Niềm vui chung của gia đình cụ cố Hồng thể hiện như thế nào

Niềm vui chung cho cả gia đình cụ cố Tổ thể hiện như thế nào?

Câu 5: Niềm vui chung cho cả gia đình cụ cố Tổ thể hiện như thế nào?

Câu trả lời:
  • Niềm vui chung cho cả gia đình: “cụ cố tổ chết- cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kì thực hành chứ không còn lí thuyết viễn vông nữa" -> Một gia đình đại bất hiếu. Cái chết của cụ cố tổ là niềm hạnh phúc của con cháu bởi đây là niềm mong đợi của chúng đã từ lâu khi cụ cố tổ chết đi chúng sẽ nhân được một số tiền lớn. Mỗi thành viên trong gia đình cụ cố tổ chỉ là những kẻ tham lam độc ác chúng coi tiền bạc là tất cả rồi làm những trò đáng xấu hổ.

Tâm trạng các nhân vật trong Hạnh phúc của một tang gia

Dàn ý chi tiết phân tích tâm trạng các nhân vật

Dàn ý số 1

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề: Số đỏ là cuốn tiểu thuyết ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học có nó cũng là tác phẩm đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Trong đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” tài năng nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng được thể hiện trực tiếp thông qua việc khắc họa tâm trạng và tính cách của từng nhân vật trong câu chuyện.

2. Thân bài

– “Hạnh phúc của một tang gia” thuộc chương V của tiểu thuyết Số đỏ nói về đám ma của cụ cố Tổ.

–> Qua đám ma rình rang, hoành tráng đó tính cách của từng nhân vật dần được bộc lộ.

– Đám ma của cụ cố Tổ diễn ra thật lạ lùng, lạ lùng từ những nghi thức đến thái độ của những thành viên trong gia đình và những người ngoài gia đình.

– Không hề có giọt nước mắt đau khổ, xót thương nào mà ngược lại sự ra đi của cụ cố Tổ còn mang đến hạnh phúc cho tất cả mọi người, nghịch lí này được thể hiện chính trong nhan đề của đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”.

– Tất cả mọi người trong gia đình đều có những niềm vui riêng trước sự ra đi của cụ cố Tổ:

– Không những người trong gia đình cảm thấy hạnh phúc mà niềm vui có khả năng lây lan ra tất cả mọi người ngoài gia đình.

–> Đám ma được tổ chức hoành tráng, nhưng lại mất đi cái trang nghiêm vốn có mà thể hiện đến tận cùng cái lố lăng, thiếu hiểu biết của những người trong gia đình.

3. Kết bài

Thông qua bối cảnh của đám ma, từng lớp mặt nạ của những nhân vật trong truyện được bóc trần, thể hiện đến cùng cái giả dối, giả nhân giả nghĩa của những kẻ tự xưng trí thức, những người thuộc giới thượng lưu danh giá.

Dàn ý số 2

I. Mở bài:

- Giới thiệu những nét tiêu biểu nhất về cây bút hiện thực Vũ Trọng Phụng và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia

- Trong đoạn trích, tâm trạng các nhân vật trước cái chết của cụ cố Tổ là một khía cạnh làm nên chất trào phúng cho đoạn trích

II. Thân bài:

Trước cái chết của một con người, đáng lẽ những người xung quanh phải có thái độ đau buồn nhưng tâm trạng của các nhân vật [kể cả trong gia đình hay ngoài gia đình] đều làm cho người đọc cảm giác phẫn nộ

1. Tâm trạng của những người trong gia đình

- Cụ cố Hồng:

+ Đặc biệt háo danh: mới năm mươi tuổi, cụ cố Hồng mong được gọi là “cố”

+ Sung sướng đến ngây ngất vì nhờ có cái chết thật của cha mình mà được mọi người chú ý, vui vì được diễn trò già yếu trước mọi người

+ Mơ màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc mếu máo để người ta nghĩ “ úi kìa con giai nhớn đã già thế kia kìa”

⇒Con người háo danh bề ngoài, không hề tiếc thương gì trước cái chết của chính người sinh ra mình

- Cụ bà: sung sướng vì ông Đốc tờ Xuân đã không giận mà còn giúp đáp, phúng viếng đến thế, và đám ma như thế kể là đã danh giá nhất

- Ông Văn Minh:

+ Vui vì chúc thư đã đi vào thời kì thực hiện chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa

+ Vò đầu bứt tóc hợp thời trang hợp với một nhà có đám, kì thực, ông ta đang lo gột rửa bằng xà phòng thơm cho quá khứ của Xuân.

⇒ Bất hiếu, đầy dã tâm

- Bà Văn Minh vợ:

+ sốt cả ruột vì mãi không được mặc đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen…

+ mừng rỡ vì được lăng xê những mốt y phục táo tạo nhất.

→ Người cháu thực dụng, thiếu tình người

- Cậu Tú Tân: Điên người lên vì bây giờ mới có dịp dùng đến mấy cái máy ảnh mà cậu đã chuẩn bị từ lâu ⇒ thiếu suy nghĩ, thiếu tình cảm ruột thịt

- Tuyết:

+ Vui vì có dịp mặc bộ y phục “Ngây thơ” để thiên hạ thấy rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh.

+ khuôn mặt buồn, nhưng không phải cái buồn đau thương mà là buồn lãng mạn “đúng mốt” vì chờ mãi chưa thấy bạn trai đâu cả

→ Người con gái hư hỏng, lẳng lơ.

- Phán mọc sừng:

+ Là kẻ trơ trẽn nhất, y vô cùng hãnh diện vì không ngờ “đôi sừng hươu vô hình ai cắm trên đầu mình lại có giá trị như vậy”.

→ Chỉ coi trọng và vui mừng vì mình được thêm một khoản, không có nhân cách, vô liêm sĩ

- Đám cháu con: Một bầy cháu con chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ Tổ.

2. Tâm trạng của những người ngoài gia đình

- Cảnh sát Min Đơ và Min Toa: “giữa lúc không có ai đáng bị phạt…đương buồn rầu…thì sung sướng cực điểm”.

- Bạn bè cụ cố Hồng: những kẻ vừa háo danh, vừa háo sắc, họ chia buồn để khoe khoang các loại râu ria cùng những huân huy chương

- Nhà sư: Sư cụ Tăng Phú sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe, vì sư cụ chắc rằng, trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo

- Hàng phố: đám ma đi đến đâu huyên náo đến đấy, cả phố nhốn nháo khoe đám ma to, thiên hạ chỉ chú ý vào những kiểu quần áo tang...

⇒ Không một ai thực sự tiếc thương cho sự ra đi của người đã mất, đây là những con người không một chút hiếu nghĩa, mất hết tình người

III. Kết bài:

- Khẳng định những nét nghệ thuật tiêu biểu thể hiện thành công tâm trạng của các nhân vật trong đoạn trích: bút pháp hiện thực, nghệ thuật trào phúng…

- Bài học đạo đức rút ra cho bản thân

Vì sao cái chết của cụ cố tổ lại là niềm “hạnh phúc” của mọi thành viên trong đại gia đình cụ? Phân tích những niềm hạnh phúc khác nhau của mỗi người trong đại gia đình cụ cố Hồng và những người đến đưa đám ma do cái chết của cụ cố tổ đem lại.

I. Dàn ý Phân tích tâm trạng của các nhân vật trong Hạnh phúc của một tang gia [Chuẩn]

1. Mở bài

Giới thiệu đoạn trích "Hạnh phúc của một tang gia"

2. Thân bài

- Phân tích tâm trạng của những người trong gia đình cụ cố Hồng:
+ Cụ cố Hồng: "Nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu để mọi người ca tụng để khoe già, khoe danh giá, khoe hiếu và khoe gia đình có phúc.
+ Văn Minh chồng: Khoe những mốt mới của tiệm may u hóa, ông ta vui vì được chia tài sản.
+ Văn Minh vợ: Được dịp mặc những bộ xô gai tân thời, lăng xê những mốt y phục của tiệm may u hóa.
+ Cô Tuyết: Vui vì được mặc bộ y phục "Ngây thơ" để chứng minh cho thiên hạ biết rằng "mình chưa đánh mất cả chữ trinh".
+ Cậu tú Tân: Được dịp khoe tài bấm máy ảnh của mình...[Còn tiếp]

>> Xem chi tiết Dàn ýPhân tích tâm trạng của các nhân vật trong Hạnh phúc của một tang gia tại đây.


1. SOẠN BÀI HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA [Trích Số đỏ], ngắn 1

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

I. Tác giả:

1. Cuộc đời
- Vũ Trọng Phụng [1912-1939] xuất thân trong một gia đình nghèo, quê gốc làng Hảo [Bần Yên Nhân], huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Thân sinh của Vũ Trọng Phụng chuyển lên Hà Nội khoảng đầu thế kỉ XX, làm thợ điện và sớm qua đời vì bệnh lao khi nhà văn mới 7 tháng tuổi.
- Vào đời đúng vào thời điểm xã hội Việt Nam đang bị cuốn vào cơn khủng hoảng kinh tế, Vũ Trọng Phụng liên tục bị mất việc, ông đành phải chọn nghề viết báo, viết văn chuyên nghiệp làm kế mưu sinh.
- Cuộc sống khốn quẫn, công việc cực nhọc, Vũ Trọng Phụng mắc bệnh lao mà không có điều kiện chạy chữa. Ông qua đời năm 1939 tại Hà Nội khi còn một tuần nữa mới đầy 27 tuổi.

2. Sự nghiệp
- Phóng sự: Cạm bẫy người [1933], Kĩ nghệ lấy Tây [1934], Cơm thầy cơm cô [1936], Lục xì [1937]....
- Tiểu thuyết: Dứt tình [1934], Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, Làm đĩ [1936], Lấy nhau vì tình [1937], Trúng số độc đắc [1938]...
- Và hàng chục truyện ngắn nổi tiếng khác. Ngoài ra, Vũ Trọng Phụng còn dịch một số vở kịch và tiểu luận khá dài cùng hàng trăm bài phê bình, tiểu luận, bài báo và xã luận.

3. Phong cách
- Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng được coi là những bức chân dung biếm họa về xã hội hiện thực đương thời. Ông là nhà văn nhiều chất phóng sự nhất, cũng là nhà báo nhiều chất văn chương nhất.
- Vũ Trọng Phụng là nhà văn sớm thể hiện nét sắc sảo của một cây bút hiện đại nhưng đồng thời về sự nghiệp sáng tác cũng như thế giới quan cũng bộc lộ những nét phức tạp, đôi khi mâu thuẫn, gây ngộ nhận và tranh cãi qua một thời gian khá dài trong nhiều thế hệ người đọc.
- Do chuyên chú xây dựng bức tranh xã hội nên ông rất sở trường xây dựng kiểu nhân vật đám đông.
- Ông sử dụng tài tình hai thủ pháp đối lập và cường điệu để làm nổi bật bản chất hiện thực.
- Vũ Trọng Phụng dùng tiếng cười để lật tẩy, tạo điều kiện cho công chúng nhận ra bản chất Âu hoá rởm, thể thao rởm, bình dân rởm, nữ quyền rởm mà thực dân Pháp và chế độ phong kiến lúc bấy giờ muốn tạo ra.

II. VĂN BẢN “HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA”

1. Tiểu thuyết Số đỏ
- Số đỏ được xem là kiệt tác của Vũ Trọng Phụng và cũng là kiệt tác của văn xuôi Việt Nam trước 1945, xuất bản dưới dạng đăng nhiều kì trên Hà Nội báo, bắt đầu từ số 40, từ ngày 7 tháng 10/1936, in thành sách vào năm 1938.
- Số đỏ ra đời như một sự thể hiện thái độ của Vũ Trọng Phụng đối với các phong trào rầm rộ nhưng nông nổi và hời hợt trong xã hội đô thị Việt Nam những năm 30 của thế kỉ trước. Đó là những làn sóng mới với những cái tên rất kêu như: Âu hoá, thể thao, bình dân, nữ quyền nhưng thực chất chỉ là những trò lừa mị, quảng cáo để che đậy lối sống chạy theo vật chất, dục vọng tầm thường và nhiều thú vui phù phiếm của tầng lớp thượng lưu, giàu có mới nổi.

2. Xuất xứ
- Hạnh phúc của một tang gia chính là chương XV trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng xuất bản lần đầu năm 1936. Tên nguyên của chương này trong tiểu thuyết là Hạnh phúc của một tang gia - Văn Minh nữa cũng nói vào – Một đám ma gương mẫu. Nhan đề của đoạn trích là do người biên soạn sách giáo khoa lược bớt.

3. Chủ đích của tác giả
– Suốt mười bốn chương đầu, các nhân vật lần lượt xuất hiện với tính cách hoàn chỉnh. Ở chương XV, mượn bối cảnh đám tang, tác giả để cho xuất hiện kiểu “nhân vật đám đông”. Mỗi nhân vật dù chỉ được miêu tả chấm phá vài nét nhưng bản chất lại bộc lộ khá nổi bật.
- Chủ trương của tác giả trong chương XV là lật tẩy và vạch trần bản chất nhố nhăng, giả dối, lố bịch, vô đạo đức của bọn người mang danh là thượng lưu, quí phái, văn minh. Thực chất chúng chỉ là những quái thai, cặn bã của xã hội thực dân tự sản thành thị nước ta trước Cách mạng.

4. Ý nghĩa của nhan đề đoạn trích
- Lập tức mang tới cho độc giả cảm giác bị hài bởi sự đối lập [tang gia – hạnh phúc].
- Nhan đề cũng phần nào giúp người đọc hình dung được thái độ của con người và bản chất của xã hội đương thời.

5. Đặc trưng trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong đoạn trích
- Nói đến nghệ thuật trào phúng là nói đến các hình thức và thủ pháp gây cười. Những cách thức thông thường mà một cây bút trào phúng sử dụng là tạo sự đối lập, tạo sự phi lí, thúc đẩy kịch tính, kết thúc bất ngờ...
- Ngoài việc sử dụng thành công các hình thức và thủ pháp đó, Vũ Trọng Phụng vận dụng rất thành công bút pháp cường điệu cao độ, phóng đại tột cùng; đặc biệt là thủ pháp miêu tả sự thống nhất mà đối lập một cách tinh tế giữa nội tâm và ngoại hiện nhằm phơi bày và lật tẩy bản chất của đối tượng trào phúng.
+ Cường điệu: nói quá sự thật để nhấn mạnh chi tiết gây cười.
+ Đối lập: phát triển những chi tiết đối lập cùng tồn tại trong một sự vật, con người.
+ Mỉa mai: chế giễu, đay nghiến những điều xấu xa bất hợp lí trong cuộc sống.

6. Những chi tiết mang tính chất cường điệu
- Câu “Biết rồi khổ lắm nói mãi” được cụ cố Hồng nói 1872 lần.
- Một buổi sáng cụ cố Hồng hút hết 60 điếu thuốc phiện...

7. Những chi tiết thể hiện sự đối lập
- Cụ cố tổ chết là mọi người sung sướng [tang gia – hạnh phúc].
- Quyến rũ một em gái, tố cáo tội hoang dâm của một em gái khác và gây ra cái chết cho ông cụ được coi là “hai cái tội nhỏ, một cái ơn to”.
- Sư Tăng Phú “dốc lòng mộ đạo” nhưng coi việc đi hát là “đi dưỡng tinh thần”.
- Văn Minh là nhà cách mạng trong phong trào Âu hóa, thể dục thể thao nhưng “không thể thao, thể dục cũng không”...

8. Những chi tiết thể hiện sự mỉa mai
- Mời nhiều thầy thuốc để thực hành lí thuyết “nhiều thầy thối ma”.
- Những mẫu trang phục trong tiệm Âu hóa “thì có thể ban cho những ai có tang thương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời”...

9. Cái chết của cụ cố tổ được mọi người mong đợi.
- Cái chết của cụ cố tổ đem lại hạnh phúc cho rất nhiều người, kể cả những người trong và ngoài gia đình đó.
- Cụ cố Hồng sẽ hãnh diện vì đám ma to.
- Văn Minh sẽ được thừa hưởng tài sản.
- Cậu Tú Tân sẽ được dịp thể hiện tài năng nhiếp ảnh.
- Bà Văn Minh, cô Tuyết,... sẽ được diện những bộ xô gai tân thời, bắt mắt.
- Những ông bạn của cụ cố Hồng sẽ được dịp khoe hàng đống huy chương.
- Cảnh sát Min Đơ, Min Toa được trả tiền giữ trật tự đám tang.

10. Bản chất của xã hội thượng lưu đương thời
- Lố lăng, đồi bại, học đòi một cách xuẩn ngốc.
- Mỗi con người trong xã hội đó là một tên hề.
- Đạo lí của những kẻ làm con cháu đã hoàn toàn biến chất: chỉ mong cho người đời nhớ đến một “đám ma danh giá” với những đồ kiểu xô gai tân thời, hở hang; sự giàu có, hoành tráng trong việc chụp ảnh, đồ cúng bái... Không một ai thực sự tiếc thương người chết.
- Nghĩa cử với người chết chỉ là cái cớ để những người đi dự thể hiện sự “hơn đời” của mình: các cụ ông ngực đầy huân chương, thanh niên chim chuột nhau, bạn bè khoe quần áo nhà cửa mới sắm...
- Phong tục tập quán bị huỷ hoại: đám ma là sự kết hợp giữa Tây - Ta - Tàu hổ lốn. Có cả kèn đồng của Tây lẫn nhạc cụ của Tàu, có cả Vòng hoa lẫn “lợn quay đi lọng”...

11. Thế giới nhân vật đặc thù
a. Nhân vật Xuân Tóc Đỏ
- Đầu tiên là một kẻ lang thang đầu đường xó chợ được bà phó Đoàn cứu vớt đưa về làm việc ở tiệm may Âu hóa của Văn Minh.
- Nhờ láu cá mà từ một kẻ vô học, vô lại, Xuân trở thành “nhà cải cách”, “anh hùng cứu quốc”.
- Hành vi cử chỉ của Xuân thể hiện hắn là một kẻ lố lăng, bịp bợm, xấu xa đê tiện. Hắn là tổng thể những phẩm chất xấu xa đồi bại của xã hội đương thời.
b. Nhân vật bà phó Đoan
- Một me Tây to béo, dâm đãng nhưng luôn ra vẻ thiếu nữ trinh trắng.
- Thủ tiết với hai đời chồng và được tặng bằng “Tiết hạnh khả phong”.
c. Nhân vật ông Văn Minh
- Một nhà cải cách bịp bợm, chuyên hô hào những điều viển vông mà bản thân không thực hiện được.
- Với thẩm mĩ và văn hóa lố lăng, Văn Minh đã cho thiết kế và lưu hành những bộ trang phục kì quái những tên gọi lạ lùng không kém.
d. Nhân vật ông Typn
- Chính là người thiết kế ra những bộ quần áo lố lăng như dậy thì, ngây thơ, ỡm ờ...
- Cổ xúy mạnh mẽ cho phong trào Âu hóa nhưng lại rất cay cú vì vợ ăn mặc tân thời.
- Kẻ sống không thật với chính bản thân mình.

12. Những đặc sắc nghệ thuật
- Để tạo được sức mạnh đả kích thông qua một thế giới nhân vật hổ lốn kệch cỡm như thế, Vũ Trọng Phụng đã có những dụng công thực sự về mặt nghệ thuật trào phúng.
a. Tạo các chân dung biếm hoạ bằng bút pháp phóng đại, cường điệu
- Biếm hoạ diện mạo, trang phục bằng cường điệu cái lố lăng.
- Biếm hoạ ngôn ngữ và hành vi bằng cường điệu cái lố bịch.
- Đặc tả tâm lí tiểu tư sản nửa mùa bằng cường điệu những cảm xúc và suy nghĩ mang nét quái gở của đối tượng.
b. Sử dụng bút pháp miêu tả tương ứng trong đối lập giữa nội tâm và ngoài hiện để lật tẩy bản chất đối tượng.
- Nhà văn chỉ cho độc giả thấy đằng sau cái dáng điệu ngồi nhắm nghiền mắt lại của cụ cố Hồng mà thoạt nhìn ai cũng tưởng là đã quá đau xót vì mất bố kia thực chất chỉ là do cụ đang mơ màng cái giây phút được thiên hạ trầm trồ khen già, khen đám ma to, khen cái gậy chống tăng gia đẹp như thể một diễn viên đang chờ phút được lên sân khấu diễn kịch trước công chúng.
- Trong cái cách đi đi lại lại, vò đầu, bứt tóc, đăm đăm chiêu chiêu của Văn Minh, con cụ cố Hồng mà ai cũng tưởng ông ta đang căm hờn cái định mệnh khắc nghiệt đã cướp ông nội của anh ta kia kì thực là y đang băn khoăn về vấn đề mời luật sư đến chứng kiến cái chết trên thực tế của cụ tổ để từ đây mà đi, việc chia của không còn là câu chuyện lí thuyết viển vông nữa; là sự quá bối rối về vấn đề không biết xử trí thế nào trước tình thế nan giải giữa hai cái tội nhỏ với một cái công to của Xuân.
- Cứ thế, từ từng nhân vật cho đến cả cái xã hội thượng lưu tư sản nửa mùa ấy bị Vũ Trọng Phụng lật tẩy. Để đằng sau nhà cửa, ngựa xe và các mốt áo quần sang trọng, hợp thời trang tất cả chúng chỉ là lũ ngợm nông cạn, phù phiếm, trần tục, giả dối đang vứt bỏ mọi giá trị truyền thống mà lao vào cái vùng sáng Âu hoá như một lũ thiêu thân.
c. Nghệ thuật pha trộn giọng điệu để tạo giọng điệu mới
- Giọng hài hước bông đùa pha trộn với giọng châm biếm, công kích
- Giọng giễu nhạt pha trộn với giọng giả vờ nghiêm trang
- Giọng tường thuật khách quan pha trộn với bình luận dí dỏm mà cay độc.
d. Nghệ thuật pha trộn từ ngữ để tạo từ ngữ mới
- Tiếng khóc: Hút... hứt..hứt... của Phán mọc sừng trong đám tang cụ tổ rõ ràng là độc nhất vô nhị. Trong muôn vàn cung bậc của nỗi đau thương phát ra bằng âm thanh ta chưa từng nghe cái thanh âm nào lại là như thế. Vũ Trọng Phụng đã tạo ra nó dựa trên cơ sở nào? Bởi trong bụng Phán mọc sừng vui, đang hoan hỉ với tiếng cười Hì...hì... hì... do số tiền vài nghìn đồng được chia nhờ cái chết của cụ tổ nhưng ngoài mặt thì y không thể không làm ra bộ đớn đau, thương tiếc nên nó phải vờ khóc Hu.. hu..hu... Vũ Trọng Phụng đem trộn cả hai thứ ấy vào nhau, thành ra cái tiếng Hứt... hứt...hứt... quái lạ ấy.
- Kĩ thuật pha trộn từ ngữ này của Vũ Trọng Phụng còn được sử dụng và lần nữa trong một số sáng tác. Điển hình là tiếng Nhịa của ông cụ thân sinh Nguyễn Văn Phúc trong Trúng số độc đắc. Tiếng khóc quái lạ ấy của nhân vật nhìn ở góc độ khác còn là một thứ tín hiệu để gọi đối tác nhằm hoàn thành công việc thanh toán tiền công cho Xuân, kẻ đã tình cờ gây ra cái chết của cụ tổ ngay trong đám tang! [Nguyễn Văn Phượng].

B. TỰ LUẬN
1. Phát biểu suy nghĩ của anh [chị] nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.
Nét đặc sắc về nghệ thuật của tiểu thuyết Số đỏ và cũng là của đoạn trích là chỗ, Vũ Trọng Phụng đã tạo được một tình huống nghệ thuật độc đáo và đã thể hiện tài năng của một nhà văn hiện thực sắc sảo qua nghệ thuật trào phúng bậc thầy đặc biệt là ở tài nghệ siêu việt trong việc luôn tạo ra sự bùng nổ mâu thuẫn dây chuyền nhằm duy trì tiếng cười thường trực với mọi cung bậc gây nên một trận cười dài càng về sau càng hấp dẫn [trong khi tiếng cười trong dân gian thường bật ra nhanh và kết thúc gấp].

Tình huống nghệ thuật độc đáo
- Đoạn trích cũng đã tạo được một tình huống trào phúng thật độc đáo.
- Đó là cái chết của cụ tổ và thái độ ứng xử của đám con cháu. Cái chết của cụ tổ đã thực sự đem lại niềm vui lớn lao cho cái đại gia đình bất hiếu ấy. Bởi vì, cái chết ấy tựa như một hỉ tín vừa cáo chung một khoảng thời gian dài mong mỏi và chờ đợi vừa mở ra một kỉ nguyên mới – kỉ nguyên thực hành tờ di chúc của người đã khuất, tức là kỉ nguyên chia của và hưởng thụ. Một tình huống nghệ thuật độc đáo, tự nó, mang ý nghĩa của một sự cố đặc biệt, đánh thức những phẩm chất sâu kín của tất cả các nhân vật mà bình thường chúng muốn che giấu. Theo nghĩa đó, cái chết của cụ tổ có giá trị của một sự kiện quan trọng lật tẩy bản chất thực sự của tất cả các thành viên trong gia đình ấy. Nét sắc sảo của ngòi bút Vũ Trọng Phụng là ở chỗ ông miêu tả sự kiện trên tựa như một cú hích làm tất cả quay 180 độ. Ngay sau cái chết của cụ cố tổ, mọi thành viên trong cái đại gia đình thượng lưu, giàu có ấy lập tức vất bỏ các vai diễn về lòng hiếu thảo giả vờ, thái độ tận tuy giả vờ, tâm trạng lo lắng giả vờ để trở về với con người thật của chúng: bận rộn tổ chức đám tang trong niềm háo hức, hoan hỉ với số của nả, tiền bạc mà người chết để lại.
Viết về sự đồi bại của con người thông qua thái độ của nó trước cái chết nhưng sử dụng tình huống đám tang là nét khác người và cũng là sở trường của Vũ Trọng Phụng.
Đây là tình huống điển hình vì thái độ của con người trước cái chết của đồng loại và người thân thường là thước đo chính xác và chân thực phẩm giá con người. Ban-dắc bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực cũng soi tính cách của các nhân vật thượng lưu và bình dân qua cái chết của lão Gô-ri-ô [Trích đoạn: Đám tang lão Gô-ri-ô]
Qua trích đoạn chương XV, tác giả muốn phơi bày bản chất xấu xa của cả hai loại nhân vật: đám người quý phái, thượng lưu và tầng lớp bình dân lưu manh qua đại diện là Xuân Tóc Đỏ.

Chất trào phúng trong nhan đề
- Hạnh phúc của một tang gia là nhan đề đã được lược bớt của chương XV trong tác phẩm. Tên đầy đủ do tác giả tự đặt là: Hạnh phúc của một tang gia - Văn Minh nữa cũng nói vào - Một đám ma gương mẫu.
- Chọn đặt nhan đề Hạnh phúc của một tang gia tác giả đã thu hút ngay từ đầu sự chú ý của người đọc vào một mâu thuẫn mang tính trào phúng. Gia đình có tang mà lại hạnh phúc? Gia đình có người chết mà lại vui vẻ, sung sướng?
Nếu quả thật trong thực tế có chuyện trái khoáy, ngược đời đó thì hạnh phúc ở đây chỉ có thể hiểu là hạnh phúc của một gia đình vô phúc, niềm vui ở đây chỉ có thể hiểu là niềm vui của một lũ con cháu đại bất hiếu mà thôi.
Câu cửa miệng người ta thường nói tang gia bối rối vốn để chỉ tình cảnh bận rộn, lúng túng, lo lắng, rối bời trước mất mát của một gia đình có tang, thì ở đây tác giả cũng đã dựng lên đúng cảnh bối rối thực sự của cái đại gia đình cụ cố Hồng vào lúc cụ tổ qua đời. Tuy nhiên, toàn bộ sự lo lắng, bận rộn ở đây trong thực chất chỉ là lo làm sao để tổ chức cho thật to, thật linh đình một ngày vui, một đám hội cho mọi thành viên trong gia đình và thiên hạ cùng chúng kiến và thưởng thức một đám ma gương mẫu. Còn bối rối? Thì quả là có bối rối thật. Nhưng là cái bối rối lo làm sao giải quyết cho xong một vài việc còn dang dở đối với một vài thành viên trong gia đình để niềm vui và hạnh phúc do cái chết của cụ tổ đưa lại được thực sự mĩ mãn.
=> Như vậy, nhan đề Hạnh phúc của một tang gia vừa gây sự chú ý bởi tính hài hước, mỉa mai về một sự thật có vẻ ngược đời, trái khoáy nhưng đáng buồn thay lại đang xảy ra trong thực tế; vừa cho người đọc thấy mà suy ngẫm về một vấn đề khác lớn hơn và đáng lo ngại hơn: tâm lí thực dụng tư sản, tâm lí bất chấp tất cả để chạy theo vật chất và đồng tiền trong xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ đang chà đạp và làm băng hoại những giá trị đạo đức truyền thống từng được coi là thiêng liêng và đáng trân trọng nhất của một xứ sở.

Tài nghệ trào phúng qua xây dựng các chân dung biếm hoạ
- Chân dung biếm hoạ cá nhân
Cái chết của cụ cố tổ, như đã phân tích, rõ ràng là một sự kiện đem lại hạnh phúc cho mọi thành viên trong gia đình của cụ. Điều có vẻ như một nghịch lí này, oái ăm thay lại là một sự thực khá mỉa mai và tàn nhẫn khi ta soi vào tâm trạng và hành vi của từng thành viên trong đại gia đình ấy.
Ông Phán mọc sừng là thành viên được tác giả nhắc đến đầu tiên trong đám người nhận được tin vui ngay sau cái chết của cụ cố tổ. Cũng không phải ngẫu nhiên cụ cố Hồng lại chọn ông con rể quý hoá ấy là người đầu tiên để nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và rể một số tiền là vài ngàn đồng. Vì chính ông [xứng đáng là một đạo diễn tài ba] đã chỉ đạo cho anh chàng diễn viên tài ba là Xuân Tóc Đỏ nói cái câu cần nói cho cái người cần và phải được nghe, là cụ cố tổ. Cái kết quả ngoài cả sự mong đợi của mọi người ấy, xét một cách khách quan thì công lớn thuộc về Xuân nhưng công đầu vẫn phải thuộc về ông vì, thử hỏi, mọi người sẽ còn phải đợi cái chết của ông cụ già đáng chết đến bao giờ nữa, nếu không có ông khôn ngoan đã trù tính trước và cài đặt cái câu: Thưa ngài, Ngài là một người chồng mọc sừng! vào miệng Xuân để Xuân, trong một cơn tức giận chính đáng, nã luôn cái câu nói ấy vào mặt cụ cố tổ?
Cho nên, ông xứng đáng là người đầu tiên được hưởng thành quả từ cái chết của cụ tổ và phải là người đầu tiên được nghe cái lời hứa quý hoá của nhạc phụ về món tiền đáng kể kia. Niềm vui của ông đơn giản và khá phàm tục những trải qua các cung bậc đúng với tâm lí của hạng con buôn gặp món bờ: từ ngạc nhiên vì không ngờ giá trị của đội sừng hươu vô hình trên đầu mà lại to đến thế đến tâm trạng hào hứng mơ tưởng một cuộc hợp tác doanh thương hiển hách với Xuân và dâng lên tới đỉnh với niềm phấn khích muốn gặp ngay Xuân để trả nốt năm đồng.
Niềm vui của cụ cố Hồng thuộc kiểu hiếu danh mù quáng đến mức ngu xuấn và lố bịch. Đối với nhân vật kì quặc này, ông cụ thân sinh qua đời sẽ là một cơ hội hiếm có để cụ Hồng lên chức cụ cố trước mắt bàn dân thiên hạ mặc dù về tuổi trời, cụ mới ngoài năm mươi! Thế nhưng chỉ cần mơ tưởng đến thời khắc vinh danh ấy cụ sung sướng mê tơi đến mức nhắm nghiền mắt lại rồi mơ màng rồi tưởng tượng ra cái cảnh đau đớn, khổ não của mình cùng lời trầm trồ khen ngợi của đám đông đứng xem đám tang.
- Niềm hạnh phúc của Văn Minh, con trai cụ cố Hồng có thể tạm gọi tên là niềm hạnh phúc điển hình của đám con cháu đại bất hiếu nhuốm màu lạnh lùng kiểu Tây phương hạ lưu. Đối với Văn Minh, cái chết của cụ tổ là một nốt son trong lịch sử gia đình. Vì nó chấm dứt cái thời kì chờ đợi sốt ruột và mỏi mòn thực đáng ghét để bước sang kỉ nguyên chia của và hưởng lợi đầy hân hoan! Tâm trạng rộn ràng khiến Văn Minh bấn lên với bao nhiêu sự chen lấn giữa ngôn ngữ pháp đình với ngôn ngữ biểu cảm, tình thái nào luật sư, lí thuyết, thực hành, tố cáo, phạm tội, băn khoăn, phiền, phân vân...
Niềm vui của sự cụ Tăng Phú thì lộ hẳn ra ngoài qua vẻ vênh váo ngồi trên một chiếc xe tham gia vào đội quân đưa tang cụ tổ mà như thể đang cùng một đội quân ca khúc khải hoàn và chắc mẩm rằng trong số thiên hạ đúng xem ở các phố thế nào cũng có người nhận ra rằng sự cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo, và như thế thì là một cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ mõ mà Tăng Phú giữ vai trò cố vấn.
Các thành viên còn lại chỉ thực sự hạnh phúc khi cụ Hồng ra lệnh phát phục. Bởi đám tang cụ tổ là một sự kiện để mỗi người nhân đó có dịp trình diễn cái vai trò của cá nhân mình trước xã hội: bà Văn Minh sẽ trình diễn đồ xô gai thuộc dạng mốt tân thời, Tuyết sẽ trình diễn bộ y phục cũng thuộc dạng mốt tân thời có tên là Ngây thơ để tiện thể cải chính với thiên hạ rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh, cậu Tú Tân sẽ trình diễn tài nghệ chụp ảnh trong đám tang, còn ông TYPN thì sẽ lắng nghe báo giới bình phẩm ra sao về những thiết kế trang phục của hiệu may Âu hoá.

- Chân dung biếm hoạ tập thể
Niềm hạnh phúc do cái chết của cụ tổ đem lại không chỉ tràn ngập tâm hồn các thành viên trong gia đình cụ cố Hồng mà còn ban phát cho cả nhiều hạng người ngoài xã hội.
Đó là niềm vui bỗng lại có công ăn việc làm, tức là được thuê giữ trật tự cho đám ma, đồng nghĩa với, cái mà ngôn ngữ thông tục ngày nay gọi là có lộc của hai cảnh binh thuộc bộ thứ 18 Min Đơ và Min Toa; là niềm vui của những ông bạn thân bạn cụ cố Hồng, nhân dịp đến chia buồn với tang gia mà tiện thể khoe công trạng một đời công chức của họ với đủ loại huân chương như: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Miên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh, vân vân. Tuy nhiên, cái đám đầy đủ râu ria rất đáng kính ấy còn mãn nguyện hơn nữa khi đến chia buồn bỗng lại được hưởng chút niềm vui khá trần tục là thưởng thức cái làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết.
Với đám giai thanh, gái lịch Hà thành, những kẻ không dính líu chút nào về quan hệ bà con, họ hàng với người đã khuất thì niềm vui của họ là được đến đám tang để có cơ hội khoe về chuyện vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may. Đây cũng là dịp để họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau nữa, tất nhiên.
Nhưng người hạnh phúc nhất có lẽ là Xuân dù anh ta có vẻ như không ý thức được điều đó. Cái chết của cụ tổ đem lại cho Xuân hai món hời gồm cả danh dự lẫn tiền bạc. Về danh dự, cái chết của cụ tổ đã khiến cho danh dự của Xuân to thêm. Về tiền bạc, Phán mọc sừng đã lập tức thanh toán hợp đồng giết người ngay trong đám tang!
Theo như sở nguyện của hai vợ chồng cụ cố Hồng thì đám ma cụ tổ phải là một đám ma mẫu mực, to tát chưa từng có và cái đại gia đình ấy đã làm được điều đó.
Tuy nhiên, đây là một đám tang mẫu mực cho sự biến tướng quái gở trong lối sống của lớp người giàu có mới nổi chỉ còn biết nghe theo tiếng gọi của những thú vui phù phiếm, tầm thường, vô nghĩa lí với bất cứ sự kiện gì cũng có thể tạo thành một cuộc hội hè cho dù có là một đám tang đi nữa.
Điệp khúc “đám cử đi” đã biểu lộ cho ai cũng có thể thấy đám tang đích thực là một đám rước, càng đi càng đông, đưa đi đến đâu làm huyên náo đến đây.
Về tổ chức, đám tang này theo phong cách hổ lốn!
Nhạc điều thì có đủ kèn Ta, kèn Tầu, kèn Tây thay nhau mà rộn lên như thể đua nhau mà tạo tiếng ồn.
Phúng viếng lại càng đa tạp, trong cả ra đường hàng trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa...
Người đưa tiễn kẻ quá cố đông đúc, sang trọng nhưng chen lẫn giữa xe và người. Đã thế lại có đến một nửa là phụ nữ, phần lớn là tân thời. Chính vì thế mà càng ồn ào, huyên náo. Sự huyên náo, hỗn tạp do sự đua chen giữa các kiểu lời: từ thì thầm trò chuyện về vợ con, nhà cửa để khoe một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may đến việc chim nhau, cười tình với nhau, hẹn hò nhau bên cạnh những lời bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau lại còn những lời thì thào cùng nhiều câu vui vẻ, ý nhị khác nữa. Tất cả được che giấu qua quýt bằng những vẻ mặt làm ra bộ nghiêm chỉnh hoặc buồn rầu nữa do đó mà giả dối, hài hước, đồi bại và lố lăng phô bày trọn vẹn sự suy đồi phong hoá.
Từ niềm hạnh phúc của các nhân vật do cái chết của cụ tổ đem lại và cảnh tượng của cái đám ma gương mẫu có thể thấy, qua sự lật tẩy sắc sảo của nhà văn Vũ Trọng Phụng, xã hội tư sản đương thời thực chất chỉ là sản phẩm quái gở của cơn sốt Âu hoá nông nổi và lố lăng phô bày trọn vẹn bản chất giả dối, suy đồi của nó. Thái độ của nhà văn về cái xã hội tư sản nửa mùa này là khinh bị, nhạo báng một cách cay độc trong một tiếng cười trào phúng mang sức mạnh triệt hạ, huỷ diệt. [Nguyễn Văn Phượng]

Xem tiếp các bài soạn để học tốt môn Ngữ Văn lớp 11

- Soạn bài Hai đứa trẻ
- Soạn bài Ngữ Cảnh

Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia [chi tiết]

Video hướng dẫn giải

Câu 1

Video hướng dẫn giải

Câu 1 [trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1]

Hạnh phúc của một tang gia là một phần của nhan đề chương XV tiểu thuyết Số đỏ do chính Vũ Trọng Phụng đặt. Anh [chị] co suy nghĩ gì về nhan đề này và tình huống trào phúng của đoạn trích?

Lời giải chi tiết:

- Cách đặt tên nhan đề rất lạ, gây cảm giác tò mò, chú ý cho người đọc và cũng thể hiện một nghịch lý nực cười: trong tang gia mà lại có hạnh phúc.

- Mâu thuẫn trào phúng cơ bản nằm ngay trong nhan đề. Đám con cháu vô cùng hạnh phúc trước cái chết của cụ Tổ vì họ đã phải chờ đợi quá lâu. Cụ cố Tổ mất đi đối với con cháu này lại là một niềm sung sướng vì chúng sẽ được hưởng gia tài.

- Trong đoạn trích này, tác giả cũng dựng nên bối cảnh của một tang gia bối rối; chẳng những bối rối mà còn rất lo lắng và bận rộn. Nhưng nghịch lý lại tiếp tục được bộc lộ khi lo lắng, bận rộn không phải cho một đám ma mà là lo tổ chức cho chu đáo, linh đình một ngày vui, một đám hội. Như vậy, cách đặt tiêu đề vừa gây chú ý cho người đọc, vừa phản ánh đúng một sự thật mỉa mai, hài hước và tàn nhẫn.

Câu 2

Video hướng dẫn giải

Câu 2 [trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1]

Vì sao cái chết của cụ cố tổ lại là niềm hạnh phúc của mọi thành viên trong gia đình cụ? Phân tích những niềm hạnh phúc khác nhau của mỗi người trong đại gia đình cụ cố Hồng và những người đến đưa đám ma do cái chết của cụ cố tổ đem lại.

Lời giải chi tiết:

- Cái chết của cụ cố tổ lại là niềm hạnh phúc của mọi thành viên trong gia đình cụ vì con cháu sẽ được hưởng gia tài.

- Niềm hạnh phúc của mỗi thành viên:

+ Cụ cố Hồng mơ màng nghĩ đến cảnh mình mặc đồ xô gai chống gậy ho lụ khụ để thiên hạ bình phẩm ngợi khen.

+ Bà văn minh thì sốt cả ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen.

+ Cô Tuyết sẽ có dịp khoe thân thể nõn nà của mình, mặc một bộ áo thơ ngây để chứng tỏ mình còn trong trắng.

+ Những người đến dự tang thì như là cụ cố chết đi để có một buổi họp mặt và khoe đủ thứ trang phục hoặc phê bình đủ kiểu…

=> Mỗi người đều có những niềm hạnh phúc riêng, nhưng bọn chúng chỉ hành động như những kẻ bất hiếu. Qua đây phê phán những kẻ lố lăng đồi bại và có những hành động không có nhân tính và toàn những kẻ bất hiếu.

Câu 3

Video hướng dẫn giải

Câu 3 [trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1]

Anh [chị] hãy phân tích cảnh "đám ma gương mẫu".

Lời giải chi tiết:

- Toàn cảnh đám tang khiến cho người đọc hình dung được sự nhốn nháo, pha tạp Tây Tàu của đám tang. Nó làm lộ rõ vẻ học đòi vô học và rởm đời của tang chủ:

+ Đủ cả kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu.

+ Hàng trăm câu đối, vòng hoa, bức trướng.

- Khi miêu tả cận cảnh, tác giả chú ý đến những hành động, những lời bàn tán thầm thì của những người đi đưa đám. Những câu chuyện chẳng liên quan gì đến người chết.

- Nhà văn đã lặp lại điệp khúc “Đám cứ đi…” như một sự châm biếm ngầm. Một đám ma hỗn độn và hài hước, pha tạp đủ thứ, học đòi đủ kiểu để khoe khoang. Xe chở người chết cứ đi, người đưa cứ chim chuột nhau, con cháu cứ hưởng thụ niềm hạnh phúc sung sướng của mình. Mỗi người một tâm lý, một mục đích khác nhau, hội tụ lại để thực hiện “nghĩa tử là nghĩa tận” với người chết. Điểm nổi bật nhất và chung nhất của đám người này là sự giả dối, thói đạo đức giả.

Câu 4

Video hướng dẫn giải

Câu 4 [trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1]

Từ niềm "hạnh phúc" của các nhân vật do cái chết của cụ cố tổ đem lại và cảnh tượng của cái đám tang gương mẫu, anh chị nhận xét như thế nào về xã hội thượng lưu thành thị đương thời? Thái độ của nhà văn với xã hội này ra sao?

Lời giải chi tiết:

- Một xã hội suy tàn với những chế độ thối nát, tác giả đã miêu tả đầy đủ những hình ảnh đó để thể hiện những hình ảnh chi tiết trong đoạn văn, hình ảnh này biểu tượng cho một điều đó là đồng tiền làm mờ mắt con người họ chỉ biết đến tiền mà không biết đến tình người.

Câu 5

Video hướng dẫn giải

Câu 5 [trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1]

Anh [chị] nhận xét gì về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng ở đoạn trích này?

Lời giải chi tiết:

- Từ một tình huống trào phúng cơ bản –Hạnh phúc của một tang giađược tác giả triển khai mâu thuẫn theo nhiều tình huống khác nhau, tạo nên một màn hài kịch lớn, phong phú và biến hóa khôn lường gây nhiều thú vị cho người đọc. Một trong những thủ pháp quen thuộc được tác giả sử dụng là phát hiện những chi tiết đối lập gay gắt nhưng cùng tồn tại trong một sự vật, một con người để từ đó làm bật lên tiếng cười châm biếm.

- Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều thủ pháp cường điệu: nói ngược, nói mỉa mai… sử dụng đan xen linh hoạt trong đoạn trích và đều mang lại hiệu quả nhất định. Chẳng hạn, cái chết của cụ tổ khiến mọi người trong cái đại gia đình bất hiếu không ai giống ai. Đặc biệt, đám rước đưa ma được tổ chức nhố nhăng, lố bịch và trở thành cơ hội tốt để mọi người gặp gỡ, giao lưu, phô trương thanh thế và cười cợt, nói xấu, mỉa mai, chim chuột nhau...

- Tác giả còn có con mắt tinh đời để nhìn thấy và miêu tả đúng cái nét riêng của từng nhân vật xuất hiện trong đoạn trích. Ngòi bút miêu tả của Vũ Trọng Phụng linh hoạt, biến hóa, giàu yếu tố hài hước gây cười và sắc sảo tinh tế đến từng chi tiết nhỏ. Vũ Trọng Phụng xứng đáng là một bậc thầy – một nhà văn hiện thực xuất sắc trong việc sử dụng nghệ thuật trào phúng.

Luyện tập

Câu hỏi [trang 128 SGK Ngữ văn 11 tập 1]

Hãy chỉ ra những mâu thuẫn và những chân dung trào phúng ở đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.

Lời giải chi tiết:

Những mâu thuẫn và chân dung trào phúng trào phúng trong đoạn trích:

* Mâu thuẫn trào phúng trong đoạn trích:

- Câu chuyện của Xuân tóc đỏ và cái chết của cụ tổ. Một kẻ có tội như Xuân ngờ đâu lại trở thành có đại công với gia đình.

- Mâu thuẫn trào phúng còn thể hiện ngay trong tựa đề của chương này “Hạnh phúc của một tang gia”.

- Miêu tả tỉ mỉ niềm hạnh phúc của mọi người trước cái chết của cụ cố tổ

=> Vũ Trọng Phụng đã lột bộ mặt thật của xã hội lố lăng, chuộng hình thức, không chút tình người, vạch trần chân tướng của những hạng người mang danh thượng lưu trí thức, văn minh nhưng thực chất là cặn bã, đạo đức giả

* Những nhân vật trào phúng: cụ cố Hồng, vợ chồng Văn Minh, cô Tuyết, cậu Tú Tân, ông Phán mọc sừng, Xuân Tóc Đỏ. Bên cạnh đó là chân dung của những người ngoài gia đình [hai tên cảnh sát Min Đơ, Min Toa, bạn cụ cố Hồng...].

=> Tác giả tái hiện được thực trạng xã hội thượng lưu với bản chất gian manh, lố bịch, rởm đời lúc bấy giờ.

Tóm tắt

Cái chết của cụ già và những người có công lớn nhất gây ra cái chết ấy là Xuân tóc đỏ. Tác giả tái hiện lại quá trình chạy chữa để giải thích nguyên nhân cái chết của ông cụ. Những bài thuốc khủng khiếp của các ông lang và sự bối rối của cụ cố Hồng khi cha chết cũng được nhà văn chú ý miêu tả trong đoạn này. Đám con cháu vô cùng hạnh phúc trước cái chết của cụ Tổ vì họ đã phải chờ đợi quá lâu. Họ vô cùng sốt ruột vì việc chuẩn bị nghi lễ được tiến hành quá chậm chạp. Mỗi người một tính toán, một niềm hạnh phúc riêng nên họ háo hức chờ đợi đám tang. Tác giả tập trung miêu tả cảnh đám tang. Đặc biệt chú ý đến những người được hưởng hạnh phúc từ đám tang này, từ người được thuê trông coi, khách dự đám đến cô Tuyết và đám con cháu. Nổi bật nhất trong đám tang là cô Tuyết với phục tang mang tên Ngây thơ. Đám tang được tổ chức linh đình. Xuân xuất hiện vào giờ chót khiến cụ bà và Tuyết rất cảm động. Cảnh đưa tang. Đám tang được giễu qua các phố, đi đến đâu làm nhốn nháo đến đó. Những người tham gia đám tang đều rất thời trang, họ thì thầm những câu chuyện đang là mốt của thời thượng, họ tán tỉnh, chim chuột nhau. Cảnh hạ huyệt. Cậu Tú Tân say sưa chụp ảnh. Cụ cố Hồng cố tỏ vẻ đau khổ, ông Phán vừa khóc than thảm thiết vừa lén trả tiền công cho Xuân vì Xuân đã gây ra cái chết của ông cụ.

Bố cục

Video hướng dẫn giải

Bố cục: 3 phần

- Phần 1[từ đầu đến "cho Tuyết vậy"]: Niềm vui và hanh phúc của các thành viên khi cụ tổ qua đời

- Phần 2[tiếp đến "đám cứ đi"]: Cảnh đám ma gương mẫu

- Phần 3[còn lại]: Cảnh hạ huyệt

ND chính

Video hướng dẫn giải

Qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia, thấy được bản chất lố lăng, đồi bại của xã hội thượng lưu thành thị những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945.

Loigiaihay.com

  • Soạn bài Vội vàng - Ngắn gọn nhất

    Soạn Văn lớp 11 ngắn gọn nhất tập 2 bài Vội vàng - Xuân Diệu. Câu 2: Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu được nói đến trong 11 câu thơ được thể hiện như sau:

  • Soạn bài Tràng Giang - Ngắn gọn nhất

    Soạn Văn lớp 11 ngắn gọn tập 2 bài Tràng Giang - Huy Cận. Câu 2: Âm điệu chung của bài thơ Tràng Giang

  • Soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ - Ngắn gọn nhất

    Soạn Văn lớp 11 ngắn gọn tập 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử. Câu 1: Phân tích nét đẹp phong cảnh và tâm trạng của tác giả trong khổ thơ đầu:

  • Soạn bài Luyện tập thao tác lập luận bác bỏ - Ngắn gọn nhất

    Soạn Văn lớp 11 ngắn gọn tập 2 bài Luyện tập thao tác lập luận bác bỏ. Câu 1: a.* Nội dung bác bỏ: một quan niệm sống sai lầm- sống bó hẹp trong cửa nhà mình.

Video liên quan

Chủ Đề