Ông Hai nói Làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà là dùng cách nói nào

Bài tập vận dụng qua truyện ngắn làng của kim lân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [40.06 KB, 8 trang ]

Bài tập vận dụng:
Bài tập 1: Tình huống truyện là gì? Vai trò của tình huống truyện trong truyện
ngắn “Làng” của Kim Lân.
=> Gợi ý:
- Tình huống truyện là hoàn cảnh có vấn đề trong tác phẩm.Trong hoàn cảnh đó, nhân vật
sẽ có hành động bộc lộ rõ nhất, điển hình nhất bản tính của mình. Tính cách nhân vật sẽ
rõ, chủ đề sẽ bộc lộ trọn vẹn.
- Tình huống truyện trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân là khi ông Hai biết
tin làng Chợ Dầu làm Việt gian theo Tây từ miệng những người tản cư dưới xuôi lên.
- Vai trò: Tình huống này giúp nhà văn khắc họa sâu sắc tính cách ông Hai. Là người
nông dân ở ngôi làng thân yêu, không gì đẹp và đáng tự hào hơn ngôi làng đó. Nhưng khi

làng ấy theo giặc, ta thấy có một sự thử thách với người nông dân. Giữa tình yêu làng và
lòng yêu nước, yêu cách mạng, người nông dân ấy đã lựa chọn tình yêu đất nước và cách
mạng mặc dù trong lòng đau đớn, tủi hổ. Nhờ sáng tạo được tình huống, nhà văn đã miêu
tả được tâm lí của nhân vật với những biến chuyển khá phức tạp. Nhờ thế, hình tượng
người nông dân với sự biến chuyển mạnh mẽ về tư tưởng, tình cảm đã được miêu tả chân
thực và sinh động.
Bài tập 2: Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Bác Thứ chưa nghe thủng câu hỏi ra sao, ông lão đã lật đật bỏ lên nhà trên:
- Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải chính.....
cải chính cái tên làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra lao! Láo hết, chẳng có gì
sất. Toàn là sai mục đích cả!”

[ Kim Lân, Làng]


a. Cùng nói với ông chủ nhà, vậy mà ông Hai vừa mới xưng “tôi” rồi ngay sau đó lại
xưng “em”. Vì sao vậy?
b. Nói “Làng Chợ Dầu chúng em Việt gian” là dùng cách nói nào?
c. Trong câu nói, ông Hai đã dùng sai một từ, đó là từ nào?Lẽ ra phải nói thế nào mới


đúng?
=> Gợi ý:
a. Cùng nói với ông chủ nhà nhưng ông Hai vừa xưng “tôi” đã lại xưng “em”, từ cách
xưng hô ngang hàng chuyển sang cách xưng hô của bề dưới với bề trên. Nhưng xưng
“em” với người nói chuyện cũng là thói quen thể hiện sự tôn trọng của người nông dân
Việt Nam ở làng quê trước đây. Mặt khác,thay đổi cách xưng hô như vậy cũng cho thấy
tâm trạng ông Hai không ổn định,ông quá vui mừng đến không làm chủ được mình, chỉ
thích khoe.
b. Nói “Làng Chợ Dầu chúng em Việt gian” là cách nói hoán dụ- lấy làng để chỉ những
người dân Chợ Dầu.
c. Trong câu nói, ông Hai dùng sai từ “mục đích”, lẽ ra phải nói “mục kích” nghĩa là nhìn
thấy, chứng kiến.
* Tư liệu tham khảo:
Khi nói về công việc sáng tác, nhà văn Kim Lân thường thổ lộ rằng ông muốn thể hiện
con người mình qua trang viết. Có lẽ, ở trường hợp như Kim Lân, sự tự thể hiện thành ra
một nhu cầu, và chính nó tạo ra hơi thở, sức sống cho tác phẩm của ông. Những gì nhà
văn chứng kiến, trải nghiệm trong những thời điểm quan trọng của lịch sử đất nước trở
thành nguồn nguyên liệu trực tiếp để ông sáng tạo nên những hình tư ợng đặc sắc. Truyện
ngắn “Làng”, với nhân vật ông Hai, chứng tỏ cho chúng ta về điều này. Kim Lân từng
nói:
"Cái không khí ngày đầu kháng chiến ở nông thôn, tôi đã đưa vào Làng. Lúc ấy Tây còn


đóng tại cầu Đuống, tôi về làng chơi mấy lần, chứng kiến tận mắt thế nào là "làng chiến
đấu". Trong không khí ấy, cùng với dư luận bán tín bán nghi về làng chợ Dầu theo Tây
làm Việt gian đã khiến tôi viết truyện ngắn này. Ông lão Hai chính là tôi".
Tình yêu quê hương đất nước trong mỗi con người cụ thể mang một hình hài riêng. Có
thể là sự hi sinh anh dũng của những chiến sĩ ngoài mặt trận, có thể là công sức khai
hoang, vun trồng những thửa ruộng, có thể là cái mượt mà hay hùng tráng của một ca


khúc ca ngợi tình người, tình đời, v.v... Và ở đây là tình yêu, sự gắn bó thuỷ chung với
cái làng của mình, của một người nông dân phải rời làng đi tản cư trong những năm đầu
của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Thành công của truyện Làng chính là ở hình tượng nhân vật lão Hai với những trạng
huống tâm lí, ngôn ngữ được khắc hoạ sắc sảo, chân thực và sinh động. Tuy nhiên, để
nhân vật bộc lộ được tâm lí hay ngôn ngữ, trước hết, nhà văn phải xây dựng được tình
huống truyện. Tính cách nhân vật chỉ được thể hiện trong một sự việc cụ thể nào đó. Hiểu
lầm rồi vỡ lẽ là dạng tình huống thường được các nhà văn sử dụng. Việc rời làng đi tản
cư là sự việc có ý nghĩa tạo khung cho câu chuyện. Đó chưa phải là tình huống. Phải đến
khi ông Hai nghe tin đồn làng của ông theo Tây làm Việt gian thì tình huống mới thực sự
bắt đầu. Tình huống truyện kết thúc khi ông Hai biết được sự thực làng của ông không
theo giặc. Qua tình huống này, hình ảnh một lão nông dân tha thiết yêu làng quê của
mình, một lòng một dạ theo kháng chiến hiện ra sắc nét, với chiều sâu tâm lí, ngôn ngữ
mang đậm màu sắc cá thể hoá.
Sở dĩ cái tin làng chợ Dầu theo giặc làm ông Hai khổ tâm là vì nó đã động chạm đến điều
thiêng liêng, nhạy cảm nhất trong con người ông. Cái làng đối với người nông dân quan
trọng lắm. Nó là ngôi nhà chung cho cộng đồng, họ mạc. Đời này qua đời khác, người
nông dân gắn bó với cái làng như máu thịt, ruột rà. Nó là nhà cửa, đất đai, là tổ tiên, là


hiện thân cho đất nước đối với họ. Trước Cách mạng tháng Tám, ông Hai thuộc loại "khố
rách áo ôm", từng bị "bọn hương lí trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thang
hết nơi này đến nơi khác, lần mò vào đến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm
bảy nổi mười mấy năm trời mới lại được trở về quê hương bản quán". Nên ông thấm thía
lắm cái cảnh tha hương cầu thực. Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào
về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức,
say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Trước Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái sinh

phần của viên tổng đốc làng ông: "Chết! Chết, tôi cha thấy cái dinh cơ nào mà lại đợc như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi". Và mặc dù chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viên


tổng đốc là "cụ tôi" một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, "người ta không còn thấy ông đả
động gì đến cái lăng ấy nữa", vì ông nhận thức được nó làm khổ mình, làm khổ mọi người, là kẻ thù của cả làng: "Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá,
làm phu hồ cho nó. [...] Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy''. Bây giờ ông khoe
làng ông khởi nghĩa, khoe "ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trong bóng tối", rồi
những buổi tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông,...
Cũng vì yêu làng quá như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Đến khi
buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, "ít nói, ít cười,
cái mặt lúc nào cũng lầm lầm". ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày
làm việc cùng với anh em, "Ô, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra.[...] Trong
lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên". Lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đi
nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng chợ Dầu của ông đánh Tây. Thế mà,
đùng một cái ông nghe được cái tin làng chợ Dầu của ông theo Tây làm Việt gian. Càng
yêu làng, hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn,


tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc
sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn
biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.

Ông lão đang náo nức, "Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" vì những tin kháng
chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Cái tin làng chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người:
"Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không
thở được. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, [...] giọng lạc hẳn đi",
"Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão như
vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm. Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc
động: "Nhìn lũ con, tủi thân, nớc mắt ông lão cứ trào ra... Chúng nó cũng là trẻ con làng
Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi
đầu...". Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở: "Chao ôi! Cực
nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai
người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù

hằn cái giống Việt gian bán nước...". Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảm đạm:
"Gian nhà lặng đi, hiu hắt. ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo
âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe
như tiếng thở của gian nhà". Ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm
nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái
chuyện phản bội là "chuyện ấy". Ông tuyệt giao với tất cả mọi ngư ời, "không dám bước
chân ra đến ngoài" vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ
nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở
vào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: "Thật là tuyệt
đường sinh sống! [...] đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi Mà cho


dẫu vì chính sách của Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt
mũi nào đi đến đâu".
Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng: "Về làm gì cái làng ấy
nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ...". Và "Nư ớc
mắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Bao nỗi
niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa
con thơ dại:
- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?
- Là con thầy mấy lị con u.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
- Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu ông lại hỏi:
- À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!

Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
- Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy danh
dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng với kháng

chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho ông, chân thành
và thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông:


Anh em đồng chí biết cho bố con ông
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ
dám đơn sai.
Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong ngư ời nông dân chân lấm tay
bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói về làng bất
kể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điểm tâm lí vì cộng đồng, vui cái vui
của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến của trạng thái tâm lí hết
sức đặc trưng của một người nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng mình phản bội.
Nếu như trong biến cố ấy tâm trạng của ông Hai đau đớn, tủi cực bao nhiêu thì khi vỡ lẽ

ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng chợ Dầu của ông không hề theo giặc, sự vui sướng càng tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ông Hai như người vừa được hồi sinh. Một lần

nữa, những thay đổi của trạng thái tâm lí lại được khắc hoạ sinh động, tài tình: "Cái mặt
buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt
hung hung đỏ hấp háy...". Ông khoe khắp nơi: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt
nhẵn![...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả", "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ.
Đốt nhẵn.[...] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!". Đáng lẽ ra
ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì thoát khỏi
cái ách "người làng Việt gian". Cái tin ấy xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía
kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại được sống như môt người yêu nước, lại có thể tiếp

tục sự khoe khoang đáng yêu của mình,... Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này
cũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như thế. Mặt


khác, cũng như các nhân vật quần chúng [chị cho con bú loan tin làng chợ Dầu theo giặc,
bà chủ nhà,]... cái khó quên ở nhân vật này còn là nét cá thể hoá rất đậm về ngôn ngữ.
Lúc ông hai nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm
ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: "Nắng này là bỏ mẹ chúng
nó","không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy", "Thì vẫn", "có bao giờ dám
đơn sai",... Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá hưng
phấn của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ của ngư ời nông
dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từ ngữ chưa hiểu
hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phần nào cũng nhờ vào đặc điểm
ngôn ngữ này.
Kim Lân đã từng được đánh giá là một cây bút hàng đầu về đề tài phong tục. Trong
truyện Làng, sự thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê được ông vận dụng hết sức
khéo léo vào xây dựng tâm lí, hành động, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn giản, sức
nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện
có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc đáo. Trong số rất nhiều những nhân vật nông
dân khác, người đọc khó có thể quên một ông Hai yêu làng quê, yêu đất nước, thuỷ chung
với kháng chiến, với sự nghiệp chung của dân tộc. Một ông Hai thích khoe làng, một ông
Hai sốt sắng nghe tin tức chính trị, một ông Hai tủi nhục, đau đớn khi nghe tin làng mình
theo giặc, một ông Hai vui mừng như trẻ thơ khi biết tin làng mình không theo giặc,... Ai

đó đã một lần thấy nhà văn Kim Lân, nghe ông nói chuyện còn thú vị hơn nữa: hình như
ta gặp ông đâu đó trong Làng rồi thì phải.




CÂU hỏi THÔNG HIỂU văn bản TRUYỆN NGỮ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [233.81 KB, 60 trang ]

LÀNG
ĐỀ 1. Đọc đoạn trích dưới đây và trả lời câu hỏi từ 1 đến 3:
“Ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm [1]. Chả lẽ
cái bọn ở làng lại đổ đốn đến thế được [2]. Ông kiểm điểm từng người trong óc
[3]. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà [4]. Họ đã ở lại làng,
quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại can tâm làm cái điều nhục
nhã ấy!...[5]”
Câu hỏi
Câu 1: Đoạn trích trên nằm trong tác phẩm nào? Tác giả là ai?
Câu 2: “Ông lão” trong đoạn trích trên là nhân vật nào? Điều “nhục nhã” được nói
đến là điều gì?
Câu 3: Trong đoạn trích trên, những câu văn nào là lời trần thuật của tác giả, những
câu văn nào là lời độc thoại nội tâm của nhân vật? Những lời độc thoại nội tâm ấy
thể hiện tâm trạng gì của nhân vật?
ĐÁP ÁN
1] - Đoạn văn trên nằm trong tác phẩm Làng.- Tác giả là Kim Lân.
2] - "Ông lão" trong đoạn trích trên là nhân vật ông Hai.
- "Điều nhục nhã" được nói đến là làng Chợ Dầu theo giặc.
3] - Những câu văn là lời trần thuật của tác giả: [1], [3].
- Những câu văn là lời độc thoại của nội tâm của nhân vật: [2], [4], [5].
- Những lời độc thoại nội tâm ấy thể hiện tâm trạng của ông Hai: băn khoăn, day
dứt nhưng vẫn tin tưởng vào lòng trung thành của người dân làng Chợ Dầu với
cách mạng.
ĐỀ 2: Đọc đoạn trích dưới đây và trả lời câu hỏi:
Bác Thứ chưa nghe thủng câu chuyện ra sao, ông lão đã lật đật bỏ lên nhà
trên:


- Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên cải
chính....cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo! Láo hết,
chẳng có gì sất. Toàn là sai mục đích cả.


[ Ngữ văn 9 – tập 1]
Câu hỏi
Câu 1: Đoạn trích trên trích trong văn bản nào? Tác giả là ai? Nêu hoàn cảnh sáng
tác?
Câu 2: Xác định từ xưng hô trong đoạn trích?
Câu 3: Tìm lời dẫn của nhân vật có trong đoạn trích. Cho biết đó là lời dẫn trực
tiếp hay gián tiếp?
Câu 4: Ông Hai nói: ”Làng chợ Dầu chúng em Việt gian” tác giả sử dụng nghệ
thuật gì?
Câu 5: Nêu nội dung của đoạn trích trên?
Câu 6: Tại sao tác giả lại để ông Hai nói “sai sự mục đích”?
Câu 7: Nhân vật ông lão trong đoạn truyện trên nhà bị tây đốt thế mà lại đi thông
báo với mọi người như khoe về một chiến công. Hãy nêu cảm nhận của em về
hành động đó.
GỢI Ý:
1] Đoạn truyện trên nằm trong tác phẩm “Làng”. Tác giả là Kim Lân.
Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn Làng được viết vào thời kì đầu của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948
4] Nói ” Làng Chợ Dầu chúng em Việt gian” là cách nói hoán dụ - lấy làng để chỉ
những người dân làng Chợ Dầu
6] Sai sự mục đích: dùng với nghĩa là sai sự thật. Đúng ra phải dùng từ ”mục kích”
[nhìn thấy rõ ràng, tận mắt]. Tác giả để ông Hai thích nói chữ nhưng dùng từ
không chính xác. Điều này cho ta thấy ngôn ngữ của nhân vật trong truyện rất đặc


sắc. Ngôn ngữ của nhân vật ông Hai vừa có nét chung của người nông dân, vừa
mang đậm cá tính riêng của nhân vật nên rất sinh động, gần gũi với bạn đọc.
7] Đối với người nông dân, căn nhà là cơ nghiệp của cả một cuộc đời. Vậy mà ông
Hai sung sướng hể hả loan báo cho mọi người biết cái tin ”Tây nó đốt nhà tôi rồi
bác ạ” một cách tự hào như khoe về một chiến công. Hành động này không bình

thường nhưng lại hoàn toàn chân thực. Cái sự việc phũ phàng kia là minh chứng
khẳng định làng ông không theo giặc. Dường như ông coi đó là một đóng góp cho
kháng chiến, là một niềm hạnh phúc. Trong niềm vui lớn lao ấy, sự mất mát kia
chẳng thấm vào đâu. Trong sự cháy rụi của nhà ông có sự hồi sinh của làng Chợ
Dầu, cái làng xứng đáng với tình yêu, niềm tự hào trong ông. Tài sản riêng bị phá
huỷ nhưng danh dự của làng được bảo toàn. Làng Chợ Dầu vẫn là làng anh dũng
kháng chiến. Đó là niềm vui kì lạ, thể hiện một cách đau xót và cảm động tinh thần
yêu nước và cách mạng của người dân VN trong kháng chiến.

ĐỀ 3: Đọc đoạn truyện sau và trả lời các câu hỏi:
“Dứt lời ông lão lại lật đật đi thẳng sang gian bác Thứ.
Chưa đến bực cửa, ông lão đã bô bô:
- Bác Thứ đâu rồi? bác Thứ làm gì đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn! Ông chủ
tịch làng tôi vừa lên trên này cải chính, ông ấy cho biết... cải chính cái tin làng
Chợ Dỗu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.
Bác Thứ chưa nghe thủng câu chuyện ra sao, ông lão lại lật đật bỏ lên nhà trên.
- Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. ông chủ tịch làng em vừa lên cải
chính... cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo! Láo hết,
chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!
Cũng chỉ được bằng ấy câu, ông lão lại đật bỏ đi nơi khác”.


Câu hỏi
1] Đoạn truyện trên nằm trong tác phẩm nào? Ai là tác giả? Nêu nét chính về hoàn
cảnh sáng tác tác phẩm.
2] Tại sao tác giả lại để ông Hai nói “sai sự mục đích”?
3] Nói “Làng Chợ Dầu chúng em Việt gian” là cách nói nào?
4] Nhân vật ông lão trong đoạn truyện trên nhà bị tây đốt thế mà lại đi thông báo
với mọi người như khoe về một chiến công. Hãy nêu cảm nhận của em về hành
động đó.

GỢI Ý:
1] Đoạn truyện trên nằm trong tác phẩm “Làng” Tác giả là Kim Lân.
Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn Làng được viết vào thời kì đầu của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948[
2] Sai sự mục đích: dùng với nghĩa là sai sự thật. Đúng ra phải dùng từ ”mục kích”
[nhìn thấy rõ ràng, tận mắt]. Tác giả để ông Hai thích nói chữ nhưng dùng từ
không chính xác. Điều này cho ta thấy ngôn ngữ của nhân vật trong truyện rất đặc
sắc. Ngôn ngữ của nhân vật ông Hai vừa có nét chung của người nông dân, vừa
mang đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh động
3] Nói ”Làng Chợ Dầu chúng em Việt gian” là cách nói hoán dụ - lấy làng để chỉ
những người dân làng Chợ Dầu
4] Đối với người nông dân, căn nhà là cơ nghiệp của cả một cuộc đời. Vậy mà ông
Hai sung sướng hể hả loan báo cho mọi người biết cái tin ”Tây nó đốt nhà tôi rồi
bác ạ” một cách tự hào như khoe về một chiến công. Hành động này không bình
thường nhưng lại hoàn toàn chân thực. Cái sự việc phũ phàng kia là minh chứng
khẳng định làng ông không theo giặc. Dường như ông coi đó là một đóng góp cho
kháng chiến, là một niềm hạnh phúc. Trong niềm vui lớn lao ấy, sự mất mát kia
chẳng thấm vào đâu. Trong sự cháy rụi của nhà ông có sự hồi sinh của làng Chợ
Dầu, cái làng xứng đáng với tình yêu, niềm tự hào trong ông. Tài sản riêng bị phá


huỷ nhưng danh dự của làng được bảo toàn. Làng Chợ Dầu vẫn là làng anh dũng
kháng chiến. Đó là niềm vui kì lạ, thể hiện một cách đau xót và cảm động tinh thần
yêu nước và cách mạng của người dân VN trong kháng chiến
ĐỀ 4: Đọc đoạn trích dưới đây và trả lời câu hỏi:
“… Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được? Mà thằng chánh Bệu thì đích là
người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa
tạc ra những chuyện ấy làm gì. Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi
đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy.
Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt

gian bán nước... Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương
nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?.”
Câu hỏi
a. Đoạn trích trên thuộc văn bản nào? Do ai sáng tác? Nêu hoàn cảnh sáng tác?
b. Đoạn văn trên là suy nghĩ của nhân vật nào? Nhân vật đó đang ở trong hoàn
cảnh nào?
c. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong đoạn văn trên có gì đặc sắc?
d. Tìm một câu rút gọn có trong đoạn văn và chỉ rõ cách rút gọn?
e. Viết đoạn văn [khoảng 200 từ] trình bày cảm nhận của em về đoạn trích trên?
GỢI Ý:
a. - Đoạn trích trên thuộc văn bản "Làng" do Kim Lân sáng tác.
- Hoàn cảnh sáng tác tác phẩm: sáng tác năm 1948 thời kì đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp.
b. - Suy nghĩ đó là của nhân vật ông Hai.
- Ông đang trong hoàn cảnh đau khổ, nhục nhã khi nghe tin làng Chợ Dầu làm Việt
gian theo Tây.


c. Nghệ thuật tự sự trong đoạn trích trên rất đặc sắc trong việc khắc họa nhân vật
của tác giả:
- Xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm [sử dụng nhiều câu hỏi tu từ]
nhằm mục đích nói lên những suy nghĩ của nhân vật.
- Làm nổi bật quá trình đấu tranh nội tâm của ông Hai sau khi nghe tin làng mình
theo giặc: băn khoăn không tin, rồi bắt buộc phải tin vì có bằng chứng và rồi nhục
nhã, lo lắng cho tương lai của gia đình, của người làng...
d. – Câu rút gọn trong đoạn văn: Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao?
– Bộ phận chủ ngữ được rút gọn .
e. Học sinh viết được đoạn văn theo yêu cầu sau:
– Về hình thức: Đảm bảo kết cấu một đoạn văn, không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ,
ngữ pháp

– Về nội dung: Trình bày được cảm nhận về tâm trạng của nhân vật ông Hai, đó là
sự nửa tin, nửa ngờ của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc. Buộc phải
tin đó là sự thật nên ông Hai lo sợ cho tương lai của những người làng Chợ Dầu
đang tản cư ở khắp nơi.
Đề 5. Tâm trạng nhân vật ông Hai [Làng – Kim Lân] trong những ngày nghe
tin làng Chợ Dầu theo giặc được tả như sau:
Ông Hai vẫn trằn trọc không sao ngủ được. Ông hết trở mình bên này lại trở
mình bên kia, thở dài. Chợt ông lão lặng hẳn đi, chân tay nhủn ra, tưởng chừng
không thể cất lên được… có tiếng nói léo xéo ở gian trên. Tiếng mụ chủ… Mụ nói
cái gì vậy? Mụ nói cái gì mà lào xào thế? Trống ngực ông lão đập thình thịch.
Ông lão nín thở, lắng tai nghe ra bên ngoài…
[Làng, Kim Lân]
Câu hỏi
1. Nếu lược bỏ các dấu ba chấm và câu hỏi trong đoạn văn trên thì cách miêu tả
nhân vật và giá trị biểu cảm của đoạn văn có gì thay đổi? Vì sao?


2. Trong một đoạn trích của Truyện Kiều đã học cũng có bốn câu thơ dùng câu hỏi
để diễn tả tâm trạng nhân vật. Hãy chép lại những câu thơ đó [ghi rõ tên đoạn
trích]. 3.
a, Viết một câu văn nhận xét tâm trạng nhân vật ông Hai trong đoạn văn trên.
b, Dùng câu đã viết làm mở đoạn, hãy viết tiếp khoảng 10 câu để hoàn chỉnh đoạn
văn.
c, Đoạn văn em vừa viết được trình bày theo cách nào?
Gợi ý làm bài
1. Nếu lược bỏ các dấu ba chấm và câu hỏi trong đoạn văn trên thì cách miêu tả
nhân vật vẫn không thay đổi: tâm trạng nhân vật vẫn được miêu tả qua cử chỉ, hành
động và độc thoại nội tâm. Nhưng giá trị biểu cảm của đoạn văn sẽ ảnh hưởng: tâm
trạng lo lắng buồn bã, sợ hãi và nghe ngóng của ông Hai không rõ nữa, tốc độ phát
triển nhân vật cũng nhanh hơn.

2. Bốn câu thơ có dùng câu hỏi diễn tả tâm trạng nhân vật trong Truyện Kiều là:
Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn
trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? [Kiều ở lầu Ngưng
Bích]
3.
a, Viết một câu văn nhận xét tâm trạng nhân vật ông Hai trong đoạn văn trên Tâm
trạng nhân vật ông Hai [Làng – Kim Lân] lo lắng, buồn bã sau khi nghe tin làng
mình theo giặc và ông phấp phỏng, âu lo nghe ngóng mụ chủ nhà, sợ bị đuổi đi.
b, Dùng câu đã viết làm mở đoạn, hãy viết tiếp khoảng 10 câu để hoàn chỉnh đoạn
văn. Trong đoạn văn cần làm rõ: Tình yêu làng của ông Hai khi ở nơi tản cư Tâm
trạng ông Hai trước và sau khi nghe tin làng Dầu theo giặc
c, Các em tự đánh giá lại đoạn văn của mình vừa thực hiện ở trên.
Đề 6. Đọc kĩ đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi:


“Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…”, cái câu nói của người đàn bà tản cư
hôm trước lại dội lên trong tâm trí ông.
Hay là quay về làng?…
Vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức ông lão phản đối ngay. Về làm gì ở cái làng ấy
nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ…
Nước mắt ông lão giàn ra. Về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây
[…]
Ông Hai nghĩ rợn cả người. Cả cuộc đời đen tối, lầm than cũ nổi lên trong ý
nghĩ ông. Ông không thể về cái làng ấy được nữa. Về bây giờ ra ông chịu mất
hết à? Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải
thù.”
Câu hỏi
1] Đoạn trích trên thuộc tác phầm nào, của tác giả nào? Ghi rõ thời gian sáng
tác tác phẩm.
2] Nêu nội dung của đoạn trích?

3] Câu “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây..” là lời dẫn trực tiếp hay gián
tiếp?
4] Có bạn cho rằng đoạn trích trên đã sử dụng chủ yếu hình thức ngôn ngữ
độc thoại, lại có bạn cho rằng đó là đọc thoại nội tâm. Ý kiến của em thế
nào?
5] Câu văn “Hay là quay về làng?…” thuộc kiểu câu nào chia theo mục đích
nói? Dấu ngoặc kép trong đoạn văn có tác dụng gì?
6] Có ý kiến cho rằng: Thành công trong cách xây dựng tình huống truyện
ngắn Làng là nhà văn đã đặt ông Hai vào những giằng xé nội tâm để buộc
nhân vật phải lựa chọn giữa tình yêu làng và tình yêu nước. Em hãy viết một


đoạn văn khoảng 12 câu lý giải ý kiến trên. Trong đoạn văn có sử dụng một
câu hỏi tu từ và một câu có chứa khởi ngữ.
GỢI Ý:
1] Đoạn trích đó nằm trong truyện Làng của nhà văn Kim Lân, truyện được
viết năm 1948, thời kì đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
2] Nội dung của đoạn văn: Sự giằng xé nội tâm của nhân vật ông Hai giữa
việc quay về làng hay ở lại.
3] Câu nói đó là lời dẫn trực tiếp.
4] Đoạn văn trích này chủ yếu dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, đó là
những lời nói bên trong của nhân vật, không nói ra thành tiếng.
5] Câu văn “Hay là quay về làng?…” thuộc kiểu câu nghi vấn. Tác dụng dấu
ngoặc kép: Đánh dấu lời thoại trực tiếp
6. Định hướng ý: Làm rõ tình yêu làng và tình yêu nước của ông Hai trước
và sau khi nghe tin làng Dầu theo giặc.
Trước đây, tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện trong nhau thì lúc này;
ông Hai buộc phải lựa chọn đau đớn giữa quê hương và Tổ quốc, giữa nghĩa
nước với tình làng. Điều đó không đơn giản vì với ông, làng Chợ Dầu đã trở
thành một phần của cuộc đời, không dễ gì vứt bỏ; còn cách mạng là cứu

cánh của gia đình ông, giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Một
cuộc xung đột nội tâm gay gắt giữa tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước
đã diễn ra ở ông Hai. Ông đã dứt khoát lựa chọn theo cách của mình: “Làng
thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tình yêu nước đã rộng lớn
hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Như vậy, tình yêu làng dẫu có thiết
tha, mãnh liệt đến đâu cũng không thể mãnh liệt hơn tình yêu đất nước. Đó
là vẻ đẹp tâm hồn cao cả của con người Việt Nam, khi sẵn sàng gạt bỏ tình
cảm riêng tư để sống với tình cảm chung của cả cộng đồng, của cả dân tộc
và đất nước. Nhưng dù đã xác định như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình
cảm với làng quê, vì thế mà ông càng xót đau, tủi hổ.


Đề 7. Cho đoạn văn sau:
[1] Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra.[2] Chúng nó cũng là
trẻ con làng Việt gian đấy ư ? [3] Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi
đấy ư ? [4] Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu …[5] Ông lão nắm chặt hai tay lại
mà rít lên: – [6] Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm
cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.
[Ngữ Văn 9 tập 1- Nhà xuất bản Giáo dục 2015]
Câu hỏi
1. Cho biết đoạn văn trên trích trong tác phẩm nào? Ai là tác giả?
2. Nêu hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm đó? Xác định những câu là lời độc
thoại nội tâm trong đoạn văn trên.
3. Những lời độc thoại nội tâm ấy thể hiện tâm trạng gì của nhân vật?
4. Hãy viết một đoạn văn giới thiệu về nhân vật “ông lão” trong tác phẩm
được xác định ở câu hỏi 1 [viết không quá nửa trang giấy thi].
Gợi ý làm bài
1. Đoạn văn trên trích trong tác phẩm Làng của Kim Lân.
2. Hoàn cảnh sáng tác: 1948 những năm đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp.

3. Độc thoại nội tâm: câu 2, 3, 4. Thể hiện tâm trạng: nỗi đau đớn, xót xa của
ông Hai, thương thân, thương con khi nghĩ đến những đứa con của mình bị
hắt hủi, xa lánh vì chúng là trẻ con của làng Chợ Dầu [trong tình huống có
tin làng Chợ Dầu theo giặc].
4. Cần nêu các ý sau:
Ông Hai – người nông dân quê ở làng Chợ Dầu – là người có tình yêu làng
tha thiết, mãnh liệt. Ông luôn kể và khoe, tự hào về làng Chợ Dầu của mình.
Đi sơ tán, ông nhớ không nguôi về làng mình, nhớ những ngày ở làng tích
cực chuẩn bị kháng chiến: đào đường, đắp ụ… Nghe tin làng Chợ Dầu Việt
gian theo Tây, ông choáng váng, đau đớn, tủi nhục… Ông đã trải qua những
ngày căng thẳng, đấu tranh tư tưởng gay gắt giữa một bên là tình yêu làng,
một bên là lòng trung thành với cách mạng và kháng chiến. Khi tin được cải
chính, ông vô cùng vui sướng, đi khoe về làng – mặc dù nhà ông đã bị đốt


nhẵn… Tình yêu làng và yêu nước trong ông đã hòa làm một. Ông Hai là
hình ảnh tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống Pháp
ĐỀ 8: Cho đoạn văn sau:
“Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc
với anh em. Ồ, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra. Cũng hát
hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày. Trong lòng ông
lão lại thấy náo nức hẳn lên. Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh
em đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá… Không biết cái chòi gác ở đầu làng
đã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc còn là khướt lắm. Chao
ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá.”
[Làng, Kim Lân, Ngữ văn 9, tập I, NXB Giáo Dục, 2010]
Câu hỏi
1. Hãy nêu ngắn gọn những hiểu biết của em về tác giả Kim Lân?
2. Việc tác giả sử dụng điệp từ “lại” trong đoạn trích trên nhằm mục đích gì?

Chỉ ra các thành biệt lập trong đoạn trích.
3. Câu Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày
trong đoạn trích trên là kiểu câu gì [phân loại theo cấu trúc ngữ pháp]?
4. Nhân vật ông Hai trong tác phẩm khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, đã
vô cùng xấu hổ và tủi nhục. Đó là nỗi xấu hổ của một con người có lòng tự
trọng và nhân cách. Bằng hiểu biết xã hội của mình, em hãy trình bày suy
nghĩ về vai trò của sự tự xấu hổ trong việc hoàn thiện nhân cách của mỗi
người [Bài viết không quá một trang giấy thi].
GỢI Ý:
1- Nêu ngắn gọn những hiểu biết về tác giả Kim Lân: Kim Lân [1920 -2007]
tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông
là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc
sống ở nông thôn, Kim Lân chủ yếu chỉ viết về sinh hoạt làng quê và cảnh


ngộ của người nông dân. Năm 2001 ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về
văn học nghệ thuật.
2- Việc tác giả sử dụng điệp từ “lại” trong đoạn trích trên nhằm mục đích
nhấn mạnh việc ông Hai lúc nào cũng luôn nhớ về làng Chợ Dầu.
- Các thành biệt lập trong đoạn trích:
+ Thành phần tình thái: Những đường hầm bí mật chắc còn là khướt lắm.
+ Thành phần cảm thán: Ồ, sao mà độ ấy vui thế. Chao ôi! Ông lão nhớ làng,
nhớ cái làng quá.
3. Câu Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày
là kiểu câu rút gọn [phân loại theo cấu trúc ngữ pháp]
4. Đoạn văn cần đảm bảo những yêu cầu về:
- Nội dung: Từ nỗi xấu hổ, tủi nhục của nhân vật ông Hai trong tác phẩm khi
nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, nêu được những suy nghĩ về vai trò của sự
tự xấu hổ trong việc hoàn thiện nhân cách của mỗi người: tự xấu hổ là dấu
hiệu của việc tự nhận thức về những điều mình chưa làm được, chưa làm

đúng; đó là bước đầu tiên để dẫn đến hành động sửa sai và hoàn thiện nhân
cách con người…
- Hình thức: kết hợp các phương thức biểu đạt, diễn đạt rõ ý, độ dài theo quy
định.

ĐỀ 9: Cho đoạn trích:
Ông nằm vật trên giường vắt tay lên trán nghĩ ngợi vẩn vơ. Ông lại nghĩ về cái
làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. Ồ, sao mà độ
ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra. Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào,
cũng cuốc mê man suốt ngày. Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên. Ông
lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân
đá… Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa? Những đường
hầm bí mật chắc còn là khướt lắm. Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng


quá.
[Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016]
Câu hỏi
1. Đoạn văn trên được trích từ truyện ngắn nào? Của ai? Nêu hoàn cảnh ra đời của
truyện

ngắn

này.

2. Dòng cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật ông lão được thể hiện qua việc nhắc lại
các từ, cụm từ nào trong đoạn trích? Trong dòng cảm xúc, suy nghĩ ấy có những kỉ
niệm nào của ông với làng kháng chiến?
3. Xét mục đich nói, câu văn “Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong
chưa?” thuộc kiểu câu gì? Vì sao nỗi trăn trở của ông lão trong câu văn đó lại là

một biểu hiện tình cảm công dân.
4. Với hiểu biết của em về truyện ngắn trên, hãy viết một đoạn văn quy nạp khoảng
12 câu, có sử dụng câu ghép và phép thế [gạch dưới câu ghép và từ ngữ được dùng
làm phép thế] để khẳng định: Truyện đã khắc họa thành công hình ảnh những
người nông dân trong kháng chiến .
GỢI Ý:
Câu 1:
- Đoạn văn được trích từ truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân
- Hoàn cảnh ra đười của tác phẩm: Truyện ngắn được viết trong thời kì đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp và được đăng trên tạp chí văn nghệ năm 1948.
Câu 2:
- Dòng cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật ông lão được thể hiện qua việc nhắc lại
những từ, cụm từ trong đoạn trích: nghĩ ngợi, nghĩ về, nghĩ đến, muốn, nhớ.
- Trong dòng cảm xúc ấy, có những kỉ niệm của ông Hai với làng kháng chiến:
những ngày cùng làm việc với anh em, cũng hát hỏng bông phèng, cũng đào, cũng
cuốc, đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…
Câu 3:


- Xét về mục đích nói, câu văn “Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong
chưa?”: Thuộc kiểu câu nghi vấn.
- Nỗi trăn trở của ông lão thể hiện tình cảm công dân vì:
+ Hình ảnh cái chòi gác ở đầu làng là hình ảnh tiêu biểu, là biểu hiện sống động và
thực tế không khí kháng chiến ở làng Chợ Dầu, ở nông thôn Việt Nam thời kì
kháng chiến chống Pháp.
+ Nỗi trăn trở của ông lão về cái chòi gác không biết đã dựng xong chưa chính là
sự quan tâm, nỗi niềm lo lắng đầy trách nhiệm của một công dân yêu nước với
phong trào cách mạng của làng ông, cho cuộc kháng chiến của dân tộc.
Câu 4:
a. Về hình thức:

- Học sinh viết đúng yêu cầu của một đoạn văn nghị luận văn học: lập luận chặt
chẽ, thuyết phục.
- Cách trình bày nội dung đoạn viết theo đúng cách quy nạp.
- Diễn đạt trong sáng, lưu loát, không mắc lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi viết câu;
trình bày rõ ràng, sạch đẹp.
- Độ dài đúng quy định: khoảng 12 câu.
b. Về thực hành tiếng Việt:
- Học sinh sử dụng thích hợp, chính xác, gạch chân và chú thích rõ ràng:
+ Câu ghép.
+ Sử dụng phép thế để liên kết câu.
c. Về nội dung:
- Truyện khắc họa thành công hình ảnh những người nông dân trong kháng chiến
Học sinh có thể tham khảo dàn ý đoạn viết sau:
* Thân đoạn:


* Hình ảnh ông Hai với tình cảm yêu làng Chợ Dầu, yêu làng quê hài hòa, quyện
thấm với tình yêu đất nước. Đây là vẻ đẹp đáng quý của nhân vật, cũng là điều tâm
huyết nhất mà nhà văn muốn nói với người đọc.
* Hình ảnh ông Hai được miêu tả chủ yếu qua diễn biến nội tâm
- Ở nơi tản cư, ông luôn nhớ làng, theo dõi tin tức kháng chiến.
- Tâm trạng khi nghe tin đồn làng chợ Dầu theo Tây:
+ Khi nghe tin quá đột ngột, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức. Niềm tự hào về
làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Ông tìm cách lảng tránh, cúi
gằm mặt xuống ra về.
+ Về đến nhà ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con, “nước mắt ông lão
cứ giàn ra”. Bao nhiêu câu hỏi dồn về xoắn xuýt, bủa vây làm tâm trạng ông rối
bời trong cơn đau đớn, hụt hẫng đến mê dại, dữ dằn và gay gắt. Ông cảm thấy như
chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước theo giặc, cả các con ông cũng sẽ
mang nỗi nhục ấy.

+ Suốt mấy ngày sau, ông bị ám ảnh nặng nề, không dám đi đâu… Thoáng nghe
những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi
lại chuyện ấy rồi!.
+ Nghe mụ chủ đánh tiếng đuổi, chính lúc này, tình cảm đẹp trong con người ông
Hai lại càng được bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Những đau đớn, dằn vặt, sự hổ thẹn
đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào một tình huống phải lựa chọn. Quê hương và Tổ
Quốc, bên nào nặng hơn? Tình yêu quê hương và tình yêu tổ quốc xung đột dữ dội
trong lòng ông. Cuối cùng ông đã quyết định: “không thể được! Làng thì yêu thật,
nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy, tình yêu làng dẫu có thiết tha,
mãnh liệt đến đâu, cũng không thể mạnh hơn tình yêu đất nước.
+ Khi tâm sự với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ, nghe con nói: “Ủng hộ cụ Hồ Chí
Minh”, nước mắt ông Hai cứ giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má, giọng ông như
nghẹn lại: “ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ?”. Tâm sự với đứa con, ông Hai


muốn bảo con nhớ câu “Nhà ta ở làng chợ Dầu”, đồng thời ông nhắc con, cũng là
tự nhắc mình “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”. Tấm lòng thuỷ chung với kháng chiến,
với cách mạng thật sâu nặng, bền vững và thiêng liêng.
- Niềm vui của ông Hai khi tin đồn cải chính: hả hê khoe Tây đốt nhà mình, nỗi
mất mát riêng chẳng thấm vào đâu so với hạnh phúc vì đó là minh chứng làng ông
theo kháng chiến, ủng hộ cách mạng. Tình yêu làng hòa quyện với tình yêu nước
thật thiêng liêng, xúc động.
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật ông Hai:
- Nhà văn Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng nhân vật ông Hai, một lão
nông cần cù, chất phác, yêu mến, gắn bó với làng quê như máu thịt.
+ Nhà văn đã chọn được một tình huống khá độc đáo là sự thử thách bên trong bộc
lộ chiều sâu tâm trạng.
+ Tâm lý nhân vật được nhà văn miêu tả cụ thể, gợi cảm qua các diễn biến nội tâm,
qua các ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt là nhà văn đã diễn tả đúng
và gây được ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật.

+ Các hình thức trần thuật [đối thoại, độc thoại….]
Như vậy, từ một nông dân yêu làng, ông Hai đã trở thành một công dân nặng lòng
với đất nước.
* Bên cạnh hình ảnh ông Hai, Kim Lân cũng khắc họa hình ảnh những người nông
dân yêu nước, gắn bó với kháng chiến : những người tản cư từ dới xuôi lên, mụ
chủ nhà… Dù chỉ vài nét thoáng qua nhưng họ đều góp phần tạo nên ấn tượng về
những người nông dân chất phác, yêu nước, tha thiết với cuộc kháng chiến của dân
tộc.
Kết đoạn:
- Hình ảnh ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân là hình ảnh tiêu
biểu cho những người nông dân Việt Nam yêu làng, yêu nước thời kì kháng chiến
chống Pháp.


- Liên hệ bản thân.

CHIẾC LƯỢC NGÀ
ĐỀ 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Tôi hãy còn nhớ buổi chiều hôm đó - buổi chiều sau một ngày mưa
rừng, giọt mưa còn đọng trên lá, rừng sáng lấp lánh. Đang ngồi làm việc dưới
tấm ni lông nóc, tôi bỗng nghe tiếng kêu. Từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng
sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở
như đứa trẻ được quà.
a. Đoạn trích trên được trích trong tác phẩm nào? Ai là tác giả?
b. Nhân vật tôi và anh được nói đến trong đoạn trích là ai?
c. Phân tích cấu tạo ngữ pháp của câu văn in đậm và cho biết đó là kiểu
câu gì xét về mặt cấu tạo ngữ pháp?
d. Câu văn Mặt anh hớn hở như đứa trẻ được quà diễn tả điều gì? Dựa vào
những hiểu biết của em về tác phẩm, hãy lí giải vì sao mặt anh hớn hở như vậy?
Gợi ý:

a.Đoạn trích trong tác phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng.
b.Nhân vật tôi là bác Ba và anh là ông Sáu.
c.- Phân tích cấu tạo ngữ pháp câu văn in đậm:
Tôi / hãy còn nhớ buổi chiều hôm đó - buổi chiều sau một ngày mưa
C1

V1

phụ chú

rừng, giọt mưa / còn đọng trên lá, rừng / sáng lấp lánh.
C2

V2

C3

V3

- Câu ghép.

d- Câu văn "Mặt anh hớn hở như đứa trẻ được quà" diễn tả niềm vui của ông Sáu.


- Ông Sáu vui như vậy vì trước khi ông Sáu trở lại chiến trường, bé Thu đã dặn ông
trong tiếng khóc: Ba về ba mua cho con cây lược nghe ba. Nhặt được khúc ngà,
ông Sáu sẽ tự tay làm cho con cây lược bằng cả tình yêu thương và niềm mong nhớ
con.
ĐỀ 2: Dưới đây là trích đoạn trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” [Nguyễn Quang
Sáng]: Trong bữa cơm đó, anh Sáu gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén nó.

Nó liền lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung
tóe cả mâm. Giận quá không kịp suy nghĩ, anh vung tay đánh vào mông nó và hét
lên:
- Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?”
[Trích Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục 2013]
1.

Chiếc lược ngà được viết năm nào? Ghi lại từ mang màu sắc Nam bộ

trong đoạn trích.
- 1966
- chén, xoi
2. Những biểu hiện của nhân vật bé Thu ở trên nói lên thái độ gì và qua đó bộc lộ
tình cảm như thế nào đối với nhân vật ông Sáu? Lời kể được in nghiêng trong đoạn
trích trên giúp em nhận biết mục đích nói ở câu văn có hình thức nghi vấn sau đó là
gì?

3. Viết một đoạn văn [ khoảng 15 câu] theo cách lập luận quy nạp làm rõ tình cảm
sâu nặng của bé Thu đối với cha trong truyện ngắn trên, ở đó sử dụng câu có thành
phần biệt lập và phép lặp để liên kết [ gạch dưới phần biệt lập và từ ngữ dùng làm
phép lặp].


4. Kể tên một Từ cảnh ngộ của người cha trong hai tác phẩm, em có suy ngẫm gì
[không quá 5 dòng] về chiến tranh.
GỢI Ý
1. Tác phẩm “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966
Những từ mang màu sắc Nam bộ trong đoạn trích trên: Chén, xoi
2- Thái độ phản ứng quyết liệt, không chấp nhận ông Sáu là cha đẻ của mình. Điều
này chứng tỏ bé Thu có cá tính mạnh mẽ, tình cảm chân thật. Em chỉ yêu cha khi

tin chắc đúng là cha mình [ em thấy ông Sáu không giống tấm hình chụp chung với
má]. Tình yêu của bé Thu sâu sắc, đầy bản lĩnh.
- Mục đích nói ở câu văn có hình thức nghi vấn là bộc lộ cảm xúc bực tức của ông
Sáu khi thấy bé Thu có hành động phản ứng quyết liệt trước sự chăm sóc của ông
đối với bé. Đằng sau câu nói đó, người đọc thấy được sự khát khao của người cha
mong đứa con chấp nhận mình là cha của nó.
* Học sinh đảm bảo thực hiện một số yêu cầu sau:
-Về nội dung: Học sinh có thể tham khảo mạch ý sau để làm rõ tình cảm sâu nặng
của bé Thu đối với người cha trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà”:
* Khi ông Sáu về đến nhà:
- Bé đang chơi ở nhà chòi, thấy người đàn ông có vết thẹo dài bên má phải đỏ ửng,
giật giật trông rất sợ, bé đã “ giật mình, tròn mắt, ngơ ngác nhìn” một cách ngờ
vực. Rồi bé mặt tái đi, vụt chạy, kêu thét lên. Điều này cho thấy, bé chưa chuẩn bị
tâm lý từ trước rằng ba của bé sẽ về thăm nhà.
*Trong ba ngày ở nhà:
Ông Sáu luôn gần gũi, khao khát bé Thu gọi mình một tiếng “Ba”, song bé Thu đã
có những hành động phản ứng ông một cách ương ngạnh, bướng bỉnh:


- Nói trổng [ nói trống không] “ vô ăn cơm”, “ “ cơm chín rồi”, “ cơm sôi rồi”, chắt
nước giùm cái!” để tránh dùng từ “ Ba” vì từ “Ba” đối với bé rất thiêng liêng.
- Hành động “ hất cái trứng cá to vàng” ông sáu gắp vào chén cho nó và khi ông
Sáu không kiềm chế được, đã đánh bé thì bé đã “ gắp lại trứng cá để vào chén, rồi
lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm”, bỏ về bà ngoại. Khi nhảy xuống xuồng, nó
cố làm cho “ dây lòi tói kêu rổn rảng” để thể hiện phản ứng quyết liệt với ông Sáu.
* Những chi tiết trên cho thấy, sự ương ngạnh, bướng bỉnh của bé Thu trong hoàn
cảnh chiến tranh xa cách, trắc trở không đáng trách. Bạn đọc thông cảm với bé vì
em còn quá nhỏ, chưa hiểu được thời gian năm tháng, sự khốc liệt của chiến tranh
sẽ làm ngoại hình con người có thể biến dạng đi không giống tấm hình chụp thời
trẻ của ông sáu. Hơn nữa, bé Thu chỉ biết mặt ba qua tấm hình chụp chung với má.

Bé cũng chưa chuẩn bị tâm lý gặp lại ba khi ba của bé về nhà trước khi nhận nhiệm
vụ mới.
* Thu nhận ra ông Sáu là người cha của mình [ trọng tâm]
- Buổi sáng cuối cùng trước phút ông Sáu lên đường, thái độ, hành động của Thu
đã đột ngột thay đổi hoàn toàn vì bé được bà ngoại giải thích vết thẹo trên má phải
ông Sáu là do bị Tây bắn. Nó đã nằm im nghe bà kể, lăn lộn và thỉnh thoảng thở
dài như người lớn. Điều này cho thấy, bé ân hận, hối tiếc.
- Lúc chia tay với ông Sáu: Đôi mắt mở to mênh mông của bé nhìn với vẻ “ nghĩ
ngợi sâu xa” và khi ông Sáu khẽ chào bé “ Thôi, ba đi nghe con!” thì bé đã kêu thét
lên “ Ba..a...a...ba!”
* Tiếng “Ba” mà bé khao khát được gọi đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ
tung ra từ đáy lòng nó. Tiếng kêu “ ba” xé tan cả không gian im lặng, xé ruột gan
mọi người, nghe thật xót xa. Đây là tiếng gọi “ ba” đầu tiên và cũng là cuối cùng
của cuộc đời bé Thu vì sau đó ông Sáu đã hy sinh.
Hành động:


- Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như con sóc, nó chạy thót lên và dang tay ôm
chặt lấy cổ ba, vừa nói trong tiếng khóc, không cho ba đi.
- Nó “hôn tóc, hôn cổ, hôn vai” vì muốn cảm nhận hết tình cảm của người cha mà
nó khao khát bao năm nay. Đặc biệt, “nó hôn cả vết thẹo dài bên má của ba” mà nó
rất sợ vì nó muốn chuộc lại lỗi lầm trong ba ngày đã có hành động, thái độ không
phải với ông Sáu. Hiểu được nguyên nhân của vết thẹo dài, bé Thu càng yêu
thương và tự hào vì ba của bé là một chiến sĩ cách mạng.
* Chiến tranh qua hình ảnh “ vết thẹo dài” đã không những không chia cắt được
tình cảm cha con của người chiến sĩ cách mạng mà còn làm cho tình cảm đó trở
nên sâu sắc, mãnh liệt hơn.
- Được bà và mẹ giải thích rằng ba đi, thống nhất đất nước, ba sẽ về Thu đã để cho
ba đi và dặn ba về sẽ mua cho bé một cây lược. Điều này cho thấy bé hiểu được
công việc mà cách mạng đang cần ba.

- Sau này biết tin ba mình hy sinh, bé Thu đã tiếp nối công việc của ba đang làm
dở: trở thành cô giao liên thông minh, dũng cảm, nhiều lần cứu đoàn cán bộ cách
mạng thoát khỏi phục kích của giặc.
*Kết đoạn:
- Với tấm lòng yêu mến, trân trọng tình cảm trẻ thơ, với sự am hiểu tâm lý trẻ em,
nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa tình cảm yêu cha sâu sắc, mãnh liệt, đầy
bản lĩnh của đứa con người chiến sĩ cách mạng mà không làm mất đi vẻ hồn nhiên,
ngây thơ của trẻ em, đồng thời khẳng định chiến tranh khốc liệt với hoàn cảnh đầy
éo le, không chia rẽ được tình cảm cha con của những người chiến sĩ cách mạng.
-Về ngữ pháp:
- Gạch chân đoạn văn và chú thích rõ ràng thành phần biệt lập [ có thể là tình thái
từ, hoặc từ cảm thán, hoặc thành phần phụ chú, hoặc gọi đáp] và từ ngữ dùng làm
phép lập, được sử dụng thích hợp trong đoạn văn.


4* Tác phẩm khác trong chương trình Ngữ văn lớp 9, trong đó có nhân vật người
cha, vì chiến tranh xa cách, khi trở về, đứa con trai cũng hoài nghi, xa lánh là “
Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
* Suy nghĩ về chiến tranh:
Học sinh có thể trình bày cách cảm nhận khác nhau, dưới đây là một số gợi ý để
học sinh tham khảo:
- Từ cảnh ngộ của người cha trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” và “Người con gái
Nam Xương”, em thấy chiến tranh thật là dã man, tàn bạo. Nó khiến cho những
người cha phải chia lìa gia đình, vợ con, những đứa trẻ ra đời mà không biết mặt
cha, không được hưởng tình yêu thương, chăm sóc của người cha. Chiến tranh
cũng đã gây nên sự hiểu nhầm đáng tiếc trong những gia đình có người cha đi lính.
- Bé Đản [ trong Người con gái Nam Xương] đã mất đi một người mẹ Vũ Nương
rất yêu thương con và khao khát một cuộc sống gia đình hạnh phúc. Bé Thu chỉ
được hưởng tình cha con trong giây phút ngắn ngủi trước khi chia tay để cha bé lên
đường làm cách mạng.

- Qua hai tác phẩm được học, em thấy rõ tình cảm cha con, tình cảm gia đình quan
trọng thiêng liêng biết nhường nào với trẻ thơ.

ĐỀ 3: Cho đoạn trích:
“Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức để trăng trối lại điều gì, hình như chỉ
có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc lấy cây lược đưa
cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu. Tôi không đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn ấy, chỉ biết
rằng, cho đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi cứ nhớ lại đôi mắt của anh”
Câu hỏi:
a. Nêu tên tác phẩm, tác giả của đoạn trích?


b. Theo em tại sao tác giả lại viết “chỉ có tình cha con là không thể chết được” và
tại sao nhân vật tôi [ông Ba] lại “không đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn” của đôi mắt ông
Sáu?
GỢI Ý:
Câu 1:Nêu đúng tên tác giả, tác phẩm, viết đúng chỉnh tả, mỗi ý được 0,25. - Tác
phẩm: Chiếc lược ngà. - Tác gải: Nguyễn Quang Sáng
b. - Hình thức : HS viết được đoạn văn hoàn chỉnh, diễn đạt lưu loát, mạch lạc,
không mắc lỗi chính tả, dùng từ đặt câu.
- Nội dung : Đoạn văn phải đảm bảo các ý:
* Ông Ba nghĩ “chỉ có tình cha con là không thể chết được” vì:
+ Trong giây phút hấp hối cuối cùng, điều mà ông Sáu nghĩ đến vẫn là chiếc lược
ngà chưa trao được cho con.
+ Sự sống trong ông đang lụi tàn nhưng tình cha con lại đang bùng lên mãnh liệt
hơn bao giờ hết.
* Ông Ba “không đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn của ông Sáu” vì:
+ Đó là cái nhìn của một người sắp ra đi, cái nhìn gửi gắm vào đó tất cả những tình
cảm cháy bỏng của mình.
+ Đó là ánh mắt chứa đựng muôn vàn yêu thương, chứa đựng cả nỗi đau xót khi

không còn gặp lại đứa con gái. Ánh mắt chứa đựng cả tình yêu mãnh liệt nhờ ông
Ba gửi tới con gái, là mệnh lệnh thiêng liêng trao cho đồng đôi “anh hãy trao cây
lược cho bé Thu”.
+ Đó là đôi mắt không bao giờ chết cũng như tình cha con mãi mãi tồn tại. Chiến
tranh có thể cướp đi sự sống nhưng không thể hủy diệt tình cảm phụ tử mãnh liệt,
thiêng liêng.
ĐỀ 4 : Dưới đây là đoạn trích trong truyện ngắn Chiếc lược ngà [Nguyễn
Quang Sáng]:


Đến lúc chia tay, mang ba lô lên vai, sau khi bắt tay hết mọi người, anh Sáu
mới đưa mắt nhìn con, thấy nó đứng trong góc nhà.
Chắc anh cũng muốn ôm con, hôn con, nhưng hình như cũng lại sợ nó giẫy lên lại
bỏ chạy, nên anh chỉ đứng nhìn nó. Anh nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu.
Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao.
– Thôi! Ba đi nghe con! – Anh Sáu khe khẽ nói.
Chúng tôi, mọi người – kể cả anh, đều tưởng con bé sẽ đứng yên đó thôi. Nhưng
thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, trong lúc
không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên:
– Ba…a…a…ba!
Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe
thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng
“ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một
con sóc, nó chạy thót lên và dang tay ôm chặt lấy cổ ba nó.
[Trích Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục, 2014].
Câu hỏi:
1.

Trong truyện ngắn Chiếc lược ngà, những tình huống nào đã bộc lộ sâu sắc


và cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu?
2.

Chỉ ra 2 lời dẫn trực tiếp trong đoạn trích trên và chuyển chúng thành những

lời dẫn gián tiếp.
3.

Viết một đoạn văn khoảng 12 câu theo cách lập luận diễn dịch làm rõ tình

cảm cha con sâu nặng, cảm động của ông Sáu và bé Thu trong cảnh chia tay, trong
đó có sử dụng kiểu câu phủ định mang ý nghĩa khẳng định và phép lặp để liên kết
[gạch dưới câu phủ định mang ý nghĩa khẳng định và các từ ngữ được sử dụng
trong phép lặp]
GỢI Ý:
Câu 1


– Hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách nhưng bé Thu không nhận ra cha, đến
lúc bé nhận ra cha và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi.
– Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ con vào việc làm
chiếc lược ngà để tặng con nhưng chưa kịp trao thì ông đã hi sinh.
Câu 2
– Học sinh chỉ đúng 2 lời dẫn trực tiếp
– Chuyển thành lời dẫn gián tiếp đạt yêu cầu
Câu 3
* Đoạn văn diễn dịch
– Phần mở đoạn đạt yêu cầu
– Phần thân đoạn gồm khoảng 12 câu với đầy đủ dẫn chứng và lí lẽ để làm rõ: tình
cảm cha con sâu nặng, đầy cảm động của ông Sáu và bé Thu trong cảnh chia tay

+ Tình huống éo le: ông Sáu phải vào chiến trường sau ba ngày phép, lúc này bé
Thu mới nhận ra ba
+ Tình yêu thương mãnh liệt bé Thu dành cho ba thể hiện ở các chi tiết như tiếng
gọi ba, cử chỉ, hành động dành cho ba…
+ Tình yêu thương con sâu sắc ở ông Sáu biểu lộ qua những chi tiết
diễn tả tâm trạng, cử chỉ, đặc biệt là ánh nhìn của ông dành cho con…
Từ những cảm nhận trên, cần khẳng định thành công của tác giả trong việc tạo
tình huống, miêu tả tâm lí nhân vật nhằm làm nổi bật tình cha con sâu nặng và cao
đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.
ĐỀ 5: Cho đoạn trích:
“Con bé thấy lạ quá, nó chớp mắt nhìn tôi như muốn hỏi đó là ai, mặt nó bỗng tái
đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!”. Còn anh, anh đứng sững lại đó, nhìn
theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay
buông xuống như bị gãy”. [Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục 2009, tr.196]
Câu hỏi:


Video liên quan

Chủ Đề