bèn viết thư xin giảng hòa để rút toàn bộ quân về. Lê Lợi đã bằng lòng cho, sai người đi làm giao ước. Tuy nhiên lúc đó các tướng người Việt là Trần Phong và Lương Nhữ Hốt sợ khi quân Minh rút về thì bản thân mình sẽ bị giết, bèn nói với Vương Thông:[10]

Trước đây quân Ô Mã Nhi bị thua ở sông Bạch Đằng, mang toàn quân quy hàng, Hưng Đạo Vương bằng lòng cho, nhưng lại dùng kế lấy thuyền to chở quân cho về, rồi sai người bơi giỏi sung vào làm phu chở thuyền. Đang đêm ra đến ngoài biển, rình lúc quân Ô Mã Nhi ngủ say, lặn xuống đục thuyền, làm cho những người đã quy hàng chết đuối, không ai sống sót trở về được.[11]

Vương Thông nghe vậy hoảng sợ, nghi ngờ Lê Lợi, bề ngoài tuy nói giảng hòa, nhưng bề trong lại sai người đào hào, rắc chông để phòng thủ và viết thư xin cầu viện vua Tuyên Đức [Minh Tuyên Tông] nhà Minh.[12]

Lê Lợi liền sai các quân ra đánh các thành, các thành Điêu Diêu, Thị Cầu, Tam Giang, Xương Giang, Ôn Khâu, chỉ còn bốn thành Đông Quan, Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh là chưa bị hạ.[13][14]

Theo sách Việt sử tiêu án, khi quân Minh thua trận ở Tốt Động, Chúc Động, Thượng thư Trần Hiệp tử trận, việc đến tai vua Minh, đình thần Minh tranh nhau nói:

Từ khi Hoàng Phúc bị triệu về, Trung quân Mã Kỳ sang thay, khích thành biến loạn ở Giao Chỉ, xin lại cho Hoàng Phúc sang nhậm chức cũ, thì loạn ở Giao Chỉ tự nhiên yên được.

Vua Minh nghe lời, sai Liễu Thăng đem quân cứu viện thành Đông Quan và sai Hoàng Phúc đi tòng quân, chia làm 2 đạo quân: Liễu Thăng đi ra cửa Pha Lũy [Lạng Sơn] là chính binh, Mộc Thạnh đi ra cửa Lê Hoa [Tuyên Quang] làm quân ứng cứu cho Liễu Thăng

Lực lượngSửa đổi

Lực lượng quân MinhSửa đổi

Trước nguy cơ hoàn toàn thất bại, và để cứu đạo quân Vương Thông đang bị vây hãm ở Đông Quan, đầu năm 1427 nhà Minh đã quyết định phái sang Việt Nam hai đạo quân cứu viện lớn, một đạo do Liễu Thăng chỉ huy, một đạo do Mộc Thạnh chỉ huy.[15]

Lực lượng quân Minh theo Đại Việt sử ký toàn thư lên đến 15 vạn quân, trong đó đạo của Liễu Thăng gồm 10 vạn, đạo của Mộc Thạnh gồm 5 vạn. Theo Lam Sơn thực lục thì quân cứu viện đông tới 20 vạn. Trong khi đó, theo Minh sử, cánh quân của Liễu Thăng chỉ gồm 7 vạn. Cả hai viên tướng Liễu Thăng và Mộc Thạnh đều đã có kinh nghiệm chinh chiến ở Việt Nam trước đây. Ngoài ra còn có Lương Minh là viên tướng thiện chiến, Lý Khánh và Hoàng Phúc là 2 viên quan cấp Thượng thư làm tham mưu cho Liễu Thăng.

Lực lượng nghĩa quân Lam SơnSửa đổi

Theo Lam Sơn thực lục, lúc ấy nghĩa quân có 5 vạn tinh binh, Lê Lợi điều tất cả những vị tướng giỏi nhất của mình tham gia chiến dịch.[14] Theo Đại Việt sử ký toàn thư, tổng số quân của khởi nghĩa Lam Sơn, theo lời Lê Lợi, lúc đó là 35 vạn quân.[16]

Buổi đầu số quân của ta có mấy trăm người. Hiện nay có 35 vạn. Đợi khi phá được thành Đông Quan, sẽ cho 25 vạn người về nhà làm ruộng, chỉ để lại 10 vạn làm quân để đề phòng việc nước...

— Lê Lợi - Đại Việt sử ký toàn thư

Con số 35 vạn này có lẽ tính cả dân binh chứ không phải chỉ tính quân chính quy.

Trận Chi Lăng – Xương Giang năm 1427

  • In bài này
  • Gửi Email bài này

Chi tiết Chuyên mục: Quân Sự

Mục Lục [Thu / Mở]

  • Bối cảnh
  • Lực lượng
  • Lực lượng quân Minh
  • Lực lượng nghĩa quân Lam Sơn
  • Lê Lợi chuẩn bị chống viện binh
  • Trận Chi Lăng
  • Trận Cần Trạm[30]
  • Trận Phố Cát[33][34]
  • Trận Xương Giang[39]
  • Đánh bại Mộc Thạnh
  • Kết quả
  • Trong văn học
  • Tham khảo

Tham chiến Chỉ huy Lực lượng Tổn thất
Chiến dịch Chi Lăng Xương Giang

Trận Chi Lăng - Xương Giang năm 1427
.
Thờigian 8 tháng 10 năm 1427 đến ngày 3 tháng 1 năm 1428
Địađiểm Chi Lăng, Xương Giang
Kếtquả Thắng lợi quyết định của nghĩa quân Lam Sơn
Liễu Thăng
Lương Minh
Mộc Thạnh
Thôi Tụ
Hoàng Phúc
Lý Khánh
Lê Sát
Lưu Nhân Chú
Trần Lựu
Phạm Vấn
Lê Văn An
Lê Khôi
Nguyễn Lý
Lê Lãnh
Đinh Liệt
Lê Thụ
Trần Nguyên Hãn
Lê Lỗng
Phạm Văn Liêu
Minh Tuyên Tông
Liễu Thăng
Lương Minh
Lê Lợi
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư là 10 vạn quân do Liễu Thăng chỉ huy, 5 vạn quân do Mộc Thạnh chỉ huy; theo Lam Sơn thực lục có tất cả 20 vạn quân;
Theo Minh sử cánh quân Liễu Thăng có 7 vạn quân, cánh quân Mộc Thạnh có 5 vạn quân
35 vạn quân và dân binh, trong đó có 5 vạn tinh binh.
Bắt sống 3 vạn, giết 7 vạn người. Không rõ
.

Chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang là một loạt trận đánh diễn ra từ ngày 18 tháng 9 năm 1427 đến cuối tháng 10, năm 1427 giữa lực lượng khởi nghĩa Lam Sơn của Việt Nam và 2 đạo quân viện binh nhà Minh do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy. Quân Lam Sơn đã giành được chiến thắng quyết định.

Chiến thắng này khiến cho tướng nhà Minh là Vương Thông hết hy vọng, quyết định giảng hoà, khi chưa được sự cho phép của triều đình nhà Minh.

Lê Lợi đã dùng mưu kế gì để diệt giặc?

Đề bài

Lê Lợi đã dùng mưu kế gì để diệt giặc?

Lời giải chi tiết

Mưu kế mà Lê Lợi đã dùng để diệt giặc là:kế giả thua để dụ giặc và tiêu diệt giặc. Cụ thể:

Liễu Thăng cầm đầu một đạo quân đánh vào Lạng Sơn. Mờ sáng, chúng đến cửa ải Chi Lăng.Kị binh ta ra nghênh chiến rồi quay đầu giả vờ thua để nhử Liễu Thăng cùng đám kị binh vào ải. Kị binh của Liễu Thăng ham đuổi nên bỏ xa hàng vạn quân bộ ở phía sau đang lũ lượt chạy. Khi ngựa của chúng đang bì bõm vượt qua đồng lầy, thì bỗng nhiên một loạt pháo hiệu nổ vang như sấm dậy. Lập tức từ hai bên sườn núi. những chùm tên và những mũi lao vun vút phóng xuống.

Loigiaihay.com

  • Bài 1 trang 46 SGK Lịch sử 4

    Tại sao quân ta chọn ải Chi Lăng làm trận địa đánh địch ?

  • Bài 2 trang 46 SGK Lịch sử 4

    Em hãy kể lại trận phục kích của quân ta tại ải Chi Lăng.

  • Bài 3 trang 46 SGK Lịch sử 4

    Chiến thắng Chi Lăng có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn ?

Video liên quan

Chủ Đề