Luân chuyển hàng là gì

I. Hàng hóa luân chuyển nội bộ là gì?

Hàng hóa luân chuyển nội bộ là hàng hóa được xuất để chuyển kho nội bộ, xuất vật tư, bán thành phẩm, để tiếp tục quá trình sản xuất trong một cơ sở sản xuất, kinh doanh hoặc hàng hóa, dịch vụ do cơ sở kinh doanh xuất hoặc cung ứng sử dụng phục vụ hoạt động kinh doanh.

Xuất hàng hóa để luân chuyển nội bộ trong doanh nghiệp [Ảnh minh họa]

 

II. Khi nào phải lập hóa đơn?

Khi bán hàng hóa, dịch vụ để tiêu dùng nội bộ thì doanh nghiệp phải lập hóa đơn.

Đối với trường hợp xuất hàng hóa để luân chuyển nội bộ, tiêu dùng nội bộ để tiếp tục quá trình sản xuất thì không phải lập hóa đơn và không phải nộp thuế GTGT.

 

III. Lưu ý

Ngoài ra, đối với cơ sở kinh doanh có sử dụng hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng nội bộ, luân chuyển nội bộ phục vụ cho sản xuất kinh doanh như vận tải, hàng không, đường sắt, bưu chính viễn thông thì phải có văn bản quy định rõ đối tượng và mức khống chế hàng hóa dịch vụ sử dụng nội bộ theo thẩm quyền quy định.

Còn trường hợp xuất hàng hóa để tiêu dùng nội bộ mà không phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh thì phải xuất hóa đơn. Trên hóa đơn ghi đầy đủ các chỉ tiêu và tính thuế GTGT như hóa đơn xuất bán hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng.

... hàng công nghệ phẩm tiêu dùng hàng lương thực thực phẩm chế biến.1.1.2 Lưu chuyển hàng hóa Lưu chuyển hàng hóa là tổng hợp các hoạt động mua, bán, dự trữ hàng hóa. Hay nói cách khác, lưu chuyển ... hòa cung cầu, chuyển hàng nơi có nguồn hàng nhiều, phong phú đến những nơi hàng hóa ít, khan hiếm làm cân đối hàng hóa giữa các vùng.1.2 Kế toán mua hàng 1.2.1 Kế toán mua hàng hóa trong nước1.2.1.1 ... khoản 156 hàng hóa , tài khoản này dùng để phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động tăng giảm các loại hàng hóa của doanh nghiệp bao gồm hàng hóa tại các kho hàng, quầy hàng, hàng hóa bất...

Luân chuyển hàng hóa là sự di chuyển hàng hóa từ vị trí này đến vị trí khác bằng sức người hay phương tiện vận chuyển nhằm thực hiện các mục đích thương mại như mua – bán, lưu kho, dự trữ trong quá trình sản xuất – kinh doanh.

Hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh có thể là hàng hoá trong kho hoặc là hàng hóa đang tham gia quá trình sản xuất, kinh doanh Hàng hóa luân chuyển khi dùng để cầm cố, đặt cọc hay ký cược thì được diễn ra hoàn toàn giống như các động sản bình thường khác. Vấn đề chỉ khác khi thế chấp vì ngoài các quy định chung đối với tài sản thế chấp, còn có một số quy định riêng đối với hàng hóa luân chuyển thế chấp. Đó là bên thế chấp được bán, thay thế, trao đổi tài sản thế chấp nếu tài sản đó là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh

2. Khái quát chung về thế chấp hàng hóa luân chuyển 

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, trường hợp tài sản thế chấp là kho hàng thì bên thế chấp được quyền thay thế hàng hoá trong kho, nhưng phải bảo đảm giá trị của hàng hóa trong kho đúng như thỏa thuận. Trên thực tế, các bên nhận thế chấp hàng hóa luân chuyển, không kể hàng hoá có ỏ trong kho hay không, thường yêu cầu bên thế chấp muôn bán, thay thế hàng hóa thì phải bảo đảm số lượng, giá trị hàng hóa đúng như thỏa thuận và chỉ được bán, thay đổi khi có sự đồng ý của bên nhận thế chấp. Tuy nhiên trên thực tế, bên thế chấp có thể bán, thay đổi bất kỳ lúc nào mà không phụ thuộc vào sự đồng ý của bên nhận thế chấp. Trường hợp này, chỉ vi phạm thỏa thuận theo hợp đồng chứ không vi phạm điều cấm của luật, vì vậy tuy là giao dịch sai trái nhưng không bị vô hiệu.

Trong trường hợp bên thế chấp bán hàng hóa luân chuyển thì quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền, số tiền thu được, tài sản hình thành từ số tiền thu được, tài sản được thay thế hoặc được trao đổi trở thành tài sản thế chấp.

Như vậy, các quy định trên đã đương nhiên cho phép bên thế chấp được bán tài sản thế chấp và loại trừ hoàn toàn quyền của bên nhận thế chấp đối với việc thu hồi tài sản thế chấp đã được đăng ký thế chấp hợp pháp, dù bị bán trái với thỏa thuận của các bên. Điều này cũng có nghĩa là, bên mua tài sản thế chấp là hàng hóa luân chuyển luôn được bảo vệ, không cần biết có ngay tình hay không và dù cho giao dịch thế chấp có hay không được công chứng, chứng thực và đăng ký thế chấp. Với những quy định như trên, pháp luật đã mặc nhiên phủ nhận ý chí thỏa thuận của các bên, đồng thời cũng gián tiếp vô hiệu hóa ý nghĩa, tác dụng của cơ chê đăng ký thế chấp tài sản là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh.

Trên thực tế, để phòng ngừa rủi ro thưòng xảy ra, bên nhận thế chấp buộc phải tìm nhiều cách ràng buộc thêm. Chẳng hạn, có một số trường hợp về hình thức pháp lý là hợp đồng thế chấp hàng hoá, nhưng nội dung thỏa thuận cụ thể thì lại có một số nội dung giống với hợp đồng cầm cố. Chẳng hạn như bên thế chấp không giao hàng hóa thế chấp cho bên nhận thế chấp mà giao cho người thứ ba quản lý do bên nhận thế chấp chỉ định hay hàng hóa thê chấp vẫn để trong kho hàng của bên thế chấp nhưng bên nhận thế chấp có quyền giữ chìa khoá và bố trí bảo vệ kho hàng. 

Luật Thương mại năm 2005 quy định: Trường hợp hàng hoá được bán là đối tượng của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự thì bên bán phải thông báo cho bên mua về biện pháp bảo đảm và phải được sự đồng ý của bên nhận bảo đảm về việc bán hàng hóa đó1.

Nghị định số 21/2021/NĐ-CP quy định, hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh và kho hàng được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có thể được mô tả theo giá trị tài sản hoặc theo loại hàng hóa. Việc mô tả đối với tài sản bảo đảm là kho hàng còn phải thể hiện được địa chỉ, số hiệu kho [nếu có] hoặc dấu hiệu khác của vị trí kho hàng. Hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh có thể là hàng hóa trong kho hoặc là hàng hóa đang tham gia quá trình sản xuất, kinh doanh.

3.Hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh và kho hàng

Hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh và kho hàng được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có thể được mô tả theo giá trị tài sản hoặc theo loại hàng hóa. Việc mô tả đối với tài sản bảo đảm là kho hàng còn phải thể hiện được địa chỉ, số hiệu kho [nếu có] hoặc dấu hiệu khác của vị trí kho hàng.

Hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh có thể là hàng hóa trong kho hoặc là hàng hóa đang tham gia quá trình sản xuất, kinh doanh.

4. Thế chấp hàng hóa luân chuyển

Hành lang pháp lý mới về thế chấp hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh vẫn tiềm ẩn khá nhiều rủi ro đối với ngân hàng.

Một trong những nỗi “ám ảnh” của các cán bộ ngân hàng khi nhận tài sản bảo đảm là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh là bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đã có nhiều câu chuyện đau lòng xảy ra do sơ xuất của cán bộ ngân hàng trong việc kiểm tra tài sản thế chấp khi xác lập hợp đồng thế chấp.

Điều 206, Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 [Bộ luật Hình sự] quy định phạt tù từ 6 tháng đến 20 năm đối với hành vi vi phạm quy định pháp luật về điều kiện cấp tín dụng cùng với chế tài cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1-5 năm, tùy theo mức độ thiệt hại về tài sản. “Lỗi” trong quá trình nhận tài sản bảo đảm là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh có thể bị coi là vi phạm quy định pháp luật về điều kiện cấp tín dụng.

Trên thực tế, khi có phát sinh tố cáo của bên thứ ba hoặc yêu cầu của cơ quan thanh tra Ngân hàng Nhà nước liên quan đến khoản vay được bảo đảm bằng hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, ngân hàng luôn bị cơ quan điều tra xem xét trách nhiệm đầu tiên. Cơ quan điều tra thường yêu cầu ngân hàng cung cấp quy định nội bộ về cho vay và nhận tài sản bảo đảm của ngân hàng, các tài liệu và giấy tờ liên quan đến hồ sơ vay, hồ sơ tài sản bảo đảm như tờ trình thẩm định khoản vay, thẩm định tài sản bảo đảm, hồ sơ định giá tài sản bảo đảm, hồ sơ phê duyệt tín dụng...

Đồng thời, cơ quan điều tra thường xác định khi nhận loại tài sản này thì số lượng và giá trị tài sản có đầy đủ không và chất lượng ra sao. Trước đó, cơ quan điều tra đã lấy lời khai của bị can [khách hàng, bên bảo đảm] liên quan đến việc thẩm định và nhận tài sản bảo đảm của cán bộ tín dụng]. Nếu xác định có sự chênh lệch thì cán bộ tín dụng rất dễ bị xem là đã vi phạm các quy định về điều kiện cấp tín dụng.

Sẽ là rủi ro lớn cho cán bộ tín dụng khi cho vay nhận tài sản bảo đảm là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh mà không cẩn trọng hoặc không am hiểu về loại hàng hóa này.

Trên thực tế, khi các ngân hàng đã nhận thế chấp hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nhất là các loại nông sản như cà phê, gạo, sắn lát... thì khối lượng thường lớn, từ vài trăm đến vài ngàn tấn trở lên. Vì vậy, rất khó cân, đo đếm hết được số lượng hàng hóa trong kho. Việc này cùng với việc xác định chất lượng của lượng hàng khổng lồ là không hề đơn giản và không khả thi về mặt kinh tế do sẽ rất mất thời gian, chi phí và hàng hóa bị hư hỏng do không có kho chứa trung gian trong quá trình kiểm đếm. Việc xác định chất lượng hàng trong thời gian qua có thể chủ yếu là thẩm định chất lượng ngẫu nhiên của một số lô/bao hàng bất kỳ.

Chính vì điều này mà trên thực tế, khi một vụ án liên quan đến vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng bị khởi tố thì cán bộ tín dụng rất dễ bị khởi tố hoặc trở thành đồng phạm nếu cơ quan điều tra xác định được lượng hàng hóa tồn kho ngay từ đầu đã bị thiếu hụt, không đúng chất lượng và giá trị như được nêu trong hợp đồng thế chấp và hồ sơ tài sản bảo đảm.

Đôi khi, cán bộ tín dụng hoàn toàn không cố ý nhưng do áp lực chỉ tiêu cho vay, chưa am hiểu về loại hàng hóa nên đã không thực hiện cân đo hàng một cách đầy đủ.

Thực ra, Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành về giao dịch bảo đảm không đặt ra nghĩa vụ đối với ngân hàng là phải đảm bảo số lượng và giá trị hàng hóa nêu trong hợp đồng thế chấp khớp với số lượng và giá trị hàng hóa thực tế được thế chấp. Nếu có sự chênh lệch giữa các con số này thì ngân hàng phải chịu rủi ro về mặt thương mại như đối với mọi giao dịch bảo đảm khác, chẳng hạn khi tài sản là nhà ở được định giá không đúng với giá trị thực tế. Quy định nội bộ của ngân hàng có thể đặt ra nghĩa vụ này nhưng quy định nội bộ đó rõ ràng không phải là văn bản pháp luật!

Điểm d, khoản 2, điều 22, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng [Thông tư 39] lại đặt ra yêu cầu là quy định nội bộ về cho vay của ngân hàng phải có nội dung về “việc quản lý, giám sát, theo dõi tài sản bảo đảm tiền vay phù hợp với biện pháp bảo đảm tiền vay, đặc điểm của tài sản bảo đảm tiền vay và khách hàng”. Điều luật này dường như ngầm định nghĩa vụ quản lý, giám sát và theo dõi tài sản thế chấp của ngân hàng và có vẻ hướng đến chủ yếu tài sản bảo đảm là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh do tính chất đặc biệt của loại tài sản bảo đảm này.

Điều đáng nói là quy định này đi ngược lại tinh thần chung của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Thực vậy, khoản 2 điều 320 của Bộ luật Dân sự quy định là bên thế chấp có nghĩa vụ “bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp” và khoản 1, điều 323, Bộ luật Dân sự cũng nêu rõ là ngân hàng với tư cách là bên nhận thế chấp có quyền “xem xét, kiểm tra trực tiếp tài sản thế chấp […]”. Như vậy, rõ ràng là ngân hàng có quyền [chứ không phải có nghĩa vụ] kiểm tra, giám sát tài sản thế chấp trong thời gian hợp đồng thế chấp có hiệu lực. Bản chất của việc thế chấp tài sản nói chung là tài sản được thế chấp vẫn nằm trong tay của bên thế chấp do không có việc giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp [khoản 1, điều 317, Bộ luật Dân sự] và đối với thế chấp hàng tồn kho luân chuyển thì bên thế chấp lại có thêm quyền bán tài sản thế chấp. Nói cách khác, pháp luật về giao dịch bảo đảm cũng không đặt ra nghĩa vụ giám sát hay quản lý tài sản bảo đảm đối với ngân hàng.

Một điều cần lưu ý là nghĩa vụ quản lý, giám sát và theo dõi tài sản thế chấp của ngân hàng nêu trong Thông tư 39 là nghĩa vụ sau khi xác lập hợp đồng thế chấp và việc vi phạm nghĩa vụ này không thể bị coi là vi phạm quy định pháp luật về điều kiện cấp tín dụng nêu trong Bộ luật Hình sự bởi vì các công việc này diễn ra sau khi đã xác lập hợp đồng vay [sau khi cấp tín dụng] và hợp đồng thế chấp. Điều này ít nhiều sẽ giảm bớt được các nỗi “ưu tư” của cán bộ ngân hàng khi nhận thế chấp loại tài sản đặc biệt này.

5.Thế chấp hàng tồn kho luân chuyển

Hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanhtheo quy định tại khoản 8 Điều 3 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm là động sản dùng để trao đổi, mua bán, cho thuê trong phạm vi hoạt động sản xuất, kinh doanh của bên bảo đảm. Cũng theo quy định khoản 1 Điều 4 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP [được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 00/02/2012] thì:

Khối lượng hàng hóa luân chuyển là gì?

Khối lượng hàng hóa luân chuyển là khối lượng hàng hóa được vận chuyển tính theo chiều dài của quãng đường vận chuyển. Phương pháp tính bằng cách lấy khối lượng hàng hóa vận chuyển nhân với quãng đường đã vận chuyển.

Lưu thông hàng hóa là gì?

Lưu thông hàng hóa là hoạt động trưng bày, khuyến mại, vận chuyển và lưu giữ hàng hóa trong quá trình mua bán hàng hóa, trừ trường hợp vận chuyển hàng hóa của tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa từ cửa khẩu về kho lưu giữ.

Vận chuyển có ý nghĩa gì?

Vận chuyển là nhu cầu thiết yếu của sự phát triển kinh tế nhằm mục đích thay đổi vị trí của hàng hóa và con người từ nơi này đến nơi khác bằng các phương tiện vận chuyển. Trong kinh doanh thương mại vận chuyển hàng hóa vai trò đặc biệt quan trọng.

Luân đồng là gì?

Luân chuyển việc cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý được cử hoặc bổ nhiệm giữ một chức danh lãnh đạo, quản lý khác trong một thời hạn nhất định để tiếp tục được đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện theo yêu cầu nhiệm vụ [theo khoản 11 Điều 7 Luật Cán bộ, công chức 2008].

Chủ Đề