Quần đảo Trường Sa có tên tiếng Anh là gì

Quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ thiêng liêng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều đó đã được khẳng định qua nhiều tài liệu, chứng cứ mà Việt Nam còn lưu giữ được từ hơn 5 thế kỷ qua. Tuy nhiên, Trung Quốc đã ngang nhiên chiếm giữ toàn bộ quần đảo này từ năm 1974, vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Petrotimes xin giới thiệu với bạn đọc về quần đảo Hoàng Sa và lịch sử tranh chấp chủ quyền quần đảo này 40 năm qua.

Bản đồ Việt Nam do chuyên gia Hà Lan vẽ năm 1594 có ghi rõ Hoàng Sa của Việt Nam

Quần đảo Hoàng Sa nằm ở tọa độ 16°30′B 112°00′Đ, gồm hai nhóm đảo là nhóm An Vĩnh phía đông bắc và nhóm Lưỡi Liềm/Trăng Khuyết phía tây nam.

Quần đảo Hoàng Sa [tiếng Anh: Paracel Islands] là một nhóm khoảng 30 đảo, bãi san hô và mỏm đá ngầm nhỏ ở Biển Đông. Quần đảo nằm cách miền Trung Việt Nam khoảng một phần ba khoảng cách đến những đảo phía bắc của Philippines; cách đảo Lý Sơn của Việt Nam khoảng 200 hải lý và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc khoảng 230 hải lý. Hoàng Sa có nghĩa là "cát vàng", là tên do người Việt đặt cho quần đảo này, còn người Trung Hoa gọi quần đảo này với những tên gọi là: Trung văn giản thể, phồn thể hoặc từ Hán-Việt là Tây Sa quần đảo.

Từ xưa, quần đảo này đã mang tên là Bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng. Vì có vô số hòn đảo, hòn đá, cồn đụn, bãi cạn lúc nổi lúc chìm theo với mực nước thủy triều lên xuống nên số lượng đảo tùy theo cách đếm mà nói là nhiều hay ít.

Sách cổ Việt Nam trong những thế kỷ trước đây cho biết có 130 đảo. Trong cuốn sách De la Cochinchine, Tableau [Taberd] viết: "Xa hơn kể từ phía bờ biển, ở phía trước của Huế là Paracels hoặc Kat-vang, đầy đá ngầm. Cuối cùng, bãi ngầm Macclesfield đáng sợ nằm ở phía đông của Paracel".

Trước năm 1974, Việt Nam Cộng hòa kiểm soát một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa còn Trung Quốc kiểm soát phần còn lại. Từ năm 1974 đến nay, Trung Quốc kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa đồng thời tuyên bố đây là lãnh thổ của họ. Chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa vẫn đang là chủ đề tranh luận giữa Trung Quốc và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Địa lý tự nhiên của Hoàng Sa

Quần đảo Hoàng Sa là một tập hợp trên 30 đảo san hô, cồn cát, ám tiêu [rạn] san hô nói chung [trong đó có nhiều ám tiêu san hô vòng hay còn gọi là rạn vòng] và bãi ngầm thuộc biển Đông, ở vào khoảng một phần ba quãng đường từ miền Trung Việt Nam đến phía bắc Philippines. Quần đảo trải dài từ 15°45′ đến 17°15′ Bắc và từ 111°00′ đến 113°00′ Đông, có bốn điểm cực bắc-nam-tây-đông lần lượt tại đá Bắc, bãi Ốc Tai Voi, đảo Tri Tôn và bãi Gò Nổi. Độ dài đường bờ biển đạt 518 km. Điểm cao nhất của quần đảo là một vị trí trên đảo Đá với cao độ 14 m [hay 15,2 m]. Vùng biển Hoàng Sa trong biển Đông nằm trong vùng "xích đạo từ".

Về khoảng cách đến đất liền, quần đảo Hoàng Sa nằm gần Việt Nam hơn.

Cụ thể, khoảng cách từ đảo Tri Tôn [15°47'B 111°12'Đ] tới đảo Lý Sơn [15°22'B 109°07'Đ] là 123 hải lý. Nếu lấy toạ độ của Cù lao Ré [tên cũ của Lý Sơn] là 15°23,1'B 109°09,0'Đ từ bản tuyên cáo đường cơ sở của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [ngày 12 tháng 11 năm 1982] thì khoảng cách đến bờ Lý Sơn thu ngắn lại dưới 121 hải lí.

Ngoài ra, khoảng cách từ đảo Tri Tôn này đến mũi Ba Làng An [15°14'B 108°56'Đ] thuộc đất liền Việt Nam là 135 hải lí. Trong khi đó, khoảng cách từ đảo Hoàng Sa đến Lăng Thuỷ giác thuộc đảo Hải Nam của Trung Quốc là 140 hải lí. Khoảng cách từ Hoàng Sa tới đất liền lục địa Trung Quốc tối thiểu là 235 hải lí. Nếu Trung Quốc dùng rạn đá ngầm [đá Bắc] làm chuẩn để đo đến bờ đảo Hải Nam tại Lăng Thuỷ giác thì khoảng cách là 112 hải lí, nhưng do đá ngầm không có giá trị như đảo trong việc chuẩn định ranh giới nên lí lẽ này không thuyết phục.

Hoàng Sa có hai nhóm đảo

Nhóm đảo An Vĩnh bao gồm các thực thể địa lí ở phía đông bắc của quần đảo. Nhóm này bao gồm đảo Bắc, đảo Cây [đảo Cù Mộc], đảo Trung [đảo Giữa], đảo Đá, đảo Linh Côn, Đảo Nam, đảo Phú Lâm, đá Bông Bay, cồn cát Bắc, cồn cát Nam, cồn cát Tây, cồn cát Trung, hòn Tháp, đá Trương Nghĩa, bãi Bình Sơn, bãi Châu Nhai, bãi Gò Nổi, bãi Quảng Nghĩa, bãi Thủy Tề...

Dãy đảo thuộc nhóm An Vĩnh. Ảnh: Wiki

Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, An Vĩnh là tên một xã vào thời chúa Nguyễn [Đàng Trong], thuộc huyện Bình Dương [tức huyện Bình Sơn] phủ Tư Nghĩa, trấn Quảng Nam [Tư Nghĩa tức phủ Hòa Nghĩa, đến thời nhà Nguyễn thì trở thành tỉnh Quảng Ngãi].

Sách Đại Nam thực lục [tiền biên, quyển 10] ghi chép về xã này như sau: "Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát... chiều dài kéo dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Hoàng Sa châu... Hồi quốc sơ đầu triều Nguyễn đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng ba cưỡi thuyền ra đảo, ba đêm thì tới nơi...". Tên quốc tế của nhóm đảo là Amphitrite. Tên này là đặt theo tên một chiếc tàu Pháp trên đường đưa các giáo sĩ châu Âu sang Viễn Đông, gặp nạn rồi đắm ở vùng Hoàng Sa vào cuối thế kỷ 17.

Nhóm đảo Lưỡi Liềm [tiếng Anh: Crescent Group] bao gồm các thực thể địa lí ở phía tây nam của quần đảo. Nhóm này còn được gọi là nhóm Trăng Khuyết hay nhóm Nguyệt Thiềm.

Dãy đảo thuộc nhóm Lưỡi Liềm. Ảnh: Wiki

Nhóm Lưỡi Liềm bao gồm đảo Ba Ba, đảo Bạch Quy, đảo Duy Mộng, đảo Hoàng Sa, đảo Hữu Nhật, đảo Lưỡi Liềm, đảo Ốc Hoa, đảo Quang Ảnh, đảo Quang Hòa, đảo Tri Tôn, đá Bắc, đá Chim Én [Yến], đá Hải Sâm, đá Lồi, đá Sơn Kỳ, đá Trà Tây, bãi Đèn Pha, bãi Ngự Bình, bãi Ốc Tai Voi, bãi Xà Cừ,...

Hoàng Sa với khí hậu ôn hòa

Nhờ nằm giữa Biển Đông nên quần đảo Hoàng Sa có khí hậu nhiệt đới điều hòa, không quá lạnh về mùa đông, không quá nóng về mùa hè nếu so với những vùng đất cùng vĩ độ trong lục địa. Mưa ngoài biển qua nhanh, ở Hoàng Sa không có mùa nào ảm đạm kéo dài, buổi sáng cũng ít khi có sương mù. Lượng mưa trung bình trong năm là 1.170 mm. Tháng 10 có 17 ngày mưa / 228 mm và là tháng mưa nhiều nhất. Không khí Biển Đông tương đối ẩm thấp hơn những vùng biển khác trên thế giới. Ở cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa, độ ẩm đều cao, ít khi nào độ ẩm xuống dưới 80%. Trung bình vào tháng 6, độ ẩm ở Hoàng Sa suýt soát 85%.

Bão Biển Đông là bão nhiệt đới theo mùa, thường xảy ra những lúc giao mùa, nhất là từ tháng 6 đến tháng 8. Gió mạnh đến 90 gút. Bão giảm đi từ tháng 9 nhưng cũng vẫn còn đến tháng 1. Tuy vậy, vào giữa mùa gió Đông-Bắc, bão làm biển trở nên động dữ dội hơn và kéo dài trong nhiều ngày.

Khi bão phát xuất từ đảo Luzon đi ngang Hoàng Sa thì binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đóng trên đảo thấy các triệu chứng như sau: Trời oi, khí áp tụt xuống rất nhanh. Trên bầu trời xuất hiện những mây cao tầng bay nhanh như bó lông. Vài giờ sau bầu trời bị che phủ bởi một lớp sương mù mây rất mỏng, mặt trời chung quanh có quầng, rồi dần dần bầu trời trắng nhạt. Sau đó đến lượt những mây "quyển tầng" thấp có hình vẩy cá. Rồi đến một lớp mây "quyển tích" đen hình như tảng đe phát triển rất nhanh hình đe dày lên cao 3.000m, tất cả trở nên đen, u ám; mưa bắt đầu rơi, gió thổi, khí áp xuống nhanh. Trần mây thấp dần xuống [100m hay 50m], mây bay nhanh, gió thổi mạnh từng cơn, bão đã tới...Cường độ gió bão rất mạnh. Khi sấm sét đã xuất hiện thì có thể coi như cơn bão đã qua...

[Báo Mới]
Nguồn: thbt.vn

Thời gian qua, tình hình khu vực Biển Đông diễn biến phức tạp; nguy cơ xung đột vũ trang, tranh chấp biển, đảo và thềm lục địa của nước ta vẫn chưa được loại trừ do đang tồn tại những nhận thức khác nhau về chủ quyền và những yêu sách chủ quyền trái với thông lệ và luật pháp quốc tế. Một số nước lớn có tham vọng bá chủ Biển Đông và thôn tính quần đảo Trường Sa. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những bằng chứng không thể chối cãi rằng Quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam và là một bộ phận không thể tách rời của Việt Nam. Một trong những bằng chứng đó là việc tìm lại cội nguồn của cách đặt tên các đảo trên quần đảo Trường Sa để khẳng định chủ quyền của nước ta đối với quần đảo này.

Đảo Trường Sa lớn thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Quần đảo Trường Sa có tên tiếng Anh là Spratley Islands nằm ở phía nam Biển Đông, trong phạm vi từ 6050’N đến 12000’N và từ 111020’E đến 117020’E. Theo phương Tây Bắc - Đông Nam, nó có chiều rộng khoảng 400 km và theo phương Đông Bắc- Tây Nam rộng khoảng 900 km. Điểm gần nhất của quần đảo cách Vũng Tàu khoảng 340 hải lý và cách Cam Ranh khoảng 250 hải lý. Quần đảo Trường Sa có khoảng trên 150 đảo nổi, chìm lớn nhỏ với diện tích các đảo nổi vào khoảng 10 km2. Về mặt hành chính quần đảo Trường Sa là một huyện thuộc tỉnh Khánh Hòa: huyện đảo Trường Sa.

Vấn đề địa danh theo truyền thống Việt Nam, cũng như ngôn ngữ chung, vấn đề địa danh ở nước ta cũng thể hiện được tính dân tộc, khoa học, đại chúng và thống nhất.

Tính dân tộc: Theo truyền thống Việt Nam, địa danh là tên của một đối tượng địa lý. Quần đảo Trường Sa là tên gọi theo đối tượng địa lý trên Biển Đông. Thời Hồng Đức, trong “Toàn tập Thiên nam tứ chí lộ đồ thư” trên bản đồ có ghi là Bãi Cát vàng. Như vậy, với truyền thống đại chúng Việt Nam, thì thuật ngữ Bãi Cát Vàng là một từ thuần Việt để xác lập chủ quyền của nước ta đối với quần đảo này. Còn trên “Đại Nam nhất thống toàn đồ” được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ XVIII cũng đã ghi quần đảo Trường Sa. Như vậy, theo các tư liệu cũ thì các thuật ngữ Bãi Cát Vàng rồi sau này là Trường Sa đều là các địa danh mang truyền thống của người Việt Nam.

Tính khoa học của địa danh: Mỗi địa danh đều có tính khoa học địa lý và nhân văn trong đó, đồng thời cũng mang tính quốc tế. Các đối tượng địa lý trên biển và đại dương nói chung, cũng như Biển Đông nói riêng đều có những tính chất ấy. Quần đảo là tên chỉ một nhóm đảo nằm gần nhau chiếm một vùng biển có diện tích không hạn chế [ví dụ quần đảo Indonesia có diện tích hàng triệu km2, quần đảo Trường Sa có diện tích hàng trăm ngàn km2]. Tên tiếng Anh là Archipelago hoặc cũng có thể dùng từ đảo với số nhiều Islands. Đảo là một từ để chỉ một vùng đất, đá... nhô lên khỏi mực nước, ngay cả khi thủy triều dâng cao. Độ cao có thể thay đổi từ vài mét đến vài nghìn mét và diện tích thường khoảng trên 1km2. Tên tiếng Anh là Island. Hòn là một từ để chỉ các đảo có diện tích nhỏ hơn, thường dưới 1 km2 và độ cao cũng nhỏ hơn. Tên tiếng Anh là Islet. Ví dụ Hòn Tre, Hòn Trứng Lớn...Bãi là từ dùng để chỉ một vùng đất nhô lên khỏi mặt nước khi thủy triều xuống và bị ngập khi thủy triều lên. Tên tiếng Anh là Shoal. Bãi ngầm là từ dùng để chỉ những khu vực có kích thước đáng kể và bị ngập dưới nước tương đối sâu [có thể tới vài chục mét hoặc hơn]. Tên tiếng Anh là Bank. Đảo san hô vòng để chỉ các cấu tạo san hô dạng vòng thường là hình bầu dục không liên tục, phía trong là một vùng nước không sâu lắm [từ vài mét đến vài chục mét]. Tên tiếng Anh là Atoll. Hầu hết các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa đều có dạng này. Thực tế, các đảo này đều được viết bằng Island chứ không dùng Atoll. Rạn san hô dùng để chỉ các cấu tạo san hô còn ngập dưới biển và không có dạng vòng. Tên tiếng Anh là Reef. Từ tiếng Anh này cũng được sử dụng nhiều lần trên quần đảo Trường Sa.

Tính đại chúng: Tính đại chúng của một địa danh nào đó phải được nhiều người trong nước hiểu hoặc hình dung ra đối tượng địa lý mà nó được mang tên và khi đọc lên hoặc viết ra không nhầm lẫn với một địa danh nước ngoài.

Tính thống nhất: Tính thống nhất của địa danh thể hiện ở chỗ trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày, trong các văn bản, sách báo, bản đồ, mỗi đối tượng địa lý chỉ có một tên thống nhất, không đặt nhiều tên khác nhau để tránh nhầm lẫn. Nếu cần thiết thì ghi tên của địa phương có địa danh đó hoặc tên cũ của địa danh.

Cho đến nay trong phạm vi quần đảo Trường Sa đã có tới hơn 150 địa danh mang tên tiếng Việt và quốc tế. Chẳng hạn như: Bãi Thuyền Chài [Barque Canada Reef]; Bãi Huyền Trân [Alexandra Reef]; Bãi Phúc Nguyên [Prince Consort Bank]; Đảo Nam Yết [Namyit Island]; Đảo Loại Ta [Loaita Island]; Đảo Sinh Tồn [Sin Cowe Island]; Đá Cô Lin [Collins Reef]; Đá Núi Le [Comwallis South Reef]; Đá Tốc Tan [Alison Reef]... Điều đó cho thấy, việc đặt tên các địa danh ở Trường Sa đã sử dụng hầu hết các danh từ chung như đã nêu: Đảo [Island], Bãi [Bank], Đá [Reef hoặc Rock]. Trong đó đa số địa danh được đặt tên theo tính dân tộc - đó là đặt tên đã sử dụng tính mô phỏng hay đặc tả [như các tên Thuyền Chài, Sơn Ca...], danh nhân [Phan Vinh, Huyền Trân...], định hướng [Song Tử Tây, Song Tử Đông, Đá Bắc, Đá Nam...], âm hán [Kỳ Vân, Song Tử...].

Như vậy: việc tìm lại nguồn gốc trong việc đặt tên cho quần đảo Trường Sa và các đảo, bãi, đá, hòn... trên quần đảo đó là một trong những bằng chứng để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này và là một bộ phận không thể tách rời của Việt Nam.

Video liên quan

Chủ Đề