Nêu ý nghĩa biện pháp tu từ so sánh trong bài ca dao

      Yêu thương tình nghĩa là một trong những chủ đề chính của ca dao Việt Nam. Nội dung chủ yếu của các bài ca dao này phản ánh đời sống tình cảm, tình nghĩa trong các quan hệ gia đình, quê hương, đất nước, tình yêu đôi lứa, tình bạn, láng giềng... góp phần tích cực vào việc thể hiện nội dung ấy là một số biện pháp nghệ thuật quen thuộc như so sánh ví von, nhân hóa, ẩn dụ và các mô thức ngôn ngữ...

      Biện pháp nghệ thuật mà ca dao yêu thương tình nghĩa thường xuyên sử dụng là so sánh [còn gọi là tỉ dụ]. So sánh là việc đối chiếu sự vật này với sự vật khác dựa trên những đặc điểm giống nhau nào đó giữa hai sự vật nhằm tạo nên những hình ảnh nghệ thuật mới mẻ tạo những cảm xúc thẩm mĩ cho người nghe, người đọc. Ca dao yêu thương tình nghĩa sử dụng biện pháp so sánh để bóc lột những tình cảm trong sáng, cao đẹp hay những trạng thái cảm xúc cụ thể nào đó của nhân vật trữ tình:

“Tình anh như nước dâng cao

 Tình em như dải lụa đào tẩm hương”.

     Biện pháp so sánh trong ca dao yêu thương tình nghĩa là cách so sánh trực tiếp. Các từ so sánh thường gặp là; “như’, “như thế'’. Nhờ có so sánh, cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình được bộc lộ cụ thể hơn, dễ hiểu hơn:

“Đôi ta như thể con ong

Con quấn con quýt con trong con ngoài".

    Bên cạnh so sánh, nhân hóa cũng là một biện pháp nghệ thuật thường gặp trong ca dao yêu thương tình nghĩa.

“Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai”.

     Nhờ biện pháp nhân hóa, những sự vật vô tri vô giác trở nên có tình có nghĩa. Tình nghĩa ấy cũng chính là tình nghĩa của con người được giãi bày, bộc lộ trong ca dao.

     Cùng với so sánh nhân hóa, ẩn dụ cũng được sử dụng thường xuyên. Ẩn dụ là phép so sánh ngầm, so sánh gián tiếp. Biện pháp này làm cho bài ca dao được rút ngắn và do đó trở nên hàm súc, cô đọng hơn.

“Cô kia đứng ở bên sông

 Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang”.

      Nhiều hình ảnh ẩn dụ được dùng nhiều lần trở thành quen thuộc và dần dẩn trở thành những hình tượng mang tính ước lệ, tượng trưng cao như thuyền - bến, cây đa - bến nước, mận - đào, trúc - mai...

       Ngoài những biện pháp tu từ trên, ca dao yêu thương tình nghĩa còn sử dụng biện pháp lặp, lặp từ ngữ và lặp câu trúc. Việc lặp lại một số từ ngữ hay cấu trúc nào đó trong nhiều bài ca dao đã tô đậm thêm chủ đề và làm tăng thêm sức biểu hiện. Chẳng hạn, trong bài ca dao sau đây, cấu trúc và các từ ngữ ‘Ước gì... để” được lặp lại nhiều lần:

   "Ước gì anh hóa ra gương

    Để cho em cứ ngày thường em soi

     Ước gì anh hóa ra coi

        Để cho em đựng cau tươi trầu vàng”

      Việc lặp lại như vậy đã đem lại giá trị biểu hiện đáng kể. Nó đã thể hiện được khát vọng cháy bỏng của chàng trai luôn muốn được gần gũi bên cạnh người yêu, thỏa nỗi nhớ niềm thương mà chàng dành cho người yêu.

     Trên đây chính là những biện pháp nghệ thuật truyền thống quen thuộc trong ca dao yêu thương, tình nghĩa nói riêng và ca dao Việt Nam nói chung.

Loigiaihay.com

Tìm và phân tích tác dụng của phép so sánh trong câu thơ sau

Công cha như núi thái sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

chỉ ra biện pháp tu từ dc sử dụng trong bài ca dao và nêu tác dụng của phép tu từ đó trong việc diễn tả nội dung toàn bài

công cha như núi ngất trời 

nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông 

núi cao biển rộng mênh mông 

cù lao chín chữ ghi lòng con ơi

Các câu hỏi tương tự

Tóm tắt tác phẩm "tắt đèn" [Ngữ văn - Lớp 8]

3 trả lời

Viết câu sau đây cho hay hơn sử dụng ẩn dụ [Ngữ văn - Lớp 6]

3 trả lời

Viết đoạn văn biểu cảm về 1 việc làm tốt [Ngữ văn - Lớp 9]

5 trả lời

Cho 1 số từ sau [Ngữ văn - Lớp 4]

6 trả lời

Câu thứ nhất nói về “công cha”. Công cha đã từng được so sánh với núi Thái Sơn, ở đây công cha lại được ví với “núi ngất trời", núi hùng vĩ, núi cao chót vót ,cao đến mấy tầng mây xanh, núi chọc trời. Câu thứ hai nói về “nghĩa mẹ”’ nghĩa mẹ bao la, mênh mông, không thể nào kể xiết. Nghĩa mẹ được so sánh với nước ở ngoài biển Đông. Nghệ thuật so sánh và đối xứng đã tạo nên hai hình ảnh kì vĩ, vừa cụ thể hóa, hình tượng hóa, vừa ca ngợi nghĩa mẹ cha với tình yêu sâu nặng. Tiếng thơ dân gian khẽ nhắc mỗi chúng ta hãy ngước lên nhìn núi cao, trời cao, hãy nhìn xa ra ngoài biển Đông, lắng tai nghe sóng reo sóng hát, thủy triều vỗ mà suy ngẫm về công cha nghĩa mẹ Thấm thía và rung động biết bao:

Biện pháp tu từ trong bài ca dao Cày đồng

       - Biện pháp tu từ thứ nhất được sử dụng trong câu ca dao trên là biện pháp so sánh "mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày". Việc so sánh mồ hôi chảy như mưa rơi xuống ruộng để diễn tả sự vất vả cực nhọc của người nông dân làm đồng giữa trưa hè nóng nực oi ả để làm được bát gạo cho người ăn. 

       - Biện pháp tu từ thứ hai được sử dụng trong câu ca dao trên là biện pháp nói quá "mồ hôi thánh thót" để nói lên rằng mồ hôi rơi rất nhiều, lã chã, tưởng chừng như phát ra được âm thanh như tiếng mưa rơi; thể hiện sự vất vả, cực nhọc của người nông dân làm đồng.

Các em cùng Toploigiai tìm hiểu thêm về bài ca dao này nhé!

1. Khái niệm về ca dao

Ca dao [歌謠] là thơ ca dân gian Việt Nam được truyền miệng dưới dạng những câu hát không theo một điệu nhất định, thường phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ, dễ thuộc.

2. Phân loại ca dao

       - Đồng dao: là thơ ca dân gian truyền miệng trẻ em và không có tác giả như vè. Đồng dao được chia thành hai loại: loại gắn với công việc của trẻ em và loại gắn với trò chơi của trẻ em.

       - Ca dao lao động: là phần lời cốt lõi của dân ca lao động. Những bài ca lao động tồn tại như là một bộ phận của quá trình lao động.

       - Ca dao nghi lễ, phong tục: Trong nhiều bài ca tế thần, các yếu tố trữ tình cũng có mặt, cùng với yếu tố hiện thực, chúng biểu hiện sức mạnh của đời sống hiện thực trong các hình thức sinh hoạt tôn giáo trong nhân dân.

       - Ca dao trào phúng, bông đùa.

       - Ca dao trữ tình.

 Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi?

Ước gì sông rộng một gang

Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi

       - Ca dao than thân.

"Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai."

"Thân em cúc mọc bờ rào, 

Kẻ qua ngắt nhụy, người vào bẻ bông."

3. Nghệ thuật trong ca dao

       - Thể thơ: Ca dao sử dụng nhiều thể thơ khác nhau, thể lục bát rất phổ biến trong ca dao; thể song thất lục bát được sử dụng không nhiều; thể vãn thường gồm một câu có bốn hoặc năm chữ, rất đắc dụng trong đồng dao. Ngoài ra ca dao cũng sử dụng hợp thể là thể thơ gồm từ bốn, năm chữ thường kết hợp với lục bát biến thể.

       - Cấu trúc có các loại sau: Cấu trúc theo lối ngẫu nhiên không có chủ đề nhất định; cấu trúc theo lối đối thoại, và cấu trúc theo lối phô diễn về thiên nhiên.

4. Cảm nghĩ về bài ca dao “Cày đồng đang buổi ban trưa”

       - Kho tàng văn học ca dao, dân ca Việt Nam vô cùng phong phú nó như dòng sữa mẹ ngọt ngào, ru chúng ta vào giấc ngủ những trưa hè oi ả. Nó như tình thương bao la mà cha mẹ đã dành cho chúng ta. Trong kho tàng ca dao, tục ngữ ấy thường phản ánh cuộc sống lao động, những tâm tư tình cảm của người dân nghèo lam lũ.

       - Bài ca dao “Cày đồng đang buổi ban trưa” là một bài ca dao thể hiện sự vất vả của người nông dân trong việc lao động làm ra hạt gạo. Nó là lời nhắn nhủ của ông cha ta với con cháu mai sau của mình phải biết trân trọng thành quả lao động mà người khác đã mang lại cho mình
ơn đối với những người đã làm nên những hạt gạo dẻo thơm đó.

Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần

       - Bài ca dao được viết theo thể thơ lục bát truyền thống quen thuộc, những lời ru nhẹ nhàng, chân thực, mộc mạc, giản dị thể hiện tình cảm của người nông dân.

       - Bài ca dao là một lời tâm sự thể hiện sự vất vả của nghề nông khi làm công việc nặng nhọc là cày ruộng, mà “cày” lúc trưa nắng đổ lửa thì vô cùng vất vả.

       - Hình ảnh những giọt mồ hôi của người nông dân lao động rơi xuống được thể hiện nhân cách hóa bằng hai từ “Thánh thót” nghe như tiếng chim hay tiếng sáo thổi. Hai từ “thánh thót” thể hiện chất trữ tình, lãng mạn trong sự vất vả của người nông dân.

       - Những giọt mồ hôi mặn đắng rơi xuống như mưa trên đồng ruộng, thể hiện sự cực nhọc vất vả, vô vàn để làm ra cây lúa, hạt gạo cho chúng ta ăn.

       - Trong hai câu thơ sau “Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần” thể hiện lời nhắn nhủ của những người nông dân với những người đang được hưởng thành quả, thành tựu, trong lao động của mình thì hãy biết trân trọng để người làm ra hạt gạo không cảm thấy tủi phận.

       - Trong hai câu ca dao này cũng nhằm nhắc nhở con cháu hôm nay phải biết trân trọng những thành quả mà cha ông ta đã để lại. Đất nước ta để được bình yên, như hôm nay trẻ em được vui chơi được tới trường thì trong quá khứ đã trải qua nhiều chiến tranh đẫm máu.

       - Trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước biết bao nhiêu mồ hôi, công sức của cha ông ta đã đổ xuống để bảo vệ mảnh đất yêu thương.

       - Vì vậy, khi chúng ta được hưởng thái bình, tự do không nên quên công lao to lớn mà những thế hệ đi trước đã mất mát , gây dựng. Cần biết trân trọng những thành quả mà cha ông để lại, giữ gìn và phát huy nó ngày càng tốt đẹp hơn

       - Bài ca dao đã gửi gắm tới thế hệ hôm nay những lời tâm sự chí tình, chí lý khuyên răn con người sống phải biết nhớ tới công sức lao động, sự hy sinh của người khác dành cho mình.

       - Trong gia đình con cái cũng cần biết nhớ tới công lao sinh thành dưỡng dục của cha mẹ mà báo hiếu, đền đáp có như vậy mới xứng đáng với những giá trị tốt đẹp mà cha ông ta đã truyền dạy.

Video liên quan

Chủ Đề