So sánh phật giáo và ấn độ giáo

Sự khác biệt giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo

Vì Ấn Độ giáo và Phật giáo là hai tôn giáo phương đông có nhiều niềm tin giống nhau, nên các tín đồ của các tín ngưỡng khác k

Lịch sử Phật giáo

Trước khi so sánh hai tôn giáo vĩ đại này có lẽ chúng ta nên tìm về cội nguồn của nó. Trong khi Ấn giáo không có một cá nhân đại diện sáng lập ra thì nhân vật có thật trong lịch sử đã khai sinh ra Phật giáo có tên Sĩ-Đa-Tha Cồ-đàm [Siddhartha Gautama] [sự khác biệt thứ nhất], ngoài cái tên này ra thì còn có nhiều tên gọi, danh hiệu khác đơn cử như Thích Ca Mâu Ni [Shakyamuni], nghĩa là Bậc thức giả tộc Thích Ca, hoặc chỉ gọi đơn giản là Phật, tức một người đã giác ngộ, toàn giác, biết tất cả mọi thứ. Theo trang Wiki thì Gautama được sinh ra vào khoảng năm 624 TCN tại một tiểu quốc nằm gần biên giới Nepal-Ấn Độ; Ngài mất vào khoảng năm 544 TCN.

Sau khi Phật qua đời khoảng 400 năm thì các kinh sách mới bắt đầu được đặt bút ghi chép lại, còn trước đó thì các tăng đoàn chỉ có truyền thống truyền miệng những lời Phật nói. Một người có thể đặt ra nghi vấn liệu tất cả những kinh sách Phật giáo có đầy đủ hay chính xác 100% không thêm bớt chỉnh sửa hay không? Đó cũng là lý do vì sao trong Phật giáo có rất nhiều tông phái khác nhau với 3 nhánh lớn: Nam Tông [Tiểu Thừa], Bắc Tông [Đại Thừa], và Kim Cương Thừa; trong những nhánh lớn này lại còn có phân chia ra những nhánh nhỏ hơn. Chúng ta chỉ có thể trau dồi đức tin vào kinh sách và tự vận dụng trí não của mình và tìm ra những gì phù hợp với bản thân. Trăm sông đổ về một biển. Đại dương chân lý không từ chối một con sông nào. Mọi con đường đều dẫn tới cùng một chân lý, vấn đề chỉ là nhanh chậm thế nào và có phù hợp với mình hay không.

Cuộc đời của Gautama không những trùng hợp với thời kỳ phát triển của Ấn giáo, mà còn trùng với sự phát triển của trường phái tu khổ hạnh [Sramana] như Kỳ-na giáo, Ājīvika, Ajñana, Cārvāka [triết học duy vật khoái lạc]. Phật Thích Ca đã đề xướng con đường Trung đạo [Majjhimāpaṭipadā], vừa từ bỏ đời sống vật chất lạc thú và cũng vừa từ bỏ lối tu ép xác khổ hạnh đang thịnh hành thời đó.

Thích Ca xuất thân là một chàng hoàng tử của một vương quốc nhỏ, sống trong nhung lụa, ăn sung mặc sướng. Năm 29 tuổi anh quyết định từ bỏ mọi vinh hoa phú quý để chập chững bước chân vào con đường đạo, hầu tìm kiếm và giác ngộ chân lý, bản chất của thực tại, của sự tồn tại. Trong 6 năm anh đã khổ luyện những phương pháp thực hành tâm linh của Ấn giáo như ngồi thiền và yoga với 2 người thầy và đã đạt tới những tầm mức trình độ đáng kể. Tuy nhiên nó vẫn không mang lại được thỏa mãn cho Gautama; anh thấy mình vẫn chưa chứng thực giác ngộ.

Có một chuyện cần lưu ý ở đây. Nhiều người căn cứ vào chi tiết này để lý luận rằng Ấn giáo thua kém Phật giáo, hay Ấn giáo không thể mang tới giác ngộ, trong khi Phật giáo thì có thể! Đây là một quan niệm hết sức ngây thơ, sai lầm, vô minh. Bởi vì nếu chịu khó suy nghĩ kỹ hơn, sâu hơn thì sẽ thấy nó không đơn giản như vậy. Có một số nghi vấn cần được trả lời ở đây trước khi một người có thể hồ đồ phán xét: Chúng ta phải biết được 2 vị thầy của Gautama đã dạy anh những gì? Nó có đại diện được cho toàn bộ Ấn giáo không? Và bản thân Gautama đã hiểu được những gì? Nếu gặp một người thầy thứ ba giỏi hơn hai người trước thì sao? Tại sao Gautama không thể chứng đắc được với những thứ đã được học trong khi nhiều người khác trong quá khứ cũng như tương lai thì có thể? Có khi nào con đường này không phù hợp với chàng hoàng tử Gautama nhưng lại phù hợp với những người khác? Theo tôi đây mới là câu trả lời chính xác nhất.

Thích Ca sau khi giác ngộ tới khi lìa trần là 45 năm đã dành thời gian đó để đi khắp nơi có thể để rao giảng những đạo lý của Ngài. Thời đó Ấn giáo đang thịnh hành trong dân gian tại vùng đất Nepal – Ấn Độ. Ra đời trong một hoàn cảnh như thế nên nó có thể được nói rằng nguồn gốc của Phật giáo là Ấn giáo, hay nói cách khác là nếu Ấn giáo là mẹ thì Phật giáo là [một trong những người] con trai. Khi tôi nói ra quan điểm này trong THĐP Club thì có một thanh niên, fan hâm mộ Phật giáo mới “phản biện” bằng cách nêu ra hàng loạt những điểm khác biệt, những triết lý mới chỉ có trong Phật giáo như một con vẹt robot 4.0, như thể B bắt nguồn từ A thì B phải giống A 100%! Nếu đã giống nhau y đúc thì tạo ra một tôn giáo mới để làm gì nữa?

“Khi tôi nói rằng Phật giáo là một phần của Ấn giáo, một số người phê phán tôi. Nhưng nếu tôi nói rằng Ấn giáo và Phật giáo là hoàn toàn khác nhau, nó sẽ không đúng với sự thật.” — Đạt Lai Lạt Ma

Biểu đồ so sánh

Biểu đồ so sánh Phật giáo và Ấn Độ giáo đạo PhậtẤn Độ giáoNiềm tin của ChúaThực tiễnNguồn gốcCuộc sống sau khi chếtSử dụng tượng và hình ảnhNgười sáng lậpNghĩa đenBản chất con ngườiGiáo sĩQuan điểm của Đức PhậtThánh thưPhương tiện cứu rỗiNgười theo dõiNgôn ngữ gốcTình trạng của phụ nữNguyên tắcKết hônPhân bố địa lý và chiếm ưu thếQuan điểm của các tôn giáo Dharmic khácMục tiêu của triết họcQuan điểm về các tôn giáo khácNgày lễ / ngày lễ chính thứcXưng tộiThời điểm xuất xứDân sốNhững người vô thần có thể tham gia vào thực hành của tôn giáo này?Tôn giáo mà những người vô thần vẫn có thể là tín đồ củaBiểu tượngChính quyền của Dalai LamaLuật tôn giáoNơi và thời gian xuất xứTình trạng của Veda

Ý tưởng về một người sáng tạo toàn năng, toàn năng, toàn diện bị từ chối bởi những người theo đạo Phật. Chính Đức Phật đã bác bỏ lập luận thần học rằng vũ trụ được tạo ra bởi một Thiên Chúa cá nhân, tự giác.Nhiều vị thần, nhưng nhận ra rằng tất cả họ đều đến từ Atman.
Thiền định, Bát chánh đạo; chánh kiến, nguyện vọng đúng đắn, phát ngôn đúng đắn, hành động đúng đắn, sinh kế đúng đắn, nỗ lực đúng đắn, chánh niệm, tập trung đúng đắnThiền, yoga, chiêm niệm, yagna [thờ cúng xã], cúng dường trong đền thờ.
Tiểu lục địa Ấn ĐộTiểu lục địa Ấn Độ
Tái sinh là một trong những tín ngưỡng trung tâm của Phật giáo. Chúng ta đang ở trong một chu kỳ vô tận của sinh, tử và tái sinh, chỉ có thể bị phá vỡ bằng cách đạt được niết bàn. Đạt được niết bàn là cách duy nhất để thoát khỏi đau khổ vĩnh viễn.Một vòng luân hồi liên tục cho đến khi giác ngộ đạt được.
Chung. Tượng được sử dụng làm đối tượng thiền định, và được tôn kính khi chúng phản ánh phẩm chất của Đức Phật.Chung
Đức Phật [sinh ra là Hoàng tử Siddhartha]Không ghi có vào một người sáng lập cụ thể.
Phật tử là những người làm theo lời dạy của Đức Phật.Các tín đồ của Vedas được gọi là Arya, người cao quý. Arya không phải là một triều đại, sắc tộc hay chủng tộc. Bất cứ ai làm theo lời dạy của Vedas đều được coi là Arya.
Vô minh, như tất cả chúng sinh. Trong các văn bản Phật giáo, người ta thấy rằng khi Gautama, sau khi thức tỉnh, được hỏi liệu anh ta có phải là một người bình thường không, anh ta trả lời: "Không".Phụ thuộc vào giáo phái.
Tăng đoàn Phật giáo, gồm các Tỷ-kheo [tu sĩ nam] và bhikkhunis [nữ tu]. Tăng đoàn được hỗ trợ bởi các Phật tử tại gia.Không có giáo sĩ chính thức. Gurus, Yogis, Rishis, Brahmins, Pundits, linh mục, nữ tu sĩ, tu sĩ và nữ tu.
Giáo viên cao nhất và người sáng lập Phật giáo, nhà hiền triết toàn diện.Một số giáo phái Hindu tuyên bố Phật là hình đại diện của Vishnu. Những người khác tin rằng ông là một người đàn ông thánh thiện.
Tam Tạng - một giáo luật rộng lớn bao gồm 3 phần: Các bài giảng, Kỷ luật và Bình luận, và một số kinh sách đầu tiên, như các văn bản Gandhara.Vedas, Up Biếnad, Purana, Gita. Smrti và Sruti là kinh điển bằng miệng.
Đạt đến giác ngộ hay Niết bàn, đi theo Bát chánh đạo.Đạt đến giác ngộ bằng con đường tri thức, con đường sùng đạo hay con đường hành động tốt.
Phật tửNgười Ấn giáo.
Pali [truyền thống Theravada] và tiếng Phạn [truyền thống Đại thừa và Kim cương thừa]Tiếng Phạn
Không có sự phân biệt giữa nam và nữ. Phụ nữ ngang hàng với đàn ông và đàn ông ngang hàng với phụ nữ trong Tăng đoàn. Đức Phật đã ban cho Nam và Nữ quyền bình đẳng và một phần chính trong Tăng đoàn.Phụ nữ có thể trở thành nữ tư tế hoặc nữ tu. Phụ nữ được trao quyền bình đẳng như đàn ông.
Cuộc sống này là đau khổ, và cách duy nhất để thoát khỏi đau khổ này là xua tan sự thèm muốn và vô minh của một người bằng cách nhận ra Tứ diệu đế và thực hành Bát chánh đạo.Tuân theo pháp, tức là luật vĩnh cửu
Kết hôn không phải là một nghĩa vụ tôn giáo. Tăng ni không kết hôn và sống độc thân. Lời khuyên trong các diễn ngôn về cách duy trì hôn nhân hạnh phúc và hòa thuận.Đàn ông có thể cưới một người phụ nữ. Tuy nhiên, các vị vua trong thần thoại thường kết hôn với nhiều phụ nữ.
[Đa số hoặc ảnh hưởng mạnh] Chủ yếu ở Thái Lan, Campuchia, Sri lanka, Ấn Độ, Nepal, Bhutan, Tây Tạng, Nhật Bản, Myanmar [Miến Điện], Lào, Việt Nam, Trung Quốc, Mông Cổ, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông và Đài Loan. Các nhóm thiểu số nhỏ khác tồn tại ở các quốc gia khác.Chủ yếu ở Ấn Độ, Nepal và Mauritius. Có dân số đáng kể ở Fiji, Bhutan, UAE, v.v.
Vì từ Pháp có nghĩa là giáo lý, luật pháp, cách thức, giáo lý hay kỷ luật, các Pháp khác bị từ chối.Họ tin rằng Phật tử, Jain và Sikh nên đoàn tụ với Ấn Độ giáo [vốn là tôn giáo Dharmic gốc].
Để loại bỏ đau khổ về tinh thần.Sự cứu rỗi, tự do khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Là một triết lý thực tế, Phật giáo là trung lập chống lại các tôn giáo khác.Một số câu thánh thư nói rằng con đường họ mô tả là con đường duy nhất đến với Chúa và sự cứu rỗi. Kinh sách khác là triết học nhiều hơn tôn giáo. Niềm tin khác nhau. Một số người tin rằng tất cả các con đường tâm linh dẫn đến cùng một Thiên Chúa.
Ngày Vesak trong đó sự ra đời, sự thức tỉnh và parinirvana của Đức Phật được cử hành.Diwali, Holi, Janmashtami, Ganesh Chaturthi, v.v.
Tội lỗi không phải là một khái niệm Phật giáo.Ăn năn tội lỗi vô ý được quy định, nhưng tội cố ý phải được hoàn trả thông qua các hậu quả nghiệp.
2.500 năm trước, khoảng năm 563 trước Công nguyên [Trước kỷ nguyên chung]khoảng 3000 BCE
500-600 triệu1 tỉ.
Đúng.Đúng.
Đúng.Charvakas và Sankyas là những nhóm vô thần trong Ấn Độ giáo.
Conch, nút thắt vô tận, cá, hoa sen, dù che, bình hoa, Pháp thân [Bánh xe Pháp], và biểu ngữ chiến thắng.Om, Swastika, v.v.
Dalai Lamas là hoa tulip của trường phái Gelug của Phật giáo Tây Tạng. Họ là những nhân vật văn hóa và độc lập với nền tảng giáo lý của Phật giáo.Không có.
Phật pháp.Pháp thân
Nguồn gốc của Phật giáo chỉ đến một người, Siddhartha Gautama, vị Phật lịch sử, người sinh ra ở Lumbini [ở Nepal ngày nay]. Ông đã giác ngộ tại Bodhgaya, Ấn Độ và thực hiện giáo lý đầu tiên của mình tại một công viên hươu ở Sarnath, Ấn Độ.Tiểu lục địa Ấn Độ, bắt đầu với nền văn minh Vệ đà vào khoảng năm 3000 trước Công nguyên
Đức Phật đã từ chối 5 Veda, theo các cuộc đối thoại được thấy trong nikayas.Vedas thường được coi là thiêng liêng trong Ấn Độ giáo. Các văn bản hậu Vệ Đà như Gita cũng được tôn kính.

chuabuuchau.com.vn,chuabuuchau, chua buu chau, chùa bửu châu, chua buu chau cu chi

  • Danh mục
  • TRANG CHỦ
  • GIỚI THIỆU
    • Hòa Thượng Khai Sơn
    • Đôi nét về Chùa Bửu Châu
    • Sinh hoạt nội bộ
  • TIN TỨC
  • TỪ THIỆN
  • TU HỌC
    • Thiền
    • Tịnh Độ
    • Mật Tông
    • Duy Thức học
    • Phật Pháp vấn đáp
    • Sức khỏe - Sống - Chết - Tái sinh
  • KINH SÁCH
    • Kinh giảng
    • Luật giảng
    • Luận giảng
    • Kiến thức Phật pháp
  • LIÊN TÔNG TINH ĐỘ NON BỒNG
  • PHÁP ÂM
    • Video
      • Thích Nhật Từ
      • Thích Trí Huệ
      • Thích Pháp Hòa
      • Pháp Sư Tịnh Không
      • Hòa Thượng Tuyên Hóa
      • Thích Trí Quảng
      • Thích Phước Tiến
      • ĐĐ. Thích Minh Thành
      • Thích Thiện Thuận
      • Thích Thiện Xuân
      • Thích Nhất Hạnh
      • Thích Thanh Từ
      • Thích Chân Quang
      • Thích Chân Tính
      • Thích Giác Hạnh
      • TT. Thích Minh Thành
      • Thích Bửu Chánh
      • Thích Thiện Tuệ
      • Thích Vạn Mãn
      • Thích Nữ Hương Nhũ
      • Thích Nữ Như Lan
      • Thích Thiện Chơn
      • Thích Thông Phương
      • Thích Tuệ Hải
      • Thích Viên Minh
      • Thích Thiện Hữu
      • Thích Minh Niệm
      • Thích Giác Hóa
      • Thích Tâm Đức
      • Thích Phước Tịnh
      • Thích Chiếu Khánh
      • Thích Nữ Tâm Tâm
      • Thích Nữ Hạnh Chiếu
      • Thích Nguyên Hạnh
      • Thích Quang Thạnh
      • Thích Trí Siêu
      • Thích Thiện Pháp
      • Thích Chân Hiếu
      • Thích Pháp Đăng
      • Thích Trí Chơn
      • Thích Nguyên An
      • Thích Giác Đăng
      • Thích Minh Hiếu
      • Thích Giác Khang
      • Thích Trúc Thái Minh
      • Thích Giác Tây
      • Thích Đồng Thành
      • Thích Trung Đạo
      • Thích Thái Hòa
      • Thích Giới Đức
      • Thích Giác Toàn
      • Thích Thông Triết
      • Thích Khế Định
      • Thích Nữ Như Thủy
      • Thích Minh Đạo
      • Thích Giải Hiền
      • Thích Nguyên Hiền
      • Thích Minh Chơn
      • Thích Trí Đức
      • Thích Tánh Tuệ
      • Thích Giác Giới
      • Thích Phước Đức
      • Thích Viên Trí
      • Thích Thiện Chấn
      • Ấn Quang Đại Sư
      • Thích Minh Thông
      • Thích Giác Nhiên
      • Thích Trúc Thông Phổ
      • Thích Quảng Thiện
      • Thích Thiện Huệ
      • Thích Từ Thông
      • Thích Pháp Hải
      • Thích Ngộ Thông
      • Thích Chánh Định
      • Thích Phước Nghiêm
      • Thích Duy Lực
      • Thích Nữ Huệ Liên
      • Thích Chân Giác
      • Thích Pháp Quang
      • Thích Thiện Hoa
      • Thích Minh Nhãn
      • Thích Tịnh Quang
      • Thích Tâm Hải
      • Giảng sư khác
    • Kinh tụng
    • Nhạc Phật giáo
    • Phim Phật giáo
    • Hòa tấu - Thiền Phật giáo
  • NGHIÊN CỨU
    • Các mảng khác
      • Chuyên đề
      • Gương sáng Đời Tu
      • Giáo dục Hoằng Pháp
      • Phật giáo và Khoa học
      • Phật giáo và Tuổi trẻ - Đời sống
      • Phật giáo và Môi sinh
      • Phật giáo và Nữ giới
      • Phật giáo và Hôn nhân
      • Phật giáo và Triết học
      • Phật giáo và Cuộc sống
    • Nghi thức tổng hợp
    • Sử Phật giáo
    • Văn hóa
    • Truyện tích Phật giáo
    • Lời tiền nhân
    • Văn học
    • Góc suy ngẫm
    • Lời Phật dạy
    • Nghệ thuật sống
    • Luận văn - Hội thảo
  • HÌNH ẢNH
    • Ảnh Phật và Bồ Tát
    • Tập ảnh Chùa Bửu Châu
×
  • Trang chủ
  • THƯ VIỆN NGHIÊN CỨU
  • Luận văn - Hội thảo
  • Những điểm khác biệt giữa tư tưởng Ấn Độ giáo và Phật giáo
  • Những điểm khác biệt giữa tư tưởng Ấn Độ giáo và Phật giáo



    DẪN NHẬP

    1. Giới thiệu khái quát và lý do chọn đề tài

    Nền đạo học phương đông đã dâng tặng cho nhân loại một kho tàng tri thức vô tận về vũ trụ và nhân sinh. Trong mấy ngàn năm qua, nền đạo học này đã và đang cống hiến cho nhân loại nhiều bài học vô giá về đạo đức, về triết lý nhân sinh…. và nó như suối nguồn tuôn chảy bất tận vào hàng triệu triệu trái tim con người trên khắp thế giới. Phương đông cũng là nơi cho ra đời nhiều tôn giáo nhất như Phật Giáo, Ấn độ giáo, Đạo giáo, Khổng giáo, Hồi giáo….

    Nền đạo học ấy đã và đang ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội. Như Sử gia người Pháp Y.Michelet [1798-1874] đã hết lời ca ngợi: “Ở phương tây cái gì cũng chật hẹp. Hy lạp nhỏ bé làm cho tôi ngột ngạt. Xứ Do Thái khô khan làm cho tôi khó thở. Hãy để cho tôi hướng về châu Á cao cả và phương đông thâm trầm trong giây lát. Chính nơi đó đã phát sinh ra bài thơ vĩ đại của tôi, mênh mang như Ấn Độ Dương ngập tràn ánh nắng mặt trời rực rỡ, tốt lành… tạo nên không khí thái hòa và tình thương vô bờ bến ngay giữa những cảnh tượng xung đột”.

    Nói đến phương đông không thể không nhắc đến Ấn Độ. Ấn Độ là một trong những cái nôi của nền triết học phương đông. Và cũng chính nơi đây đã khai sinh ra nhiều trường phái triết học và tôn giáo lớn trên thế giới “một tiểu vũ trụ của các tôn giáo và các nền triết học”. Nói đến Ấn Độ người ta liền nghĩ ngay đến Phật giáo và Ấn Độ giáo. Đây là hai tôn giáo lớn của Ấn độ nói riêng và của nhân loại nói chung. Mặc dù ra đời cách đây hơn mấy nghìn năm, trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, sự nghiệt ngã của dòng thời gian…nhưng nó vẫn luôn mang tính thực tiễn cao và có thể đương đầu với mọi vấn đề của xã hội hiện đại; Như nhà vật lý học nổi tiếng người Đức Albert Einstein [1879-1955] đã nói về Phật giáo: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật Giáo hay tôn giáo của tương lai sẽ là tôn giáo toàn cầu vượt lên mọi thần linh giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên đặt trên căn bản của ý thức đạo lý phát sinh từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi phương diện trên. Trong cái nhất thể đầy ý nghĩa đó chỉ có Đạo Phật đáp ứng đủ các điều kiện đó”.

    Có một điều chúng ta không thể phủ nhận là Ấn Độ giáo và Phật giáo đều ra đời tại Ấn độ nhưng về tư tưởng cũng như về giáo pháp có nhiều điểm khác biệt. Với mong muốn nghiên cứu về những điểm khác biệt ấy nên người viết mạnh dạn chọn đề tài “Những điểm khác biệt giữa tư tưởng Ấn Độ giáo và Phật giáo” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Có thể nói đây là đề tài mới mẽ mà Giáo sư Minh Chi gợi ý và hướng dẫn. Với luận văn này, Người viết chỉ xem đây như là một công việc tự nghiên cứu, tìm hiểu cho chính bản thân mình và có thể chia sẻ một phần nào đó cho những ai muốn tiếp cận với hai tôn giáo ấy. Tuy nhiên, sự nỗ lực cũng có giới hạn, cho nên luận văn này không sao tránh khỏi những khuyết điểm , ngưỡng mong các bậc thiện tri thức từ bi chỉ giáo.

    2. Giới hạn đề tài và phương pháp thực hiện

    “Những điểm khác biệt giữa tư tưởng Ấn độ giáo và Phật giáo” là một đề tài lớn, có thể viết thành một cuốn sách mấy trăm trang. Vì luận văn tốt nghiệp có độ dài giới hạn nên người viết chỉ giới thiệu đôi nét về sự khác biệt giữa hai tôn giáo ấy mà thôi.

    Để thực hiện luận văn, người viết dựa vào kiến thức đã học tập ở trường, cũng như một số tư liệu hiện có để so sánh và đối chiếu. Với đề tài trên, người viết sẽ trình bày khái quát về các quan niệm, tư tưởng của Phật giáo và Ấn độ giáo và sau đó chỉ ra nhưng điểm sai khác.

    3. Bố cục của luận văn

    Luận văn này được trình bày theo bố cục sau:

    NỘI DUNG

    Chương 1: Giới Thiệu Khái Lược Về Ấn Độ Giáo và Phật Giáo

    1.1. Bối cảnh xã hội Ấn độ cổ đại
    1.2. Ấn độ giáo
    1.3. Phật giáo


    Chương 2: Những Điểm Khác Biệt Giữa Tư Tưởng Ấn Độ Giáo VàPhật Giáo

    2.1. Quan niệm về giá trị con người
    2.2. Quan niệm về Linh Hồn
    2.3. Tư tưởng Nghiệp
    2.4. Tư tưởng Giải thoát


    KẾT LUẬN

    NỘI DUNG
    CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI LƯỢC VỀ ẤN ĐỘ GIÁO VÀ PHẬT GIÁO

    1.1. BỐI CẢNH XÃ HỘI ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

    Ấn độ cổ đại là một bán đảo có diện tích lớn nằm ở miền Nam châu Á. Đông nam và tây nam giáp với Ấn độ dương; Phía bắc là dãy núi Hymalaya và có hai con sông lớn: sông Ấn và sông Hằng. Từ hai con sông này đã hình thành nên đồng bằng phù sa thuận lợi cho việc trồng trọt, đồng thời cũng là nơi sản sinh ra nền văn hóa cổ xưa và rực rỡ nhất châu Á. Phía nam Ấn độ là cao nguyên Decan, là vùng đất nghèo nàn, cằn cõi, khô hạn, quanh năm nắng nóng.

    Do vậy, khí hậu giữa các miền của Ấn độ không đồng nhất với nhau, có nơi quanh năm tuyết phủ, có nơi lại khô hạn, nắng nóng.

    Thời cổ đại, Ấn độ có nhiều dân tộc sinh sống nên có nhiều ngôn ngữ khác nhau. Đông nhất và có vị trí quan trọng là tộc người Dravidiens ở phía nam và người Aryan sống ở phía bắc. Trong quá trình phát triển, có những quốc gia và các dân tộc khác bên ngoài xâm nhập vào Ấn độ rồi định cư như người Ba tư, Hi lạp….Những dân tộc này sống hòa lẫn với nhau xây dựng nên một nền văn minh vĩ đại cho nhân loại, thể hiện qua các mặt sau:

    Về kinh tế

    Nông nghiệp lúa nước là ngành kinh tế chủ yếu của người Ấn độ cổ đại. Họ biết đắp đê dẫn nước vào ruộng, biết dùng trâu cày và các công cụ bằng đồng….Ngoài ra ngành chăn nuôi cũng phát triển mạnh, các súc vật được nuôi thành từng đàn, từng bầy như ngựa, dê, lợn, gia cầm…..Vì nhu cầu cuộc sống nên nghề làm đồ gốm, đồ đồng cũng phát triển; từ đây quan hệ buôn bán, trao đổi xuất hiện ở hình thức sơ khai. Theo đà phát triển của xã hội, nghề thủ công nghiệp đã xuất hiện và gặt hái những thành tựu đáng kể “những thợ thủ công nghiệp đã tụ tập thành những tổ chức đặc biệt kiểu như phường hội. Những nghề thủ công nghiệp phát đạt nhất thời đó là nghề dệt bông, đay, tơ lụa, nghề làm đồ gốm và đồ trang sức”. [10, 25]

    Về chính trị

    Vào khoảng 1500 đến 1000 năm trước CN, tộc người Aryan đã di cư vào Ấn độ. Lúc đầu họ sinh sống bằng nghề chăn nuôi, du mục. Khi tấn công và chiếm đoạt được nhiều vùng đồng bằng tươi tốt của người Dravidien, họ đã học tập được kỹ thuật canh tác của người dân bản xứ và thay đổi lối sống từ chăn nuôi du mục sang định cư làm ruộng. Về sau người Aryan tổ chức ra các công xã nông thôn và phân chia ruộng đất cho các thành viên trong công xã. Đứng đầu công xã là xã trưởng và hội đồng bô lão của công xã. Họ vừa là người quản lý công xã, vừa là người đại diện cho công xã giao thiệp với các cấp trên [tù trưởng, sau khi thành lập quốc gia là vua].

    Khoảng 1000 đến 600 năm trước CN, thế lực người Aryan bành trướng dẫn đến kinh tế phát triển nhanh chóng, từ đây sự phân hóa giai cấp gay gắt tạo điều kiện hình thành các quốc gia. Như ở miền bắc Ấn độ, thế kỷ thứ VI trước CN có đến mười sáu quốc gia, hùng mạnh nhất là quốc gia Magadha ở hạ lưu sông Hằng.

    Về sau, vương triều Magadha bị lật đổ, thành lập nên triều đại Maurya [312 trCN], Asoka đã thống nhất và kiểm soát toàn bộ Ấn độ. Sau khi Asoka mất vương triều này suy sụp và dẫn đến diệt vong vào năm 28 trCN. Ấn độ lại bị ngoại bang xâm lược, mãi đến thế kỷ IV thì mới mới được thống nhất dưới triều Gupta và triều đại Harsa.

    Về văn hóa

    Về văn hóa, Ấn độ cổ đại đã thành tựu được một số lãnh vực sau:

    - Ngôn ngữ và chữ viết: Khi người Aryan xâm nhập vào Ấn độ họ đã dùng tiếng nói của mình để sáng tác ra bộ Kinh Veda [ngôn ngữ Veda]. Đến thế kỷ thứ IV trước công nguyên Panini đã sáng tác ra ngôn ngữ Sanskrit [ngôn ngữ này chỉ sử dụng trong tầng lớp quý tộc]. Dân chúng mỗi vùng có một thứ tiếng khác nhau. Do vậy ở Ấn độ có rất nhiều ngôn ngữ bình dân như Pali [ngôn ngữ của Phật Giáo], tiếng Tamin của người Dravidien ở miền Nam Ấn.

    - Thiên văn học: Xuất hiện từ thời Veda, họ đã quy định được một tháng gồm ba mươi ngày, một năm gồm có mười hai tháng…. và phỏng đoán được trái đất hình cầu và quay quanh trục của nó. Cuối thế kỷ thứ V trước CN, Thiên văn học đã giải thích được hiện tượng nhật thực, nguyệt thực.

    - Toán học: Người Ấn độ đã phát hiện ra chữ số thập phân và hình tượng các chữ số. Đặc biệt là họ đã tính được số Pi khá chính xác, biết được định lý Pitago, biết giải phương trình bậc hai, bậc ba….

    - Y học: Người Ấn đã biết chữa bệnh bằng cách dùng các loại cây và các phương pháp trị bệnh đơn giản. Về sau y học ngày càng phát triển, họ đã biết điều trị bệnh lâm sàng một cách thuần thục và chính xác….

    - Kiến trúc: Nổi bật nhất là lối kiến trúc xây dựng chùa chiền, đền tháp.

    - Văn học: Dân Ấn đã sáng tác ra các áng văn chương bất hủ như bộ Veda và các bộ sử thi: Mahabharata, Ramayana…..đây là niềm tự hào của nền văn hóa Ấn độ.

    1.2. ẤN ĐỘ GIÁO

    1.2.1. Quá trình hình thành

    Hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng Ấn độ giáo được hình thành và hoàn chỉnh qua các giai đoạn sau:

    1.2.1.1. Vệ Đà giáo hay Phệ Đà Giáo

    Đây là tôn giáo được hình thành sớm nhất ở Ấn độ, cũng là giai đoạn đầu tiên của Ấn Độ giáo. Nó ra đời dựa trên triết lý thánh kinh Vệ Đà.

    Người ta thường gọi tôn giáo này là đa thần giáo, bởi họ thờ cúng rất nhiều các vị thần như: Indra [thần sấm], surya [thần mặt trời], agni [thần lửa], apas [thần nước], rudra [thần bão tố], vayu [thần gió]…Có thể nói, hầu hết các hiện tượng thiên nhiên đều có một vị thần trông coi, cai quản. Việc thờ cúng các vị thần linh, đối với dân tộc Ấn độ cổ đại, không phải là mê tín mà do lòng tin tưởng chân thành. Họ cho rằng cúng bái thần linh là lẽ sống, là nhu cầu thiết yếu, cần thiết của con người. Do đó, “Bất cứ việc gì, đối với bản thân, gia đình hay với bộ tộc, hơi động một tí là cúng bái trước đã. Thắng trận, thu được chiến lợi phẩm dù ít hay nhiều, làm lễ cưới vợ, sinh được con cái, mua may bán đắt, gia súc không bệnh tật và sinh đẻ nhiều, mưa nắng điều hòa, mùa màng tươi tốt, trong nhà an vui khoẻ mạnh….nhất nhất đều cúng tế trước để tạ ơn hay kêu cầu rồi sau đó có làm gì thì làm. Hoặc giả là làm điều gì không phải mà ăn năn, sám hối, biết mình phạm tội nên cầu xin thần linh tha thứ đừng giáng tai họa trừng phạt đều đến trước bệ thờ kêu cầu, khấn vái, rồi lựa những bài thánh tán ca xưng tụng công đức từ bi của vị thần mình cầu xin để ca hát”. [15, 31-32]

    Qua đây chúng ta thấy được rằng, các vị thần linh có nhiệm vụ chở che và hộ trì mọi người, chuyển họa thành phúc…Do đó, người Ấn cổ đại bao giờ cũng đặt trọn niềm tin của mình vào các vị thần linh.

    1.2.1.2. Bà La Môn giáo

    Đến những thế kỷ đầu của thiên niên kỷ thứ nhất trước CN, do xã hội phát triển dẫn đến sự bất bình đẳng về giai cấp ngày càng sâu sắc; và dựa trên nền tảng Vệ đà, cũng như các hình thức dân gian… đã tập hợp thành một tôn giáo mới gọi là Bà La Môn. Đây cũng là giai đoạn chuyển bị thứ hai của quá trình hình thành Ấn độả giáo sau này.

    Lúc đầu, Bà La Môn giáo phát triển rất mạnh mẽ và có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với xã hội Ấn độ cổ đại. Nếu như Vệ đà giáo thờ cúng rất nhiều thần linh thì Bà La Môn giáo chỉ tập trung tôn thờ ba vị thờ chính yếu như sau:Brahma [Phạm thiên hay Đại Phạm Thiên],Visnu [Tì nữu], Shiva [Thấp bà thiên]. Ngoài ra Bà La Môn giáo còn thờ các vị thần khác như thần Agni, thần Indra, thần surya…..và họ cũng sùng bái nhiều loại động vật như voi, khỉ và nhất là bò….

    Bà la môn cũng đã góp công thiết lập và duy trì chế độ giai cấp xã hội. Do vậy, xã hội Ấn độ thời bấy giờ được chia ra làm bốn giai cấp: Giai cấp Brahmin [Bà la Môn], giai cấp Kshatriya [Sát đế lợi], giai cấp Vaisya [Vệ xá], giai cấp Sudra [Thủ đà la]. Ngoài các giai cấp trên còn có một giai cấp nữa gọi là Paria, là những người nô lệ, cùng khổ.

    Để củng cố cũng như bảo vệ hệ thống giai cấp trên, người Aryan còn tạo ra một bộ luật Manu-đây là bộ luật nghiêm khắc và có rất nhiều điểm cực đoan. Nói về các giai cấp, luật Manu viết: “Vì sự phồn vinh của cả thế giới, từ mồm, tay, đùi và bàn chân của mình [Brahma] đã tạo ra Brahmin, Kshatriya, Vaisya, Sudra” hay: “Do sinh ra từ bộ phận cao quý nhất của thân thể Brahma, do sinh sớm nhất, do hiểu biết Veda, Bà la môn có quyền là chúa tể của tất cả các tạo vật ấy” [20, 88]. Trong bộ luật này cũng khẳng định: “Bà la môn mười tuổi và vua một trăm tuổi nên được coi là cha con nhưng trong ấy cha là Bà la môn”. [20, 88]

    Vào thời kỳ này có đến sáu phái triết học: Sankhya [Số luận], Yoga [Du già], Vaisesika [Thắng luận], Nyaya [Chánh lý], Mimansa [Di man tát] và Vedanta [Phệ đàn đà]. Các phái triết học này được xem thuộc hệ thống của Bà la môn giáo.

    Qua đây chúng ta thấy được rằng chế độ giai cấp ở Ấn độ thời bấy giờ thật là nặng nề, khắc khe; nó buộc con người phải sống đúng thân phận của mình và phải tuân thủ theo bộ luật Manu và những gì đạo Bà la môn quy định.

    Bà la môn phát triển rộng rãi ở Ấn độ nhưng khi Phật giáo xuất hiện thì bị suy tàn trong một thời gian dài.

    1.2.1.3. Ấn Độ Giáo

    Sau một thời gian dài suy vi, đến thế kỷ VII Bà la môn dần dần được chấn hưng trở lại. Sau đó họ bổ sung thêm nhiều vấn đề mới như về đối tượng sùng bái, về kinh điển, về nghi thức tế tự…. Về đối tượng sùng bái, họ tập trung và đề cao ba vị thần : Brahma, shiva và visnu; về kinh điển họ tiến hành biên soạn lại kinh điển như bộ Brahmana [Phạm thư]- bộ này nhầm chú giải và thuyết minh những tinh hoa của Veda. Cũng từ đây các bộ lớn khác như Aranyaka [Lâm trung thư], Upanishad [Áo nghĩa thư] cũng được biên soạn. Thời kỳ này người ta gọi là Ấn độ giáo [hay Bà la môn canh tân]. So với Bà la môn, thánh điển Ấn độ giáo có phần khác hơn nhưng nền tảng chung thì vẫn là căn cứ vào bộ Veda và chế độ giai cấp nặng nề, khắt khe của Bà la môn giáo gần như được giữ nguyên.

    Nói chung: Ấn độ giáo là một tôn giáo đa thần. Lúc đầu họ thờ cúng rất nhiều vị thần linh, về sau được hệ thống hóa lại chỉ còn có ba vị thần chủ yếu mà thôi. Các bộ thánh điển của tôn giáo này có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống văn hoá xã hội cũng như các tôn giáo được khai sinh sau đó. Điểm đặc biệt của Ấn độ giáo là không có một vị giáo chủ nào sáng lập rõ cả. Sự duy trì và truyền bá của tôn giáo này hoàn toàn phụ thuộc vào các giáo sĩ mà thôi. Có một điều chúng ta không thể phủ nhận, dù Ấn độ giáo không được truyền bá rộng rãi như Phật giáo nhưng ở tại Ấn độ nó có ảnh hưởng rất lớn. Theo số liệu thống kê của các nhà nghiên cứu vào năm 1991 thì ở Ấn độ có tới 83% dân số là tín đồ của Ấn giáo, trong khi đó tín đồ Phật giáo chỉ chiếm 0.76% mà thôi.

    1.2.2. Kinh điển của Ấn Độ Giáo

    Kinh điển của Ấn độ giáo chủ yếu có ba bộ lớn như sau:

    1.2.2.1. Bộ Veda [Vệ đà]

    Veda bắt nguồn từ căn ngữ “Vid”, nghĩa là tri thức, kiến thức, hiểu biết. Như vậy Veda là bộ sách của sự hiểu biết, bộ sách về tri thức. Bộ này vốn không do một ai sáng tạo ra cả mà nó là bộ sách được sưu tập và biên soạn lại bằng tiếng Sanskrit vào khoảng từ năm 1000 đến 800 trước CN, được mọi người tôn xưng là “Thánh kinh Veda”. Theo các học giả hiện đại, Veda được sắp xếp theo bốn tập sau:

    Bốn tập Samhitas [Sam có nghĩa là cùng với nhau, hita là sắp xếp hay sưu tập], cũng gọi là bốn bộ Veda

    Rig Veda [thường được phiên âm là Lê câu vệ đà]: Gồm có 1028 bài thánh ca nhằm ca tụng, tán dương các vị thần linh. “Những bài thánh ca này ngoài ý nghĩa tín ngưỡng, nó còn là tác phẩm văn học có giá trị và thông qua đây chúng ta cũng hiểu được về nhân sinh quan và vũ trụ quan của người Ấn độ cổ đại” [27, 11]…Đây là quyển xưa nhất và quan trọng nhất trong bốn quyển Veda.

    Sama Veda [Sa ma vệ đà]: Gồm có 1549 bài tán ca được trích ra từ Rig Veda kết hợp với một ít bài mới. Nó được coi là “tri thức về các giai điệu ca chầu, cầu nguyện thần linh khi hành lễ”.

    Yajur Veda [Da du vệ đà]: Bộ này tập hợp những nghi thức khấn vái thần linh và cách bố trí các lễ vật trong khi cúng tế. Có nhiều đoạn trong này được rút ra từ Rig Veda. Tuy nhiên Yajur Veda lại có những đoạn văn xuôi ngắn và một số đoạn tán ca có chung một đề tài.

    Atharva Veda [A thát bà vệ đà]: Là bộ ghi chép những câu thần chú, ma thuật…dùng để cầu phúc, cầu an, giải hạn, cầu cho mọi người tai họa được tiêu trừ… nhằm đem lại điều may mắn tốt lành cho bản thân, gia đình và xã hội. Mặt khác nó còn có thể gây thương tổn cho kẻ thù, nguyền rủa kẻ thù….

    1.2.2.2. Upanishad [Áo nghĩa thư] có ba nghĩa chủ yếu

    - Theo Max Muller, Upanishad có nghĩa là lớp học trong rừng, ở đây những người học trò ngồi xung quanh thầy và nghe thầy giảng.

    - Theo Deussen, thì Upanishad có nghĩa là giáo lý bí mật, mà người thầy chỉ truyền trao cho một số ít học trò đã được thử thách và lựa chọn.

    - Theo Sankara, nhà sớ giải nổi tiếng của tập Upanishad, thì Upanishad có nghĩa là đoạn trừ, tiêu hủy tức là triết lý này đoạn trừ sự si mê, ngu dốt và mở đường cho chánh kiến và giác ngộ, giải thoát.

    Upanishad có tổng cộng 180 cuốn, được biên soạn vào cuối thời kỳ Veda. Cho nên nó còn có tên là Vedanta, nghĩa là sự kết thúc của Veda [sự kết thúc ở đây tức là sự hoàn chỉnh, hoàn thiện của tư tưởng Veda]

    Nội dung chủ đạo của Upanishad là nhất nguyên và duy tâm

    Nhất nguyên là vì các tác giả của Upanishad cho rằng: “Atman là Brahman, ẩn sâu trong con người” [5, 25]. Cũng có nghĩa bản thể của vũ trụ vạn hữu là cái bí mật của con người và biết được Atman tức cũng biết được Brahman. Mà muốn “hiểu biết về Atman không thể đạt được bởi lý luận. Atman sẽ trở nên dễ dàng lĩnh hội khi được giảng giải bằng cách khác [nhận thức trực giác, hướng nội hay thực nghiệm tâm linh]. Bây giờ ngươi đã đạt được sự hiểu biết đó” [8, 100]. Như vậy muốn nhận ra được Atman, chúng ta phải quay về bên trong bằng con đường thực nghiệm tâm linh thì mới có thể thấy được bản chất của con người tức là Atman. Có khi người ta còn đồng nhất Atman với hơi thở.

    Duy tâm là vì Atman là cái nằm ẩn sâu bên trong, là cái bản chất của con người, của mỗi chúng sanh, “Atman ẩn dấu sâu kín trong trái tim của vạn vật đang sinh tồn. Người thoát khỏi sự ràng buộc của dục vọng và thế giới vật dục là người thấy được vẻ uy nghiêm của Atman qua sự yên tĩnh của tri giác và trí tuệ, người đó sẽ đạt được tự do từ khổ đau” [8, 103].

    Trong Upanishad, chúng ta cũng tìm thấy được những thuyết nghiệp [Karma], luân hồi và các phương pháp thực tập đưa đến giải thoát…….

    1.2.2.3. Bhagavad Gita [Chí Tôn Ca ]

    Mahabharata là tác phẩm sử thi của Ấn độ nói riêng và của nhân loại nói chung, được xem là cuốn “Bách khoa toàn thư”. Ngạn ngữ Ấn cũng đã khẳng định: “Cái gì không được thấy trong Mahabharata thì cũng không thể thấy được ở Ấn độ”. Bộ sử thi này gồm có 200.000 câu thơ, dài gấp bảy lần tổng số câu của hai bộ sử thi cổ Hy Lạp Iliade và Odyssee cộng lại. Nó được biên soạn vào khoảng năm 500 trước công nguyên, đây là công trình sáng tác tập thể của nhiều thi nhân và trải qua nhiều thế hệ.

    Dưới triều đại các vua của Gupta, Bhagavad Gita được bổ sung vào bộ sử thi này và trở thành cuốn VI của toàn tập Mahabharata. Theo một số học giả thì. Bhagavad Gita gồm có 700 câu thơ và được chia thành 18 đoạn.

    Bhagavad Gita là bộ thánh điển quan trọng của Ấn độ giáo. Nó không những là tác phẩm văn học có giá trị mà còn cô đúc được hầu như tất cả những nguyên lý chính của đời sống tâm linh ấn độ cổ đại. Nội dung chủ yếu của thánh ca này là trình bày về:

    - Con đường tri thức

    “Nhờ ánh sáng của Jnana [tri thức], nhà ngươi sẽ nhận biết Brahma trong chính Atman của mình và ở trong Ta”. [13, 149]

    - Con đường của hành động:

    “Hành động của ai thoát khỏi dục vọng, được ngọn lửa của tri thức soi sáng, người đó xứng đáng là bậc hiền giả ở đời” [13, 149]

    - Con đường của sự sùng tín:

    “…..Những ai có lòng thành kính, vọng tưởng đến Ta…..những người đó mới thật là tông đồ mộ đạo, hiện hữu gần nhất bên Ta”. [13, 151]

    1.3. PHẬT GIÁO

    1.3.1. Quá trình hình thành

    Trước khi Phật ra đời, xã hội Ấn độ rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt của đời sống xã hội. Thời kỳ này tầng lớp Bà La Môn được kính trọng, tôn sùng tuyệt đối; bởi họ là những người được coi là có tri thức, có khả năng giảng dạy đạo lý và cúng tế thần linh. Còn giai cấp Sát Đế lợi [vua chúa, tướng lĩnh….] thống trị quốc gia, thâu tóm gần như toàn bộ đất đai. Trong khi đó, các giai cấp dưới phải lao động vất vả, chịu mọi sự khổ cực để cung phụng cho các giai cấp trên. Chính những lý do này khiến cho đời sống xã hội ngày càng nảy sinh mâu thuẫn sâu sắc và dẫn đến sự phản kháng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, đòi quyền tự do, bình đẳng. Cũng chính vào thời điểm này ánh sáng từ bi trí tuệ của Phật giáo đã xuất hiện. “Phật giáo xuất hiện như là sự đáp ứng nhu cầu tinh thần phản kháng xã hội; một mặt nó phản ánh nỗi bất hạnh, đau khổ thực tế của nhân dân Ấn độ; mặt khác nó phản kháng chế độ đẳng cấp nghiệt ngã, chống lại sự áp bức, bất bình đẳng giữa con người. Nó công khai chống lại giáo lý truyền thống của kinh Veda và đạo Bà la môn, bác bỏ uy quyền thần thánh, xây dựng niềm tin vào chính con người”.

    Vậy Ai là người khai sáng ra Phật giáo?

    Đó chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni-Người đã khai sáng ra Phật giáo ra đời vào năm 563 trCN tại vườn Lumbini [Lâm Tỳ Ni], trong thành Kapilavastu [Ca tỳ la vệ] ở gần biên giới Nepan ngày nay. Ngài được đặt tên là Siddhattha [có nghĩa là người được toại nguyện], họ Gotama. Cha là quốc vương suddhodana [Tịnh Phạn]trị vì vương quốc Kapilavastu; mẹ là hoàng hậu Màyà [Ma Gia]. Sau khi Siddhattha chào đời được bảy ngày thì hoàng hậu đột ngột qua đời, việc nuôi dưỡng thái tử được giao lại cho em gái là Pajàpati Gotamì.

    Thời niên thiếu, thái tử được chăm sóc và dạy dỗ một cách toàn diện cả hai lĩnh vực văn và võ. Không bao lâu Ngài đã tinh thông tất cả, đến nỗi các vị danh sư nổi tiếng phải cúi đầu thán phục. Ngoài sự thông minh, văn võ toàn tài, Thái tử còn được mọi người yêu mến vì sự hiếu thảo, tính khiêm cung và lòng thương người…..

    Khi mười sáu tuổi, vâng lời vua cha, thái tử kết hôn với công chúa Yasodhara [Da du đà la]-một người em cô cậu cùng tuổi với Ngài, ít lâu sau công chúa đã hạ sinh một hoàng nam tuấn tú đặt tên Ràhula.

    Mặc dù sống trong cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh nhưng lúc nào Thái tử cũng trầm ngâm, suy tư nhiều về kiếp sống nhân sinh “chính ta phải chịu cảnh sanh, già, bịnh, chết, phiền não và nhiễm ô”. hay Ngài suy niệm: “Cuộc sống tại gia rất tù túng chật hẹp, là chỗ ẩn náu của bụi trần ô trược”.

    Do không chấp nhận chế độ phân biệt chủng tộc, đẳng cấp của xã hội, vì sự khát khao tìm cầu chân lý, nên thái tử Siddhattha từ bỏ tất cả, quyết chí ra đi tìm đạo cứu đời. Trải qua bảy năm tầm sư học đạo, thái tử đã thọ học với các vị danh sư nổi tiếng như Alàràma Kàlamà và Uddaka Ràmaputta và cũng đã kinh qua đời sống tu hành khổ hạnh với năm anh em Kiều Trần Như; nhưng tất cả điều không giải quyết thoả đáng ý nguyện của Ngài. Sau đó Thái tử quyết định tĩnh toạ dưới gốc cây Tất bát la và thệ nguyện rằng: Nếu như không chứng được đạo Vô thượng bồ đề, thà thịt nát xương tan Ta cũng không rời khỏi chỗ này. Suốt bốn mươi chín ngày đêm suy tư thiền quán, cuối cùng khi sao mai vừa mọc Thái tử hoát nhiên đại ngộ, sạch hết phiền não, chứng được đạo quả Vô thượng Bồ đề hiệu Thích Ca Mâu Ni khi vừa tròn ba mươi lăm tuổi.

    Sau khi viên thành đạo quả, Đức Phật liền đem giáo pháp của mình chứng ngộ được truyền bá cho tất cả mọi người. Trước tiên, Ngài dự định hóa độ cho hai vị danh sư Alàrà Kàlamà và Uddaka Ràmaputta. Sau khi thiền quán để xem các vị ấy cư ngụ ở đâu, Phật biết được hai vị ấy vừa mới qua đời. Kế đến Ngài nghĩ đến năm người bạn tu khổ hạnh, và biết họ đang vẫn còn tu tập tại Sarnath [Vườn Nai]. Ở đây Ngài đã tuyên dương chánh pháp bằng bài giảng Tứ Diệu Đế. Sau khi nghe pháp năm anh em Kiều Trần Như đều xin quy y và trở thành đệ tử xuất gia đầu tiên của Phật, cũng từ đây Ba ngôi Tam Bảo được hình thành.

    Sau đó, Ngài tiếp độ Yasa-con vị thương gia giàu có cùng 54 người bạn của ông trở thành đệ tử xuất gia. Không bao lâu những bậc vua chúa như vua Bimbisara, Pasenadi….những bậc trí thức, đạo đức như uruvela kassapa, nadì kassapa, Gaya kassapa, tôn giả Sariputta, Mogallana, Mahà Kassapa hay các vị tỷ phú thương gia như Anàthpindika, visàkhà….đều lần lượt trở thành đệ tử xuất sắc của ĐứcPhật.

    Để hoàn thành hiếu đạo cũng như lợi ích cho hoàng gia, đức Phật trở về quê hương Capilavastu thuyết pháp hóa độ cho vua cha và tiếp độ vô số hoàng thân quốc thích như Ananda, Devadatta, Ràhula, Anuridha….Đặc biệt là Đức Phật õ cho phép di mẫu Pajapati xuất gia làm tỳ kheo ni và cho phép thành lập Ni đoàn.

    Khi bước vào tuổi tám mươi, nhận thấy con đường giáo hóa đã viên mãn, đức Phật cùng chúng tỳ kheo du hành về thị trấn Kusinàra, ở đây Ngài đã hóa độ cho vị đệ tử cuối cùng là Subbadra, đồng thời cũng tuyên bố nhập niết bàn. Trước khi từ giã cõi đời, Phật cho phép các tỳ kheo nêu lên những thắc mắc về giáo pháp: “Có nghi ngờ, thắc mắc, phân vân gì liên quan đến Phật, Pháp, Tăng, đến đạo, đến phương pháp, hãy hỏi đi, đừng để sau này hối tiếc”. Và Ngài cũng không quên khuyến khích các đệ tử hãy nổ lực tinh tấn thực hành giáo pháp “Hỡi các đệ tử, Như Lai khuyên các con, các pháp hữu vi đều là vô thường, hãy tận lực, liên tục chuyên cần”. Sau khi Phật nhập diệt, tôn giả Mahà Kassapa đã chủ trì lễ trà tỳ. Xá lợi Phật được chia làm tám phần, được vua quan và Phật tử các nước xây tháp phụng thờ.

    Sau khi Phật nhập niết bàn, Phật giáo được các vị đại đệ tử của Ngài truyền bá đi khắp nơi trên xứ Ấn độ. Đặc biệt là vào thế kỷ thứ III trước công nguyên, dưới triều đại của vua Asoka, vị Hoàng đế này có công rất lớn trong sự nghiệp hoằng dương thánh giáo. Asoka gởi các đoàn truyền giáo đi khắp nơi, trong ấy có đại đức Mahinda-con của ông cùng với bốn vị tu sĩ khác được gởi sang Tích Lan truyền bá Phật giáo. Đến thế kỷ thứ II trước công nguyên, vua Kanishaka cũng nhiệt tình ủng hộ Phật giáo. Ông đã ra lệnh cho khắc tam tạng kinh điển lên lá đồng và cho người bảo quản một cách cẩn thận.

    Trong quá trình phát triển, để phù hợp với từng thời đại, thích nghi với từng dân tộc, Phật giáo dần dần phân hóa thành hai bộ phái lớn đó là tiểu thừa và đại thừa hay còn gọi là Phật giáo nam truyền và Phật giáo bắc truyền. Mặc dù trên hình thức họ không đồng nhất với nhau về giáo lý cũng như về quan điểm…nhưng mục đích cứu cánh của hai truyền phái này là xiển dương thánh giáo nhằm đem lại lợi ích cho bản thân, tha nhân và xã hội.

    Phật giáo nam truyền được truyền bá qua hầu hết các nước đông nam á như Tích lan, Miến điện, Thái lan, Lào, Campuchia, Việt nam….còn Phật giáo bắc truyền thì được truyền bá qua các nước như Trung Quốc, Nhật bản, Triều Tiên….trong đó có Việt nam

    Ngày nay, do sự nhiệt tình hoằng pháp của các vị tổ sư nên Phật giáo cũng đã được truyền bá sang các nước như Mỹ, Pháp, Anh, Đức…..

    1.3.2. Kinh Điển Cơ Bản Của Phật Giáo

    Nói đến kinh điển Phật giáo thì phải đề cập đến Tam Tạng kinh điển

    1.3.2.1.Kinh tạng

    Sau khi Phật nhập niết bàn, các vị đại đệ tử của Ngài đã đúc kết lời Phật dạy thành năm bộ kinh chủ yếu như sau:

    Kinh Trường Bộ:Đây là bộ kinh tập hợp những bài kinh dài do Phật nói gồm có 34 bài kinh, tương đương với Kinh Trường A Hàm thuộc hệ thống Hán tạng.

    Kinh Trung Bộ :Đây là bộ kinh tập hợp những bài kinh trung bình gồm có 152 kinh, tương đương với Trung A Hàm thuộc Hán tạng.

    Kinh Tăng Chi Bộ: Bộ kinh này được sắp xếp theo pháp số, có mười một chương gồm 171 phẩm, có 2203 bài kinh, tương đương với Tăng Nhất A Hàm thuộc Hán tạng.

    Kinh Tương Ưng Bộ: Đây là bộ kinh tập hợp những bài kinh có cùng chung thể loại theo sự tương quan của từng vấn đề, gồm có 7762 bài kinh, tương đương với Kinh Tăng Nhất A Hàm thuộc Hán tạng.

    Kinh Tiểu Bộ:Đây là bộ kinh tập hợp những bài kinh ngắn, và không có tương đương trong Hán tạng. Nội dung của kinh này chia làm mười lăm loại sau: kinh Tiểu Tụng, kinh Pháp Cú, kinh Tự Thuyết, Như Thị Ngữ, Kinh Tập, Thiên Cung Sự, Ngạ Quỷ Sự, Trưởng Lão Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ, Thí Dụ, Kinh Bổn Sanh, Vô Ngại Giải Đạo, Kinh Phật Chủng Tánh, Sở Hành Tàng, Nghĩa Thích.

    1.3.2.2. Luật Tạng: là những giới điều mà Phật đã chế định, về sau được đúc kết thành các bộ như:

    Tứ Phần Luật: Gồm có 60 quyển

    Ngũ Phần Luật: Gồm có 30 quyển

    Thập Tụng Luật: 60 quyển

    Ma ha Tăng Kỳ Luật: Gồm 40 quyển

    Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da: Gồm 50 quyển

    1.3.2.3. Luận Tạng: không phải do Phật trực tiếp nói ra mà là những giải thích về Kinh, Luật do các vị đệ tử sáng tác, gồm có các bộ sau:

    Pháp Tập Luận: Bộ này nhằm phân loại, giải thích tất cả pháp

    Phân Biệt Luận: Bộ này cũng nhằm phân loại, giai thích tất cả pháp trên, có người cho rằng đây là bộ tục biên của Pháp Tập Luận.

    Giới luận: Trình bày về mối quan hệ giữa Uẩn, Xứ và Giới.

    Nhân Thi Thiết Luận: Bộ này nhầm thuyết minh về sáu phần: Uẩn, Xứ, Giới, Căn, Đế, Nhân.

    Song Luận: Gồm có mười phẩm nhầm nói rõ các mối hỗ tương của các pháp và các mối quan hệ sinh khởi và biến diệt.

    Phát Trí Luận: Bộ này nhằm nói rõ mối liên hệ của 122 môn và 24 duyên.

    Luận Sự: Gồm có 313 phẩm, 217 luận nhằm đả phá những chấp trước sai lầm của các bộ phái.

    Trên đây là những kinh điển căn bản của Phật Giáo, được nói ra từ kim khẩu của Đức Phật hay các vị đệ tử xuất sắc của Ngài. Ngoài ra, sau khi đại thừa Phật Giáo phát triển đã hình thành nên một số bộ Kinh, luận lớn như sau: Bộ Kinh Đại Bát Nhã, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Duy Ma, Kinh Lăng Già, Kinh Đại Bát Niết Bàn….về luận thì có Bộ Đại Trí Độ Luận, Trung Quán Luận, Thập Nhị Môn Luận, Thành Duy Thức Luận, Du Già Sư Địa Luận….

    Nói chung: Phật Giáo là một tôn giáo lớn của nhân loại, do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập. Dù ra đời cách đây hơn hai mươi thế kỷ, nhưng những lời dạy bất hủ của Phật vẫn còn thiết thực, đã và đang có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống văn hóa của châu Á nói riêng và cho toàn nhân loại nói chung.

    Chương 2: NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT GIỮA TƯ TƯỞNG ẤN ĐỘ GIÁO VÀ PHẬT GIÁO

    2.1. QUAN NIỆM VỀ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI

    2.1.1. Quan niệm về giá trị con người của Ấn độ giáo

    Là con người thì ai cũng muốn có được một cuộc sống hạnh phúc trên hai phương diện vật chất và tinh thần. Trong xã hội Ấn độ cổ đại, nhất là vào thời kỳ Bà La Môn Giáo [giai đoạn thứ hai của quá trình hình thành Ấn độ Giáo], không phải người nào cũng có quyền được mong cầu như thế, chỉ có những tầng lớp thượng lưu, những người của đẳng cấp trên, cụ thể là Bà la môn và Sát đế lợi. Thời kỳ này đạo Bà La Môn phát triển rất mạnh, chiếm địa vị độc tôn trên vũ đài tư tưởng, chi phối gần như toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Vì để củng cố thế lực cũng như địa vị ấy nên Bà La Môn đã phân chia xã hội ra làm bốn giai cấp lớn như sau:

    Giai cấp Brahmin [Bà la Môn]: Đây là giai cấp cao nhất gồm toàn bộ giới tăng lữ, là những người có khả năng đảm trách tín ngưỡng, lo việc cúng tế, lễ nghi và có quyền thay mặt xã hội giao tiếp với các đấng thần linh.

    Giai cấp Kshatriya [Sát đế lợi]: Là giai cấp của những người nắm quyền xã hội, thống trị lãnh thổ.

    Giai cấp Vaisya [Vệ xá]: Gồm các thành phần thương gia, địa chủ…

    Giai cấp Sudra [Thủ đà la]: Là giai cấp của những người tiện dân, cùng khổ, tôi tớ….

    Ngoài các giai cấp trên còn có một giai cấp nữa gọi là Paria, là những người nô lệ, cùng khổ. Họ không được phép sống trong cộng đồng của bốn giai cấp trên, họ chỉ được sống ở những nơi bìa rừng hay ở xa làng xóm. Họ cũng không được phép nói chuyện hoặc quan hệ hôn nhân với các người thuộc giai cấp trên. Hằng ngày những người thuộc giai cấp này làm những việc khó nhọc như thiêu xác người, đổ phân, quét đường….

    Nói về sự phân chia giai cấp trong Rig Veda cũng đã khẳng định : giai cấp Bà la môn được sinh ra từ miệng của Brahma, hai tay của Ngài tạo thành đẳng cấp sát đế lợi. Hai bắp đùi của ngài là đẳng cấp Phệ xá. Từ hai bàn chân của Ngài là giai cấp thủ đà la.

    Qua đây cho chúng ta thấy được rằng, Ấn độ giáo quan niệm về giá trị con người hết sức bất công và không có sự bình đẳng. Đây là sự phân biệt chủng tộc, màu da, cũng như về nguồn gốc xuất thân. Những người thuộc giai cấp dưới phải tuân thủ nghiêm ngặt và phải tin tưởng tuyệt đối vào sự an bài này, cụ thể là của những giáo sĩ Bà là môn. Bà là môn sở dĩ được coi là giai cấp tối cao, bởi vì họ là người độc quyền về tri thức. Họ không nhữngỉ giải thích, chú giải các bộ kinh về Veda, dạy dỗ mọi người mà còn có quyền thay mặt mọi người tiếp xúc với các đấng thần linh. Thời bấy giờ không phải ai cũng được học, đọc, hay nghe kinh thánh. Nếu người sudra mà nghe thánh kinh thì tai sẽ bị điếc, bị đổ chì vào. Nếu họ tụng thánh kinh thì sẽ bị cắt lưỡi. Còn người nào học thuộc lòng thánh kinh thì thân thể sẽ bị chặt làm hai. Đạo Bà la môn lúc ấy chỉ là đạo riêng của những người Bà la môn mà thôi, họ không cho bất cứ tầng lớp nào len lỏi vào.

    Không những thế, trong quan hệ giao tiếp, hôn nhân cũng được quy định rất chặt chẽ. Những người thuộc giai cấp thấp, nhất là giai cấp Puria không được quyền giao tiếp, sinh hoạt với những người thuộc giai cấp trên. Họ còn cho rằng, nếu người nào thuộc giai cấp Bà la môn không may bị người Paria giẫm lên cái bóng của mình thì người ấy phải làm lễ tẩy trần bằng cách nhịn ăn, và tắm nước thánh cả ngày hôm đó hay những người thuộc giai cấp thấp muốn đi qua một khu phố hay một khu chợ thì phải báo hiệu cho mọi người biết để tránh xa họ…. Về hôn nhân họ cấm không cho các giai cấp khác nhau kết hôn với nhau. Thậm chí các vương tôn công tử thuộc giai cấp Sát đế lợi không được phép kết hôn với con gái của Bà la môn. Còn nếu người Bà la môn cưới một người vợ thuộc giai cấp sudra thì con cái của họ sinh ra bị giáng xuống đẳng cấp hèn hạ nhất.

    Sự phân chia giai cấp này hết sức nghiệt ngã và quá bất công. Nếu ai không may sinh ra trong giai cấp hèn hạ, họ phải chấp nhận số phận đó cho đến khi nhắm mắt lìa đời mà không cócơ hội vươn lên địa vị cao hơn. Sự an bài các giai cấp trên đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các giai cấp dưới nên gây ra một cuộc phản kháng hết sức dữ dội nhằm đòi lại quyền tự do bình đẳng từ tay của những người thuộc giai cấp trên đã chèn ép, áp đặt cho họ.

    Như vậy, theo Ấn giáo, cụ thể là Bà la môn giáo thì thân phận con người không được tôn trọng như nhau, những người thuộc giai cấp trên thì được tôn trọng tuyệt đối, còn những người thuộc giai cấp dưới được coi là những kẻ nô lệ. Đời sống vật chất của những người thuộc giai cấp thấp còn chưa đầy đủ, thì làm gì có cơ hội thăng hoa trong đời sống tinh thần. Đây là quan điểm của Ấn giáo về giá trị con người.

    2.1.2. Quan điểm của Phật giáo về giá trị con người

    Vì nhận ra được cuộc đời là chuổi dài của khổ đau, luôn bị sanh, lão, bệnh, tử chi phối nên thái tử Tất Đạt Đa từ bỏ tất cả cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con thơ, quyết chí ra đi tìm đạo cứu đời. Sau khi chứng được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, Đức Phật đã lên đường giáo hóa chúng sinh, mang đến cho xã hội Ấn độ một luồng gió mới, một tư tưởng cách mạng mới. Như chúng ta biết, thời bấy giờ đạo Bà la môn chiếm địa vị độc tôn và họ đã thiết lập ra các giai cấp nhằm tước đoạt mọi quyền sống khiến cho con người rơi vào cảnh lầm than, khổ sở….. Vì lòng từ bi vô hạn cũng như với tuệ giác siêu việt Đức Phật từng bước thiết lập lại xã hội và đưa ra nhiều quan điểm đặc sắc để “chống lại” những tư tưởng tiêu cực và khắt khe của xã hội lúc bấy giờ. Về thân phận con người cũng như nói về các giai cấp, Đức Phật khẳng định: “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn. Một người được coi là quý tộc hay hạ tiện là ở nơi hành vi của họ mà không phải ở đẳng cấp sinh ra”. Như vậy, Phật đã xác định sự bình đẳng giữa người với người, không có ai là quý tộc và cũng không có ai là hạ tiện. Quý tộc hay hạ tiện không phải do nơi giai cấp quy định. Đây là một tư tưởng hết sức mới mẻ, độc đáo và nó được thể hiện rất rõ trong suốt quá trình hoằng dương thánh giáo của Ngài. Đức Phật mở rộng cánh cửa giải thoát nhằm tiếp nhận tất cả mọi người bất kể sang giàu, cao thượng hay hèn hạ…. Do vậy, trong tăng đoàn của Ngài có đủ mọi tầng lớp của xã hội, như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên thuộc tầng lớp Bà la môn, A Nan thuộc tầng lớp Sát đế lợi, Ưu Ba Li thuộc tầng lớp Thủ đà la…..Đức Phật nói rõ rằng: “Này các tỳ kheo, các con sông lớn đổ về đại dương thì mất tên trước kia của chúng và chỉ được gọi là đại dương. Cũng vậy, bốn giai cấp Bà la môn, Sát đế lợi, Vệ xá và Thủ đà la xuất gia, từ bỏ gia đình vào Pháp luật này được Như Lai tuyên bố, đều mất danh tánh và dòng dõi trước kia và chỉ còn được xem là Sa môn Thích tử”.

    Hơn thế nữa, Đức Phật luôn đề cao giá trị của con người, bất luận là nam hay nữ. Ngài cho rằng ai cũng có thể tu tập và đạt được quả vị giác ngộ giải thoát. Nghĩa là một người cho dù xuất thân từ giai cấp Bà la môn cao quý hay ở những giai cấp thấp, nếu thực hành theo giáo pháp của Ngài thì đều được thưởng thức hương vị thánh đạo, “Này các tỳ kheo, đại dương chỉ có một vị, đó là vị mặn. Cũng vậy, Pháp và Luật của Ta cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát”.

    Điểm đặc biệt nhất là Đức Phật tiếp nhận nữ giới vào trong giáo đoàn. Vì Ngài thấy rõ “người nữ có khả năng thành tựu các đạo và các quả”. Có thể nói đây là một cuộc cách mạng về giới tính đầy tính nhân văn của Phật. Bởi người nữ xưa kia không được trọng đãi, tôn trọng. Đạo Bà la môn xem phụ nữ như là vật sở hữu của nam giới, sinh ra để phục tùng cho nam giới mà thôi và “cuối thời Veda và thời kỳ sử thi, phụ nữ phải chết theo chồng”[30,176].

    Còn đạo Jain thì cho rằng “Phụ nữ là ngọn đèn chiếu sáng con đường dẫn đến cánh cửa địa ngục”. Trước khi Phật ra đời, người phụ nữ không được hưởng quyền tự do, bình đẳng nên họ không có cơ hội thăng hoa về đời sống tâm linh của mình. Sau khi Ni đoàn được thành lập, hầu hết các vương phi, công chúa cho đến hàng thứ dân, gái giang hồ….. bất luận ở đẳng cấp nào cũng hưởng được “mùi vị” tự do, bình đẳng ấy. Cũng có rất nhiều cô gái, đáng lẽ mãi mãi bị lãng quên trong bóng tối khổ đau đã tỏ ra xuất sắc và đã thành tựu được giác ngộ giải thoát sau khi nương tựa vào giáo pháp của Như Lai.

    Nói chung:Phật giáo nhìn nhận giá trị thật của con người, không phải do sanh ra hay nguồn gốc xuất thân mà quyết định sự cao thượng. Sự cao thượng hay hèn hạ đều phụ thuộc vào hành động, nhân cách của con người. Và Đức Phật cũng khẳng định : Tất cả chúng sinh đều có tánh Phật, có khả năng thành Phật. Đây là điểm khác biệt chủ yếu về giá trị con người giữa Phật giáo và Ấn giáo

    2.2. QUAN ĐIỂM VỀ LINH HỒN

    Ngoại trừ Phật giáo, hầu hết các tôn giáo ở Ấn độ đều chấp nhận có một linh hồn bất biến tồn tại trong mỗi con người. Ấn độ giáo cho rằng linh hồn bất biến ấy chính là Atman hay Purusa, Jiva, chính là cái Ta, cái Ngã hay là cái thực thể tuyệt đối trường cửu trong con người. Trong kinh Upanishad đề cập nhiều ví dụ nói về linh hồn :

    Chàndoya Upanishad nói:

    “Này con, nếu có ai chích vào rễ của một cây lớn thì cây sẽ chảy nhựa nhưng cây vẫn sống, thậm chí đốn ngang cây, thì cây vẫn sống, chặt hết đọt cây thì cây vẫn sống trong nó và cây tiếp tục dần dần hút nước và thức ăn từ lòng đất để tiếp tục đâm lá ra cành.

    Nhưng nếu linh hồn sống rời bỏ một cành là cành ấy khô héo, rời bỏ hai cành là hai cành khô héo, và nếu rời bỏ cả cây thì cây ấy chết khô.

    Giống hệt như vậy đó con trài à ! thân xác này chết, rời bỏ linh hồn sống; nhưng linh hồn thì không chết. Cái bản chất tinh anh nhất trong tất cả mọi vật tồn tại chính là linh hồn. Điều đó thật sự là chân lý”[8, 738]

    Như vậy, bản chất linh hồn là vĩnh cửu, vô tận; dù thân xác có bị tiêu hủy nhưng linh hồn vẫn tồn tại từ kiếp này đến kiếp khác “Sau cái chết của thân xác, linh hồn đi về một trạng thái siêu việt khác mà phẩm chất của trạng thái đó được xác định tùy vào hành nghiệp [karma] quá khứ, trong đó bản chất nguyên thủy của tự ngã có thể được khám phá. Nhưng từ tình trạng siêu việt này, Atman có thể quay về thế giới vật chất nếu chưa thành tựu được thực tại tối hậu” [14, 48]

    Trong The Bhagavad Gita có đề cập đến sự bất tử , vĩnh cửu của linh hồn:

    “Này Ajuna, linh hồn đã hiện thân thì vĩnh cữu, vô hủy diệt, bất khả tri và vô tận chứ không tạm bợ như thân xác. Vậy thì hãy chiến đấu. Kẻ nào có thể cho rằng linh hồn có thể giết được và kẻ nào có thể cho rằng linh hồn có thể bị giết, cả hai kẻ ấy đều ngu xuẩn. Linh hồn không thể giết được ai và cũng không hề bị giết. Linh hồn không sinh thì không tử. Linh hồn đã hiện hữu sẽ không ngừng hiện hữu. Linh hồn vô sinh, trường tồn vĩnh cửu, dù khi thân xác đã chết, linh hồn vẫn còn tồn tại……binh đao không thể đâm chém được linh hồn, lửa không thể làm khô héo được linh hồn. Linh hồn đã hiện thân không thể bị đâm chém, không bị thiêu hủy, không tan như nước, không khô héo. Linh hồn thường còn, linh hồn truyền sức sống vào vật, linh hồn bất biến, bền bỉ, là bất diệt”. [11,17]

    Như vậy, Ấn độ giáo chủ trương có một linh hồn [Atman] bất biến, tồn tại sau khi chết “Atman không sinh ra và cũng không mất đi……khi con người chết nó không chết” [16, 36]. Chính linh hồn này tái sinh vào các cảnh giới khác nhau và chịu sự chi phối của luân hồi.

    Phật giáo không chấp nhận quan điểm của Ấn độ giáo về Atman [linh hồn]. Theo Phật “ý tưởng về linh hồn, về Ngã là một sự tin tưởng sai lạc, không có thực trong thực tại và nếu tin tưởng như thế sẽ phát sinh những tư tưởng bất thiện về “tôi”, và “của tôi”, dục vọng ích kỷ, kiêu căng ngã mạn, gây ra xung đột giữa cá nhân với cá nhân và giữa dân tộc này với dân tộc khác…” [21, 79]. Do đó, Phật đã tuyên thuyết rằng: tất cả vũ trụ vạn hữu trên thế gian này dù là vật chất hay phi vật chất đều vô ngã do duyên sinh, theo nguyên tắc sau:

    “Do cái này có mặt nên cái kia có mặt
    Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt
    Do cái này sinh nên cái kia sinh
    Do cái này diệt nên cái kia diệt”.


    Cho dù linh hồn-được hiểu đơn giản là phần phi vật chất trong con người cũng phải do duyên sinh. Đức Phật phân tích một người là tập hợp của năm yếu tố: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong đó sắc [thuộc vật chất], bốn cái còn lại[thuộc phi vật chất]. Nói cách khác, ngũ uẩn là một hợp thể duyên sinh vô ngã, không có cái nào tồn tại vĩnh cữu. Muốn tồn tại được phải nhờ nhân duyên, chẳng hạn như khi thức tồn tại phải nhờ “sắc làm điều kiện, làm đối tượng, sắc làm nơi nương tựa….Thức phát triển, hưng thịnh nhờ sắc. Thức tồn tại nhờ….thọ….tưởng….hành…. Nếu có ai nói tôi sẽ chỉ ra sự ra đi, sự đến, sự sinh, sự diệt của thức biệt lập với sắc, thọ, tưởng, hành thì người ấy đã nói lên một điều không thực” [2].

    Trong hệ thống kinh tạng Nikàya, khi nói đến Ngũ Uẩn, Phật thường hỏi các thầy Tỳ kheo: “Sắc này là thường hay vô thường?

    Bạch Thế Tôn! Vô thường

    Vô thường thì đưa đến khổ hay vui?

    Bạch Thế Tôn! Khổ

    Cái mà vô thường, khổ thì có hợp lý khi cho rằng cái này là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi?

    Bạch Thế Tôn ! Không hợp lý

    Tương tự đối với thọ, tưởng, hành, thức…… [2]

    Hay có một cách phân tích khác nữa, chia sắc uẩn ra làm bốn yếu tố: địa, thủy, hỏa, phong; tập hợp các yếu tố phi vật chất lại thành một nhóm, gọi là thức. Như bài thơ của thiền sư Đạo Huệ thời Lý:

    “Địa, thủy, hỏa, phong, thức
    Nguyên lai nhất thiết không
    Như vân hoàn tụ tán
    Phật nhật chiếu vô cùng….”


    “Đất, nước, lửa, gió, thức
    Nguyên lai vốn rỗng không
    Cũng như mây lúc tụ, lúc tán
    Mặt trời Phật chiếu khắp nơi không hạn chế…”


    Qua đây cho chúng thấy được linh hồn mà Ấn giáo cho là trường cữu, khi nhìn dưới lăng kính Duyên sinh và qua phân tích về Ngũ Uẩn, Ngũ Đại của Phật thì không còn thấy gì là Ngã, là Tôi…chỉ là một thực thể vô ngã do nhân duyên nhóm lại mà thành, không có bất cứ cái gì tồn tại độc lập và vĩnh cửu.

    Mặt khác, Đức Phật bác bỏ về linh hồn nhằm không muốn cho các đệ tử của Ngài mất thời gian tư biện về những vấn đề siêu hình. Theo Ngài những vấn đề này không liên quan gì đến mục đích phạm hạnh, không có ích trong việc diệt trừ khổ đau, thành tựu chánh trí và chứng ngộ niết bàn. Trong kinh Alagaddùpama Sutta thuộc Majjhimà Nikàya Phật dạy: “......Này các Tỳ kheo, ta không thấy một linh hồn nào mà nếu chấp nhận sẽ không còn phát khởi buồn sầu, bi thương, thống khổ, phiền muộn, đớn đau” [21, 88]

    2.3. TƯ TƯỞNG NGHIỆP

    Nghiệp tiếng Phạn là Karma, tiếng Pali là Kamma, có nghĩa là hành động hay tạo tác.

    Nghiệp là giáo lý quan trọng đối với hầu hết các tôn giáo ở Ấn độ. “Thuyết Karma bắt nguồn từ đâu? Điều này không rõ. Nhưng vào thời Phật thuyết Nghiệp đã được chấp nhận rộng rãi, hầu như tất cả mọi tôn giáo, như là đáp án logic nhất, có sức thuyết phục nhất đối với mọi “bất công”, “sai biệt” trong đời sống con người” [5, 29]

    Theo Ấn độ giáo, Nghiệp là “hành động cá nhân, đóng vai trò chủ chốt trong mọi việc, duy trì sự hài hòa vũ trụ, nhưng nó cũng ảnh hưởng quan trọng đến sự liên hệ của một người trong thế giới vật chất và quần thể”[17, 38].

    Mặt khác, Nghiệp còn đóng vai trò quan trọng quyết định số phận của con người và nó là động cơ chính tạo ra vòng luân hồi tái sinh. Trong Chàndogya Upanishad có nói: “Những người khi ở trần gian này biết cư xử tốt, thì rồi cũng nhanh chóng sẽ được sinh ra ở những đẳng cấp cao như giới Brahman, như Kshatriga, hay là như Vaisya. Nhưng những kẻ ở trần gian này hành động, làm việc tồi tệ, độc ác… thì kiếp sau họ sẽ được sinh ra như sự độc ác mà họ đã cư xử, sinh ra làm con chó, con heo, hoặc làm giới Chandala [hạng người thấp kém nhất của xã hội, dạng thối tha, bị xã hội ruồng rẫy]” [8, 714]

    Đối với Phật giáo, Đức Phật cũng đã sử dụng thuyết Nghiệp ấy. Bởi vì trong giáo lý của Phật nói đến Nghiệp rất nhiều. Nghiệp còn “có một ý nghĩa trọng yếu đối với nhân sinh quan Phật giáo, nếu không có nó thì không thể nào thuyết minh được những hình tướng nhân sinh, thậm chí không thể nói rõ chỗ quy hướng của lý tưởng nhân sinh” [24, 174].

    Mặc dù Phật tiếp thu tư tưởng Nghiệp ấy nhưng chính Đức Phật đã giải thích tận tường và trình bày đầy đủ về giáo pháp cao siêu ấy, hay “việc làm cho thâm diệu và phát triển quy luật Nghiệp báo là công trình của riêng Ngài, chứng tỏ Ngài là một tư tưởng gia đầy sáng tạo tân kỳ và một nhà tâm lý tinh tế”.

    Điểm sáng tạo và khác biệt thứ nhất là: Phật đã trình bày Nghiệp hết sức rõ ràng và nhấn mạnh tầm quan trọng của Tác ý, hay tâm, trong khi đó Ấn độ giáo chỉ nói chung chung và không rõ ràng.

    Đức Phật suy xét: “Nếu một hành động đều phải góp phần tạo nên sự hiện hữu trong một kiếp tương lai sau bao giờ cũng đầy đau khổ, thì sẽ không thể nào thoát khỏi hiện hữu và khổ sầu. Vì không ai tránh khỏi hành động. Do đó yếu tố quyết định cuộc đời tương lai của cá nhân cùng đặc tính của nó không thể tìm được trong hành vi ấy mà phải nằm trong động lực thúc đẩy hành vi ấy” [22, 320-321]

    Qua đây cho chúng ta thấy rằng thuyết Nghiệp của Phật, chú trọng đến động lực thúc đẩy, điều khiển hành vi bên trong, đó chính là tác ý. Trong kinh Phật cũng thường khẳng định: “Này hỡi các Tỳ Kheo, Như Lai xác định rằng, chính tác ý là nghiệp” [23, 341]. Theo Phật thì có ba nghiệp căn bản là: Thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, trong ấy ý nghiệp là quan trọng nhất. Có thể nói: Nó là đầu mối của mọi tội lỗi và nó cũng có công nhất trong tiến trình giác ngộ, giải thoát của con người [công vi thủ, tội vi khôi]. Hay trong kinh Pháp Cú 1, 2 Phật dạy:

    “Ý dẫn đầu các pháp
    Ý làm chủ tạo tác
    Nếu với ý ô nhiễm
    Nói lên hay hành động
    Khổ não bước theo sau
    Như xe chân vật kéo”.

    “Ý dẫn đầu các pháp
    Ý làm chủ, ý tạo
    Nếu với ý thanh tịnh
    Nói lên hay hành động
    An lạc bước theo sau
    Như bóng không rời hình” [4, 11- 12]


    Như vậy, Nghiệp theo quan điểm của Phật giáo là hành động có dụng tâm, có tác ý. Bất cứ một hành động nào có dụng tâm, tác ý đều gọi là Nghiệp cả.

    Mặt khác, Phật giáo còn nói rõ và chia ra Nghiệp ra thành nhiều loại như sau:

    Phân loại theo tên gọi:

    - Thiện nghiệp: Tư duy và hành động về các điều lành, có lợi cho ta và người; như thực hành ngũ giới, thập thiện…

    - Ác nghiệp: Tư duy và hành động về các điều ác, có hại cho mình và người, như làm những điều trái ngược với ngũ giới, thập thiện…

    Phân loại theo công tác:

    - Sanh nghiệp: Nghiệp chi phối đến sự thọ sanh của đời sau, thường là sát na sau cùng trước khi chết.

    - Trì nghiệp: Là nghiệp đi theo hổ trợ cho sanh nghiệp đến lúc mạng chung.

    - Chướng nghiệp: Là nghiệp làm yếu đi, chậm trễ hay dừng lại sự kết thành của sanh nghiệp, nó trái với trì nghiệp.

    - Đoạn nghiệp: Là nghiệp tiêu diệt năng lực của sanh nghiệp.

    Phân loại theo thời gian:

    - Hiện nghiệp: Là nghiệp trổ quả trong hiện tại.

    - Hậu nghiệp: Là nghiệp trổ quả trong tương lai.

    - Vô hạn định nghiệp: Là nghiệp trổ quả chưa biết thời gian nào trong tương lai.

    Phân loại theo tiến trình nhân quả:

    Nghiệp là tác động nhân quả của đời sống con người, là một tiến trình phức tạp, không máy móc; như gieo nhân nào gặt quả nấy. Chúng có một tiến trình Nhân-duyên-quả. Do đó, nhân và quả có những sai khác rất khó hiểu tận cùng đường đi của nghiệp. Nghiệp được chín muồi như sau:

    - Dị thời nhi thục: Từ nhân đưa tới quả phải có thời gian

    - Dị loại nhi thục: Từ nhân đến quả nó thay đổi chủng loại.

    - Biến dị nhi thục: Từ nhân đưa đến quả thay đổi hình tướng, số lượng.

    Phân loại theo năng lực:

    - Tập quán nghiệp: Là nghiệp được huân tập bởi một thói quen trong đời sống hằng ngày.

    - Tích lũy nghiệp: Là các nghiệp được tích lũy từ vô thỉ.

    - Cực trọng nghiệp: Là nghiệp gây ấn tượng xấu ác, cực mạnh vào trong tâm lý của con người, như phạm tội ngũ nghịch…

    - Cận tử nghiệp: Là nghiệp tạo ra trong lúc lâm chung. Nó rất quan trọng, vì nó chi phối đến việc tái sinh của con người.

    Điểm khác biệt thứ hai: Ấn Độ Giáo cho rằng Nghiệp như là một định mệnh còn Phật giáo chủ trương Nghiệp là bất định nghiệp, tức Nghiệp có thể thay đổi được.

    Nghiệp là động cơ chính yếu dẫn con người đi vào các cõi luân hồi, sanh tử triền miên. Đức Phật không dừng lại ở việc phân tích sức mạnh và tác dụng của Nghiệp mà Ngài còn chỉ ra cách thức chuyển Nghiệp hay Nghiệp là Bất định, tức là con người có thể chuyển đổi Nghiệp của mình bằng hình thức tu tập, sống và thực hành theo những lời Phật đã dạy. Và Đức Phật nhấn mạnh tùy theo sự tu tập mà ta có thể hoá giải được Nghiệp, không nhất thiết phải gặt hái hết tất cả những Nghiệp xấu đã gieo. Như trong thời Phật còn tại thế, Angulimala-một kẻ sát nhân nhưng khi tu theo giáo pháp thì được chứng quả A la hán, Ambapàli-một dâm nữ tài sắc và giàu có ở thành Vaisali biết hồi tâm tu hành cũng đắc quả A la hán….

    Đức Phật còn trình bày rõ: “Cũng có thể quả của một nhân yếu mà tái sinh tròn đủ, còn quả của một nhân mạnh lại được lắng dịu”.

    Trong kinh Hạt Muối, Phật dạy:

    “Ví như này, hỡi các Tỳ kheo có người bỏ một nhúm muối vào một chén nước nhỏ, này các Tỳ kheo, các người nghĩ thế nào, nước trong chén nhỏ có vì nhúm muối nhỏ này mà trở thành mặn và không uống được hay không?

    Thưa có vậy, Bạch Thế Tôn!

    - Vì cớ sao?

    - Bạch Thế Tôn, vì nước trong chén quá ít, nhúm muối làm cho nó trở thành mặn, không uống được.

    - Này các Tỳ kheo, ví như có một người bỏ một nhúm muối như vậy vào sông Hằng, hỡi các Tỳ kheo, các người nghĩ thế nào? Nước sông Hằng có vì nhúm muối đó mà trở thành không uống được hay không?

    - Thưa không, Bạch Thế Tôn.

    - Vì cớ sao?

    - Bạch Thế Tôn, vì lượng nước sông Hằng lớn, cho nên không bị mặn và vẫn có thể uống được.

    - Cũng vậy, này các Tỳ kheo! Ở đây có người làm việc ác nhỏ mọn, khiến người ấy chịu khổ não. Lại nữa, này các Tỳ kheo, có người cũng làm một việc nhỏ như vậy, nhưng ngay trong đời sống hiện tại, cũng đền bù hết rồi, ngay một ít quả báo nhỏ cũng không còn lại ở đời sau, hà huống là quả báo lớn…

    Như vậy, này các Tỳ kheo! Có người không tu tập thân, không giữ giới luật, không tu tập tâm, không tu tập tuệ, ít thiện, ít đức, hằng ngày sống khổ, người như thế, dù phạm một tội ác nhỏ cũng làm nó khổ sở vô cùng.

    Như vậy, này các Tỳ kheo ! Lại như có người có tu tập thân, giữ gìn giới luật, có tu tập tâm, tu tập tuệ, làm nhiều điều thiện, sinh hoạt thoải mái, người ấy dù có phạm ác nhỏ, thì ngay trong cuộc sống hiện tại, cũng đủ đền bù hết, dù một quả báo nhỏ cũng không phải chịu trong đời sống sau, huống hồ là quả báo lớn…..” [7, 66- 67]

    Như vậy, Nghiệp không phải là định nghiệp. Nếu ai hiểu tường tận về quy luật vận hành của nghiệp, và với tâm được tu tập, thì người ấy hoàn toàn có thể hạn chế tiến tới triệt tiêu được Nghiệp quá khứ.

    Trong Ấn Độ Giáo hình như không có đề cập đến vấn đề này, cụ thể là khi con người sinh ra phải theo Nghiệp mà an phận trên sự phân chia giai cấp, sanh ra ở giai cấp nào thì hãy sống trong giai cấp ấy, chẳng hạn như người sanh trong giai cấp hạ tiện thì mãi mãi không thể nào vươn lên giai cấp cao hơn. Đây chính là điểm khác biệt giữa Phật giáo và Ấn độ giáo

    Điểm khác biệt thứ balà: Đức Phật chú trọng đến thực tiễn hơn là mặt lý luận “khi Phật xử lý về thuyết này thì thường chỉ chú ý về phương diện thực tiễn chứ không hề lưu tâm về mặt luận lý” tức là Phật chú trọng về phương diện thực hành để chuyển đổi những nghiệp ác, bất thiện. Đạo Phật được tồn tại và phát triển trong trào lưu của Ấn độ cũng chính ở phương diện này. Về thuyết Nghiệp Phật khuyên con người nên làm lành, lánh dữ. Và cũng từ đây Phật đã xây dựng nên một nền đạo đức Phật giáo đầy tính nhân bản, nhân văn và hết sức trí tuệ. Mọi hạnh phúc hay khổ đau đều tùy thuộc vào chúng ta cả. Không có thần linh nào quyết định số phận của con người.

    “Tự mình, điều ác làm
    Tự mình làm nhiễm ô,
    Tự mình không ác làm,
    Tự mình làm thanh tịnh.
    Tịnh, không tịnh tự mình
    Không ai thanh tịnh ai” [4, 97]


    Hay trong kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt-Trung Bộ III, Phật có dạy: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào sẽ làm thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy”.

    Đức Phật trình bày về vấn đề này nhằm chỉ cho chúng ta thấy tầm quan trọng của từng cá nhân, cũng nhầm khích lệ con người bỏ ác làm thiện. Bởi từ thiện nghiệp con người dễ đi vào giải thoát hơn.

    Trên đây là một số điểm đặc sắc và khác biệt giữa Nghiệp của Phật giáo và Ấn độ giáo.

    2.4. TƯ TƯỞNG GIẢI THOÁT

    Giải thoát là khát vọng muôn đời của con người. Hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới đều lấy giải thoát làm mục đích cứu cánh cho mình. Giải thoát là một phạm trù rộng lớn “có thể ví nó như viên ngọc được ngắm nhìn ở nhiều góc độ khác nhau. Người ta có thể xem xét nó qua các mặt khác nhau như trạng thái, mục đích, phương tiện và kết quả và người ta cũng có thể xem xét ở các mặt bản thể luận hay mặt nhận thức luận, mặt triết học, mặt tâm lý, cũng như mặt đạo đức, tôn giáo” [9, 45].

    “Giải thoát” bắt nguồn từ tiếng Phạn là Mosha, Mukti, có nghĩa: “Giải” tức là cởi ra, mở ra, tháo ra….”; “Thoát” là vượt ra khỏi sự ràng buộc của thế giới giả tưởng, sanh tử luân hồi.

    Mỗi tôn giáo đều có quan niệm giải thoát khác nhau. Như Ấn độ giáo cho rằng giải thoát là “đưa tiểu ngã [Atman] hay linh hồn cá biệt hòa nhập vào đại ngã [Brahman hay “tinh thần vũ trụ tối cao”]” [9, 46] tức là sự hoà nhập, sự đồng nhất giữa Atman và Brahman. Còn Phật giáo thì cho rằng giải thoát là trạng thái từ bỏ hết mọi tham ái, dục vọng, chấp trước…., là sự trở về sống thật với con người hằng hữu xưa nay, bất sanh bất diệt.

    Có thể nói, dù Phật giáo và Ấn độ giáo xuất phát điểm từ sự khổ của kiếp sống nhân sinh nhưng mỗi bên đều có quan niệm về giải thoát khác nhau.

    2.4.1. Tư tưởng giải thoát trong Ấn độ giáo

    Chúng ta có thể chia tư tưởng giải thoát của Ấn giáo ra làm các giai đoạn sau:

    2.4.1.1. Tư tưởng giải thoát trong kinh Veda và Upanishad

    2.4.1.1.1. Tư tưởng giải thoát trong kinh Veda

    Do đời sống còn lạc hậu, và luôn phải chịu sự tác động, chi phối của tự nhiên nên tư tưởng giải thoát của con người thời bấy giờ chủ yếu là sự cung phụng, thờ cúng các vị thần linh, để mong các vị thần linh che chở, hộ trì. Do đó, trong các bộ kinh Veda ta thấy hầu hết là các bài tán ca về các vị thần linh. Như bài tán ca về thần lửa [Agni]:

    “Ngài là bó đuốc của cúng tế
    Không có Ngài thì những vị bất tử không được hài lòng
    Hãy giáng xuống đây cùng chư vị thần linh
    Hãy ngự xuống đây, hỡi thần lửa
    Như một vị đệ nhất chủ lễ” [28, 33]


    Hay có bài tán ca cầu sự trợ giúp của thần linh:

    “Đấng Pusan, chúng tôi cầu khẩn sự giúp đỡ của Người; với quyền tối cao, chúa của tất cả những gì bất động và chuyển động, Người truyền cho sức sống linh hồn.

    Cầu xin Người ban cho chúng tôi sự giàu có ngày càng một tăng thêm, Người là chủ nhân, vừa là người bảo vệ chúng tôi, không bao giờ hiểu sai lòng tốt của chúng tôi”[8, 64]


    Thời kỳ này [thời kỳ Veda] thiên nhiên đã gây ra cho con người vô số hiểm họa, tai nạn….cho nên, người dân Ấn độ đã sáng tạo ra vô số vị thần như thần mưa, thần lửa, thần mặt trời, thần mặt trăng….không những để giải thích các hiện tượng tự nhiên mà còn thông qua đó giải thích các lãnh vực xã hội như về luân lý, đạo đức. Khi nói về đạo đức, bảo vệ công lý, họ đã sáng tạo ra vị thần Varuna-nhằm giám sát cả thế giới, thưởng người thiện, phạt kẻ ác và tha thứ cho những người cầu nguyện mình:

    “Dù nằm hay ngồi
    Dù có hai người bạn thì thầm khi ngồi gần nhau
    Chúa Varuna đều biết cả
    Nhìn thấy cả,
    Và nghe thấy cả
    Ngài là người làm chứng vĩnh cửu” [28, 37]


    Qua đây chúng ta thấy được rằng: khát vọng của con người thời bấy giờ là lý giải các hiện tượng thiên nhiên, cầu mong các vị thần linh che chở để họ được tồn tại và sống hạnh phúc. Có thể nói, tư tưởng giải thoát trong kinh Veda chủ yếu “nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là mối đe dọa đến sự sinh tồn, sống chết của con người bởi những lực lượng thiên nhiên mạnh mẽ huyền bí với một bên là ý chí, ước vọng vươn lên để khẳng định sự tồn tại của bản thân con người, cầu mong một sự sống an lành của người dân Ấn độ cổ. Và như thế con đường thờ phụng, cầu xin trợ giúp các đấng thần linh” [9, 103] là mục tiêu giải thoát của họ. Nói cách khác, muốn giải thoát, hạnh phúc phải cầu nguyện, cúng bái và đặt trọn lòng tin của mình vào các đấng thần linh. Đây được coi là đại biểu tối cổ cho tư tưởng giải thoát trong triết học, tôn giáo Ấn độ cổ đại.

    2.4.1.1.2. Tư tưởng giải thoát trong Upanishad

    Upanishad là một trong những bộ kinh quan trọng của Ấn giáo. Ở đây tư tưởng giải thoát Ấn giáo đã phát triển một cách mạnh mẽ và sâu sắc, đánh dấu một bước phát triển lớn từ thế giới quan thần thoại tôn giáo sang tư duy triết học. Nó có ảnh hưởng lớn trong đời sống tinh thần và đạo đức của xã hội Ấn độ cổ đại.

    Nếu như tư tưởng giải thoát trong kinh Veda thiên về con đường thờ phụng, cầu xin sự phù hộ của các tha lực từ siêu nhiên thì trong Upanishad đã khám phá ra một con đường, một cách thức giải thoát mới là dùng trí tuệ để lý giải những vấn đề về nguồn gốc của vũ trụ và khám phá ra bản chất đời sống tinh thần của con người, tìm con đường giải thoát cho con người khỏi những nỗi khổ của cuộc đời.

    Tư tưởng giải thoát trong Upanishad chủ yếu là làm sao cho tiểu ngã Atman hòa nhập vào đại ngã Brahman. Brahman là thực thể của vũ trụ, là tinh thần vũ trụ tối cao. Trong chàndogya Upanishad viết: “Brahman không lớn, không nhỏ, không ngắn, không dài, không rực rỡ, không tối tăm, không mùi, không vị, không mắt, không tai, không tiếng nói, không hơi thở, không trong, không ngoài, không tiêu hủy mà cũng không bị tiêu hủy”. Hay trong Taittiriya Upanishad viết: “Cái do đấy mọi vật sinh ra; cái nhờ đó mọi vật sống được và cái ở đó mọi vật trở về sau khi tiêu tan” . Như vậy, Brahman là đối tượng mà con người hướng tới, giống như sự trở về với thượng đế của các tôn giáo khác hay giống như câu “Đạo khả đạo phi thường đạo “ của Đạo Giáo. Tuy nhiên, Brahman giống như đại dương mênh mông, còn linh hồn Atman của hết thảy mọi người như những đợt sóng của đại dương. Những đợt sóng Atman có vô số nhưng thực chất chúng là một thực thể trong đại dương Brahman.

    Theo Upanishad “Atman là Brahman ẩn sâu trong con người”, tức là biết được Atman cũng biết được Brahman. Do đó giải thoát cũng có nghĩa là nhận ra cho được Atman. “Biết về Atman không thể đạt được bởi lý luận. Atman sẽ trở nên dễ dàng lĩnh hội khi được giảng giải bằng cách khác. Bây giờ ngươi đã đạt được sự hiểu biết đó”. Như vậy, muốn giải thoát theo kinh Upanishad thì con người phải quay về bên trong, phải kinh qua quá trình tu luyện đạo đức, thực nghiệm tâm linh, diệt trừ mọi dục vọng, ham muốn… để hòa nhập linh hồn Atman vào bản thể tuyệt đối Brahman.

    2.4.1.2. Tư tưởng giải thoát trong thời kỳ Bà la môn

    Tư tưởng giải thoát trong thời kỳ Bà la môn, tiêu biểu nhất là tư tưởng giải thoát của sáu phái triết học: Sankhya, Yoga, Vaisesika, Nyaya, Mimansa và Vedanta. Đây được xem là sáu phái triết học thuộc hệ thống của Bà la môn, công nhận uy thế mặc khải của Veda và dựa trên tư tưởng giải thoát của Upanishad. Tư tưởng giải thoát thời kỳ này phát triển phong phú, đa dạng và sâu sắc hơn, nhất là bàn kỹ hơn về phương pháp đưa đến giải thoát.

    - Phái Samkhya cho rằng: Mục đích tối hậu của con người là diệt đau khổ. Nhưng muốn diệt trừ đau khổ phải hiểu được hai mươi lăm thực thể

    * Năm duy:Sắc, thanh, hương, vị xúc
    * Năm tri căn: Tai, da, mắt, mũi lưỡi,
    * Năm tác căn: Lưỡi, tay, chân, nam nữ căn, căn quan bài tiết
    * Một ý
    * Năm đại:
    Địa, thủy, hỏa, phong, không


    Thì mới được giải thoát, giải thoát ở đây tức là biết được cái tri thức duy nhất chân chánh [không có gì là “ta”, không có gì là của “ta”]

    - Phái Yoga thì cho rằng giải thoát là làm cho tinh thần trở nên thanh tịnh, thuần khiết, hòa nhập linh hồn vào đại ngã Brahman. Để thực hiện được điều này, con người cần phải kiên trì tu tập tám giai đoạn sau: yama, Niyama, asana, Pranyama, Pratyahara, Dharana, Dhyana, sammadhi.

    - Giải thoát theo phái Mimansa là làm con người thoát khỏi vòng vây hãm của nhục thể bằng cách tuân thủ triệt để các quy định, nghi thức, những giới luật trong Veda…

    - Phái Nyaya chủ trương: Giải thoát là một trạng thái đạt được sau khi vứt bỏ hết mọi dục vọng và làm cho linh hồn con người trở nên thanh thoát, tự tại. Để thành tựu được mục tiêu giải thoát, phái này cho rằng con người cần phải tuân thủ các giới luật, tu tập thiền định và diệt trừ dục vọng bằng phương pháp tư duy đúng đắn để đạt đến chân lý.

    - Phái Veisesika: Chủ trương giải thoát cũng giống như phái Nyaya. Muốn được giải thoát thì con người phải thấu triệt sáu nguyên lý tạo thành vũ trụ [thực thể, tính chất hay đức, vận động hay nghiệp, phổ biến hay đồng, đặc thù hay dị, nội thuộc, hòa hợp], thực tập thiền định và diệt trừ dục thì mới hòa nhập vào đại ngã.

    - Phái Vedanta: Giải thoát “chính là vứt bỏ mọi sự ràng buộc của thể xác, nhục dục đối với linh hồn, đưa linh hồn bất tử trở về đồng nhất với linh hồn vũ trụ tối cao”. Để thành tựu được mục tiêu ấy, con người cần phải trải qua quá trình thực nghiệm tâm linh, phát triển trí tuệ.

    Nói chung: Các trường phái triết học trên đều coi con đường giải thoát là con đường nối liền tiểu ngã tương đối với đại ngã tuyệt đối thông qua các quá trình tu tập thiền định, và thực nghiệm tâm linh. Họ đều tập trung vào tinh thần, đạo đức, tâm lý con người, phủ nhận cuộc sống, tiền tài, danh vọng…. để hướng con người đến nơi thánh thiện, hạnh phúc.

    2.4.1.3 Tư tưởng giải thoát trong Bhagavad Gita

    Bhagavad Gita là một tác phẩm được coi là thánh thư của Ấn độ giáo. “Nó là bộ Tân Ước của Ấn độ, được trọng gần ngang với các kinh Veda” [12, 383]. Người Ấn xem tác phẩm như là món quà của thượng đế ban tặng cho nhân loại, để con người có thể tìm trong đó những lời giải đáp về đời sống tâm linh, về thái độ sống, về nhu cầu giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc.

    Tư tưởng và phương pháp giải thoát trong Bhagavad Gita cũng giống như trong kinh Upanishad. Nhưng có một điểm khác mới mẻ và độc đáo là ngoài các con đường để đưa đến sự giải thoát như con đường tu luyện trí tuệ, thực nghiệm tâm lý….tác phẩm này còn đề cập đến con đường sùng tín tức là tin tưởng tuyệt đối vào Brahman cũng được giải thoát “Ai thực tình vì Ta, vứt bỏ hết mọi hành động, ao ước nghĩ đến Ta, yêu kính Ta, suy tưởng về Ta, miệt mài theo giới luật, người đó được Ta cứu khỏi đại dương sanh tử” hay “……những ai có lòng thành kính, vọng tưởng đến Ta…..những người đó mới thật là tông đồ mộ đạo, hiện hữu gần nhất bên Ta”. [13, 151]

    2.4.2. Tư tưởng giải thoát trong Phật giáo

    Giải thoát là mục đích cứu cánh cho những ai tu theo Phật giáo. Tất cả tam tạng kinh điển của Đức Phật đều giúp cho mọi người đạt đến giác ngộ và giải thoát. Trong Phật giáo có rất nhiều phương pháp tu tập để đạt đến giải thoát nhưng tựu trung không ngoài bốn chân lý vi diệu, đó là Tứ thánh đế.

    Có thể nói tư tưởng giải thoát của phật giáo bắt nguồn từ nỗi khổ của nhân sinh. Như chúng ta biết, Thái tử Tất Đạt Đa vì nỗi khổ của con người, vì sự khổ của sanh, lão, bệnh, tử….mà từ bỏ mọi lạc thú ở đời, ra đi tìm chân lý cứu độ chúng sanh. Sau khi viên thành đạo quả, với tuệ giác siêu việt Đức Phật đã tuyên bố cuộc đời là khổ đau, hay tuyên thuyết chân lý về khổ [khổ thánh đế].

    Khổ là một sự thật, một thực trạng trong kiếp sống nhân sinh. Đức Phật trình bày về chân lý khổ không phải để cho mọi người chán nản, bi quan mà tìm về với cuộc sống ẩn thân nơi thâm sơn cùng cốc. Mục đích của Phật là giúp cho chúng ta thấy rõ sự thật khổ đau để từ đó thoát ly, xa lìa khổ đau. Khổ thường biểu hiện qua hai phương diện: Khổ đau về thể xác cũng như khổ đau về tinh thần: “Sanh là khổ, già, bệnh, chết là khổ, sầu bi là khổ, ưu não là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại năm thủ uẩn là khổ” [2]. Đây là những khổ đau mà con người phải gánh chịu.

    Không dừng lại ở nỗi khổ của con người, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy rõ nguyên nhân của khổ. Nguyên nhân của khổ thường được các kinh đề cập chính là tham ái hay khát ái. Do tham ái mà bám víu và chấp thủ vào các đối tượng của tham ái “chính ái này đưa đến tái sinh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục ái, hữu ái, vô hữu ái” [2]

    Ái là một năng lực tinh thần hết sức mạnh mẽ, luôn tiềm ẩn trong tất cả mọi người, mọi chúng sinh. Nó chính là nguồn gốc của mọi khổ đau. Con người thường thích chạy theo tiếng gọi của tham ái như sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon ngọt, xúc chạm êm ái…tham ái càng mạnh thì chấp ngã, chấp thủ càng sâu dày. Đây chính là động cơ, là nghiệp lực dẫn đến tái sinh đời này đời khác. Những ham muốn năm trần trên gọi là dục ái. Hữu ái tức là bản năng sinh tồn. Do muốn tồn tại nên sinh lòng sợ hãi sự chuyển sinh hay hoại diệt. Hữu ái có ba đối tượng: Dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Có người mong muốn mình có mặt trong dục giới, tái sinh trong dục giới. Có người lại nhàm chán các dục lạc từ sắc, thinh, hương, vị, xúc, họ nhàm chán cõi dục và khởi lên mong ước về cõi sắc. Có người lại nhàm chán cả đến các sắc tướng mong tồn tại ở trong thế giới không có sắc tướng, họ được sinh về cõi vô sắc.

    Có nhiều người nhàm chán cả cuộc sống sanh diệt, mong muốn không còn sống lâu hơn nữa, không còn thác sinh nữa. Đây là biểu hiện của vô sắc ái. Bởi vì, không ham muốn sống thì bấy giờ họ có thể nuôi dưỡng lòng tham ở chỗ không sanh diệt và vẫn còn cái tập khí ham muốn. Chính đây là một thứ lửa nung nấu cho khổ đau tồn tại.

    Qua đây chúng ta thấy rằng nếu còn khát ái, là còn sinh tử, khổ đau. Nói cách khác, gốc của mọi khổ đau chính là tham ái. Tuy nhiên, tham ái không có nghĩa là nguyên nhân đầu tiên của khổ đau. Bởi vì chính ái do thọ sinh, thọ do xúc sinh… thức do hành sinh, hành do vô minh sinh. Ái chính là cái nhân chính yếu và gần nhất của khổ đau.

    Nói nguyên nhân của khổ đau là khát ái, có nghĩa là nhân của khổ đau là do 12 nhân duyên tập khởi hay năm thủ uẩn tập khởi. Bởi vì, theo Duyên khởi, ái có mặt là 12 nhân duyên có mặt, ái có mặt [hay hành uẩn có mặt, vì ái thuộc hành uẩn] là năm thủ uẩn có mặt. Có thể nói rằng tập đế chính là 12 nhân duyên hay chính là năm thủ uẩn.

    Nói đến khát ái tức là đến sân và si. Sân chỉ là bề trái của khát ái và si tức là bản chất của khát ái [si tức là không thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi đều vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững trong chúng. Do không thấy rõ nên sinh tâm ham muốn, ôm giữ lấy các đối tượng lạc thú]. Vì vậy, có thể nói rằng tập đế chính là tham, sân, si……

    Và Đức Phật đã giới thiệu thêm cho chúng ta về chân lý thứ ba, đó là Khổ Diệt Thánh Đế.

    Diệt là chấm dứt, là dập tắt. Diệt đế là sự chấm dứt hay dập tắt phiền não, những nguyên nhân đưa đến khổ đau và sự chấm dứt đau khổ cũng có nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt đế cũng đồng nghĩa với niết bàn và giải thoát.

    Trong Đế Phân Biệt Tâm Kinh, Đức Phật có định nghĩa về Diệt đế như sau: “Chính sự đoạn diệt, ly tham, không có tàn dư khát ái, sự quăng bỏ, từ bỏ, giải thoát không chấp trước”.

    Khi hành giả biết được khổ, nguyên nhân của khổ nên khởi tâm ly dục, xa lìa mọi tham ái, chấp thủ thì sẽ được an lạc, hạnh phúc [Niết bàn]. Hạnh phúc có nhiều mức độ khác nhau, tùy theo sự đoạn trừ tham ái, chấp thủ mà có được sự an lạc, giải thoát, niết bàn khác nhau. Niết bàn của Phật giáo là cảnh giới giải thoát, thoát ly mọi khái niệm ngôn ngữ, thoát ly mọi tướng trạng diễn đạt, không phải là vấn đề của khảo sát. Niết bàn thoát ly mọi ý niệm nên vượt ngoài thời gian và không gian. Tất nhiên, Niết bàn không phải là một nơi chốn, không phải là sớm muộn, lâu dài… không phải là vận chuyển, không phải là kết quả hay hậu quả của bất cứ cái gì, không phải là tương đối hay tuyệt đối không phải là thường hay vô thường, chỉ có thể nói Niết bàn là thực tại như thật, nhận biết được bằng thể nhập do tham ái diệt hay khổ diệt.

    Chân lý thứ tư-khổ diệt đạo thánh đế

    Đạo là con đường, là phương pháp thực hiện để đạt được an lạc, niết bàn. Toàn bộ giáo lý của Phật đều là Đạo đế, tổng quát và căn bản gồm 37 phẩm trợ đạo. Phật dạy: “Này các tỳ kheo, đây là những pháp do ta chứng ngộ và giảng dạy, các con phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập, truyền bá rộng rãi để chánh pháp được trường tồn, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người. Đó là bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, tám thánh đạo phần”.

    Trong 37 phẩm trợ đạo, tám thánh đạo được coi là tiêu biểu và căn bản nhất của Đạo đế “khổ diệt đạo thánh đế chính là Bát thánh đạo; tức chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định”. Có thể phân chia Bát chánh đạo trên cơ sở Tam Vô Lậu Học thì Tuệ gồm có: Chánh kiến, chánh tư duy; Định có chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định; Giới gồm có chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.

    Trong quá trình phát triển, các bộ phái đã dựa trên nền tảng Tứ thánh đế mà triển khai ra nhiều phương pháp cũng như mục tiêu của giải thoát.

    Như vậy, giải thoát trong Phật giáo là quá trình tu tập, thực nghiệm để xóa bỏ mọi tham ái, chấp trước…. hướng con người đến một trạng thái thanh tịnh, vắng lặng, an lạc vĩnh cửu [Niết bàn]

    Trên đây là tư tưởng giải thoát của Ấn độ giáo và Phật giáo. Nhìn chung thì nó cũng có điểm giống về cách thức tu tập, tức là quay trở về bên trong bằng con đường “thực nghiệm tâm linh”cũng như tu luyện về đạo đức…. nhưng cũng có một số điểm khác biệt chủ yếu như sau:

    Chủ trương giải thoát của Ấn độ giáo là một quá trình cần được chuẩn bị dần dần, qua bốn giai đoạn:

    Brahmacàrin [Phạm chí kỳ]: Là giai đoạn học tập của thời niên thiếu, sống như những học trò để học thánh kinh Veda.

    Grhastha [Gia cư kỳ]: Là giai đoạn trưởng thành, lấy vợ, sanh con, tạo lập sự nghiệp.

    Vànaprasth [Lâm cư kỳ]: Là giai đoạn rút vào rừng sâu để tu luyện thiền định, xa lìa gia đình, vợ con.

    Parivràjaka [Du hành kỳ]:Đây là giai đoạn xả ly tất cả tình cảm gia đình và xã hội để chuyên tâm tu tập, rèn luyện đạo đức, tức là cầu mong đạt đến sự giải thoát.

    Hay họ còn chủ trương “chỉ khi nào con người hòa đồng được tiểu ngã của mình với đại ngã của vũ trụ thì lúc ấy mới có giải thoát” [25, 200]

    Phật giáo không chủ trương như thế. Giải thoát có thể tu tập ở bất cứ độ tuổi nào, thời điểm nào trong cuộc sống cũng có thể hưởng được hương vị giải thoát mà không cần thông qua các giai đoạn trên. “Nghĩa là bất cứ trong giờ phút nào ta cắt đứt được mọi mối ràng buộc của tham lam của dục vọng, khiến cho tâm hồn thanh thản, tự do, tự tại thì ngay giờ phút ấy ta đã đến cảnh giới giải thoát chân thật” [25, 200]

    Như trong Kinh Tứ Niệm Xứ-Trung Bộ I, Đức Phật có dạy người nào trú tâm vào pháp tu mình đã chọn thì nhanh nhất là bảy ngày chứng giải thoát, giác ngộ, chậm nhất là bảy năm.

    Tư tưởng giải thoát của Phật giáo còn vượt xa hơn nữa, khi đã thành tựu được mục tiêu giác ngộ giải thoát rồi, hành giả cần phải vứt bỏ luôn các phương pháp tức là phá luôn pháp chấp. Trong kinh Phật thường nói: pháp “như tiêu nguyệt chỉ” hay “như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” cũng có nghĩa là khi con người đạt đến mục tiêu giải thoát thì phải bỏ nốt luôn tất cả các phương pháp ấy [Bát thánh đạo, Tam vô lậu học….] để đạt được sự giải thoát tuyệt đối.

    Nếu đứng trên lập trường hoạt động, thì tư tưởng giải thoát của Ấn độ giáo mang nặng tính chất tiêu cực. Như ở trên ta đã đề cập giải thoát là sự từ bỏ tất cả gia đình, xã hội, rút vào rừng sâu để chuyên tâm tu tập, thể nghiệm tâm linh mà không chú trọng đến số đông, không vì lợi ích chung cho con người. Đức Phật, khi chưa thành tựu được tuệ giác, Ngài cũng có một thời gian xa lánh thế tục để tu tập nhưng khi giác ngộ, giải thoát thì Ngài quay trở lại nhân gian cứu độ chúng sanh “tại Ấn độ, có nhiều tôn giáo, nhưng chỉ có Phật giáo là lấy toàn thể chúng sanh làm đối tượng để truyền giáo và cũng chỉ có Phật giáo mới có những giáo lý làm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của mọi hạng người” [25, 199].

    Mặt khác, Ấn độ giáo cho rằng giải thoát là quá trình đưa tiểu ngã Atman hay linh hồn cá biệt hòa nhập vào đại ngã Brahman hay “tinh thần vũ trụ tối cao”. Ngược lại, Phật giáo phủ nhận vai trò sáng tạo muôn loài của Brahman [Phạm thiên] và nói rằng: “Phạm thiên chỉ là một giống sinh vật cao cấp hơn người, tuy sống hạnh phúc và thọ mạng lâu hơn người, nhưng vẫn ở trong vòng sống chết luân hồi. Bản thân Phạm thiên, chính vì thiếu trí tuệ, cho nên tự cho mình là thượng đế, là đấng tạo thế. Còn những người tu đạo Bà là môn, tuy tự đặt cho mình cái đích cao nhất là hòa mình vào Phạm thiên, nhưng từ trước tới nay, chưa từng có một tu sĩ Bà la môn nào dám mạo nhận mình đã hòa hợp được với Phạm thiên cả”[6, 20].

    Chính vì thế, Phật giáo cho rằng giải thoát chính là Niết bàn, là trạng thái như thật, vắng mặt khổ và khát ái.

    Trên đây là một số quan điểm cũng như về tư tưởng khác nhau giữa Phật giáo và Ấn độ giáo. Dù có sai khác nhưng Phật giáo và Ấn giáo vẫn là suối nguồn tâm linh, đã và đang tuôn chảy trong hàng triệu triệu trái tim của con người trên thế giới.

    KẾT LUẬN

    Ấn độ là một trong những cái nôi của nền đạo học phương đông nói riêng và cho cho nhân loại nói chung. Chính nơi ấy đã sản sinh ra nhiều trường phái, tôn giáo lớn trên thế giới. Có thể nói Ấn độ là “một tiểu vũ trụ của các tôn giáo và các nền triết học” [29, 182]. Trong ấy tiêu biểu và nổi bật nhất là Ấn độ giáo và Phật giáo. Dù hai tôn giáo này ra đời trong bối cảnh xã hội Ấn độ cổ đại nhưng có nhiều quan điểm, tư tưởng,……khác nhau; cụ thể là quan niệm về giá trị con người, linh hồn, tư tưởng nghiệp báo, tư tưởng giải thoát mà người viết đã trình bày ở phần nội dung.

    Khi nói đến Ấn độ giáo, thì chúng ta liền nghĩ ngay đến các bộ kinh lớn như Veda, Upanishad, Bhagavad Gita….đây là những bộ kinh, chứa đựng nhiều tư tưởng đặc sắc, về nhân sinh quan cũng như vũ trụ quan của người Ấn độ.

    Điểm đặc biệt nhất của Ấn độ giáo là không có một vị giáo chủ nào sáng lập rõ cả. Sự duy trì và truyền bá này hoàn toàn phụ thuộc vào các giáo sĩ mà thôi. Có một điều chúng ta không thể phủ nhận, dù Ấn độ giáo không được truyền bá rộng rãi như Phật giáo nhưng ở tại Ấn độ nó có ảnh hưởng rất lớn và số lượng tín đồ rất đông, chiếm tỉ lệ 83% dân số [số lượng này được các nhà nghiên cứu thống kê vào năm 1991]

    Đề cập đến Phật giáo, người ta thường gọi Phật giáo là đạo của Từ bi, trí tuệ hay là đạo của sự giác ngộ, giải thoát. “Mặc dù ngày nay tại Ấn độ Phật giáo không có nhiều tín đồ, các Phật tử vẫn xem Ấn độ là đất thánh khai sinh ra Phật giáo, vì lịch sử Phật giáo bắt đầu tại đó và hầu hết kinh điển Đạo Phật đều được kết tập tại Ấn độ”. [18, 95]

    Trong hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, Phật giáo đã phát triển và lan rộng đến rất nhiều nước trên thế giới và có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với đời sống của hàng triệu triệu trái tim con người. Hàng mấy ngàn năm qua, giáo lý Phật giáo luôn là kim chỉ nam định hướng cho nhận thức, hoạt động của con người và góp phần giáo dục, hoàn thiện nhân cách cho từng cá nhân. Như khi nói về tầm quan trọng của giáo lý Bát Thánh Đạo, Giáo sư Rhys David-Chủ tịch hội Pàli Text Society nói: “Dầu là phật tử hay không phải là Phật tử, tôi nghiên cứu từng hệ thống tôn giáo lớn trên thế giới và trong tất cả, tôi không tìm thấy trong tôn giáo nào có cái gì tốt, cao đẹp và toàn diện hơn Bát Thánh Đạo của Đức Phật. Tôi chỉ còn có một việc làm là thu xếp nếp sống tôi cho phù hợp với con đường ấy”.

    Hiện nay nhân loại đang phải đấu mặt với nhiều hiểm họa, tệ nạn, khủng hoảng, như chiến tranh, tệ nạn ma túy, HIV, khủng hoảng về môi trường, cũng như về đạo đức……; đây là những vấn đề liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của loài người. Nếu con người biết quay về với Phật giáo, sống theo những lời Phật dạy thì những vấn đề trên sẽ được giải quyết một cách có hiệu quả nhất. Thực hiện theo giáo lý Phật đà thì chắc chắn chúng ta sẽ xây dựng nên một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh thật sư ỉ- một xã hội “Cực lạc” tại nhân gian.

    Nói chung, trong hơn hai mươi thế kỷ qua, những tư tưởng triết lý của Phật giáo và Ấn độ giáo “vẫn dồi dào sức sống, hùng vĩ như dãy Hy mã lạp sơn, cuồn cuộn như nước sông Hằng và rực rỡ như bông hoa Patala nơi rừng đại ngàn Ấn độ”. Nó không những hóa thân vào các phong tục, tập quán truyền thống văn hóa của Ấn độ nói riêng mà còn ảnh hưởng sâu đậm đến nhận thức, hành động của nhân loại nói chung.


    Thích Lệ Duyên

    _________________

    TÀI LIỆU THAM KHẢO

    [1] Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung Bộ I, II, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1993.

    [2] Thích Minh Châu dịch, Kinh Tương Ưng Bộ III, IV Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1993.

    [3] Thích Minh Châu dịch, Kinh Tăng Chi Bộ III, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1996.

    [4] Thích Minh Châu dịch, Kinh Pháp Cú, Thiền Viện Vạn Hạnh, 1996.

    [5] Minh Chi, Giáo trình Triết học Ấn độ.

    [6] Minh Chi, Các Vấn Đề Phật Học, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1995.

    [7] Minh Chi, Thuyết Bốn Đế, Trường Cao Cấp Tp HCM, 1996.

    [8] Doãn Chính chủ biên, Veda Upanishad-những bộ kinh triết lý tôn giáo cổ Ấn độ, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2001.

    [9] Doãn Chính, Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn độ, NXB Thanh Niên, 1999.

    [10] Doãn Chính, Lịch sử triết học Ấn độ cổ đại, NXB Thanh Niên, 1999.

    [11] Doãn Chính chủ biên, Kinh văn của các trường phái triết học Ấn độ, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2003

    [12] Will Durant-Nguyễn Hiến Lê dịch, Lịch sử văn minh Ấn độ, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2004.

    [13] Nguyễn Tấn Đắc, Văn hóa Ấn độ, NXB Tp HCM, 2000.

    [14] Michael Jordan-Phan Quang Định dịch, Minh triết phương đông, NXB Mỹ Thuật, 2004

    [15] Thích Mãn Giác, Lịch sử triết học Ấn độ, Ban tu thư Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1967.

    [16] Nguyễn Đức Hàn, Tư tưởng triết học và đời sống văn hóa văn học Ấn độ, NXB Văn Học, 1998

    [17] Cscott Littleton-Trần Văn Huân dịch, Trí tuệ phương đông, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2002

    [18] Theodore M. Ludwig-Dương Ngọc Dũng, Hà Hữu Nga, Nguyễn Chí Hoan dịch, Những con đường tâm linh phương đông, phần I Các tôn giáo khởi nguyên từ Ấn độ, NXB Văn Hóa Thông Tin, 2000.

    [19] Vũ Dương Ninh, Lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo Dục, 2000.

    [20] Nguyễn Gia Phu, Lịch sử tư tưởng phương đông và Việt nam, Tủ sách Đại Học Tổng Hợp, 1996.

    [21] W. Rahula-Thích Nữ Trí Hải dịch, Con đường thoát khổ, Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1966.

    [22] H.W.Schumann-Trần Phương Lan dịch, Đức Phật lịch sử, NXB Tp HCM, 2000.

    [23] Nàrada Thera-Phạm Kim Khánh dịch, Đức Phật và Phật pháp, NXB Tôn Giáo, 2003.

    [24] Kimura Taiken-Thích Quảng Độ dịch, Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận.

    [25] Kimura Taiken-Thích Quảng Độ dịch, Đại thừa Phật Giáo tư tưởng luận.

    [26] Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận, NXB Tp HCM, 1999.

    [27] Nguyễn Khắc Thuần, Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam tập II, NXB Giáo Dục, 2002.

    [28] Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử triết học phương đông tập 3, NXB Tp HCM.

    [29] Lương Duy Thứ chủ biên, Đại cương văn hóa phương đông, NXB Đại Học Quốc Gia Tp HCM, 2000

    [30] Hoàng Tâm Xuyên chủ biên, Mười tôn giáo lớn trên thế giới, NXB Chính Trị Quốc Gia, 1999.

    Giảng sư

    • Vào tháng 12-1999, nhiều nhà nghiên cứu về Ấn Độ giáo từ các miền khác nhau trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Đô, Bỉ và Hoa Kỳ... gặp nhau tại New Delhi để thảo luận về vấn đề Phật giáo có liên quan đến Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo hay không? Các học giả đưa ra giả thiết rằng Phật giáo là một xu hướng chống lại nghi thức tôn giáo Vệ đà hoặc một tôn giáo độc lập có truyền thống riêng biệt.




      Vấn đề càng phức tạp hơn cho những người Ấn có tín ngưỡng mạnh mẽ, hoặc một sô những người khác thiên về lý thuyết và lịch sử, hoặc một số những người khác cho là đã có sự giải thích sai trong sự nghiên cứu tiền sử. Thực tế, cách tiếp cận khác nhau của những nhà nghiên cứu đó cho thấy tính nghiêm túc, phức tạp và ý nghĩa của vấn đề này.

      Hơn bốn thập niên qua, sựkhác nhau trong nhữngcách tiếp cận này đã gây ra nhiều vấn đề trong việc nghiên cứu tôn giáo. Và kết quả là nhiều tác phẩm văn học trong các ngôn ngữ khác nhau như Anh, Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật, Pháp và Đức... đã được xuất bản liên quan với chủ đề này. Trong lời giới thiệu cuốn sách 2500 năm của đạo Phật [2500 Years of Buddhism, New Delhi, 1956], một trong những học giả Ấn Độ nổi tiếng, ông S. Radhakrishnan đã mô tả Phật giáo như "một nhánh của tín ngưỡng cổ xưa hơn đạo Hindu, có lẽ là một dị giáo". Từ khi Bà La Môn giáo thống trị lĩnh vực học thuật của Ấn Độ khoảng một thiên niên kỷ, chắc chắn là những học giả Ấn Độ, tương tự như S. Radhakrishnan đã cố gắng tóm kết lịch sử Phật giáo Ấn Độ và mở rộng từ quan điểm riêng này.

      Ba vị thần tối cao của Ấn Độ giáo gồm: Brahma là đấng tạo hóa [the Creator] Thần Vishnu là thần bảo hộ và gìn giữ, Shiva là vị thần của hủy diệt nhưng cũng là sinh đôi và phát triển.


      Xung đột giữa Phật giáo và Bà La Môn giáo, sự biến đổi di sản Phật giáo tại Ấn Độ và sự biến mất Phật giáo [tôn giáo đã từng là niềm tin sống động từ đất Ấn suốt trong nhiều thế kỷ thời đầu trung cổ] là những nguyên nhân để các nhà nghiên cứu tìm hiểu về nền văn minh Ấn Độ cổ xưa và sự truyền bá quan điểm Bà La Môn giáo suốt thời kỳ trung cổ cho đến ngày nay. Tuy vậy, Phật giáo cần phải được nghiên cứu từ quan điểm Phật giáo. Những quan hệ của nó với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo cần phải được quan sát từ quan điểm lịch sử cụ thê bằng phương pháp khoa học.

      Bài viết này tập trung vào mối bất đồng của chúng tôi về những lý thuyết hiện thời về nguồn gốc Phật giáo có mối liên hệ với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo.


      Một điệu múa của người Ấn


      1. Nguồn gốc Phật giáo

      Dường như ơ Ấn Độ có một khuynh hướng mô tả Phật giáo như là một giáo phái của Ấn Độ giáo, xem Phật Thích Ca là một vị Hindu, và tô màu Ấn Độ giáo giống như công giáo để chống Vệ đà và tà thuyết như Đức Phật Thích Ca. Lý thuyết lợi hại này đã được truyền bá kỹ lưỡng và cẩn thận tại Ấn Độ khiến những học giả và sử gia phải mất nhiều thời gian để loại trừ những ảo tưởng này và vạch rõ phương cách cho việc nghiên cứu Phật giáo nghiêm túc từ quan điểm lịch sử bằng phương pháp khoa học. Khuynh hướng này tại Ấn Đô đã cho thấy sự hiểu biết rộng rãi của đa số quần chúng quan tâm tới Phật giáo và chủ yếu cho thấy thái độ chung của người Ấn khi nhìn Phật giáo bằng những cách giải thích của họ.
      Nói chung, hiện nay phần lớn trong cuộc sống người Ấn có một lòng tin mạnh mẽ đối với Ấn Độ giáo hơn là với Phật giáo, mặc dù Phật giáo có ảnh hưởng sâu xa hơn Ấn Độ giáo cả về học thuyết lẫn thực nghiệm.


      Thông thường dễ thấy rằng Ấn Độ giáo [thật ra là một tôn giáo mới xuất hiện ở Ấn Độ], đã chuyển đổi hầu hết dân Ấn Độ thành tín đồ của mình, giữ độc quyền không những về tâm linh, mà còn cả về các lĩnh vực đời sống, tư tưởng chính trị, kinh tế và khoa học. Tuy nhiên, xu hướng này – theo cách tư duy chính thống – đã tách người Ấn Độ ra khỏi cộng đồng thế giới, khi nhân loại đã bước vào thế kỷ thứ XXI.
      Thái độ đối với Phật giáo của những người Hindu nói chung cho rằng Phật giáo là một phần của Ấn Độ giáo, Phật giáo hòa trộn vào trong Ấn Độ giáo, Đức Phật Thích Ca là một nhà đại cách tân Hindu và đồng thời là một vị thần Hindu vĩ đai.
      Sự việc này khiến chúng ta phải khảo sát cẩn thận và đưa ra cách suy nghĩ khác rằng, Phật giáo là một tôn giáo độc lập và riêng biệt, không thể nghiên cứu vượt ra ngoài nhận thức lịch sử và khoa học. Người ta có thể nhận thấy rằng, hiện tại người Ấn Độ có cảm giác tự hào về tôn giáo đáng kính yêu, về nền văn hóa Vệ đà và những học thuyết thần thánh của họ mỗi khi chúng ta tình cờ gặp họ hoặc thảo luận với họ.
      Quan điểm của nhiều học giả đều cho rằng có một số học giả tâm huyết với Vệ đà và Bà La Môn giáo [những sử gia Ấn Độ hiện đại, những người lãnh đạo và những nhà tư tưởng quốc gia] đều mô tả Phật giáo như một phần của tín ngưỡng cổ xưa hơn Hindu và có lẽ là một phân giáo, lúc đó được xem như tà giáo.
      Một số học giả Hindu – chuyên chú về Phật học hoặc nghiên cứu vài vấn đề nào đó của Phật giáo hoặc vài tác phẩm về Phật giáo – kết luận rằng Phật giáo đã chịu ảnh hưởng sâu xa từ tư tưởng Vệ đà ngay từ nguồn gốc của nó và là một dị giáo của Bà La Môn giáo. Theo khảo cổ, ít ra, chúng ta không thể coi Phật giáo đơn thuần như một “tà giáo” đối chọi lại tính chính thống Ba La Môn đang phổ biến, mà ngược lại, Phật giáo cần nên được xem xét như một phương pháp thực nghiệm độc lập mang tính lịch sử – một phương pháp sống – và tạm gọi là một tôn giáo cổ xưa hơn Hindu.
      Như được trình bày ở trên, lý thuyết hiện thời về nguồn gốc Phật giáo đã cho chúng ta biết rằng quan điểm của Vệ đà và Bà La Môn đã gây ảnh hưởng và giữ độc quyền không những về lĩnh vực hệ tư tưởng Ấn Độ, mà còn cả lĩnh vực nghiên cứu xã hội va lịch sử về Phật giáo đối với Bà La Môn giáo. Lịch sử nguồn gốc của Phật giáo, nói gọn trong một câu, đó là chuyện ngoài đường phố của những trẻ Hindu mới lớn không quan tâm đến kiến thức lịch sử và khảo cổ tôn giáo Ấn Độ cổ xưa. Để phơi bày và làm minh bạch những đặc tính thật của Phật giáo, chúng ta có thể đặt vấn đề đúng đắn để xem Phật giáo có quan hệ như thế nào với tín ngưỡng Bà La Môn giáo chính thống cổ đại vào thời kỳ ban đâu.

      2. Quan hệ Phật giáo với Bà La Môn giáo

      Chúng tôi sẽ đề cập đến quan điểm của một trong những học giả Ấn nổi tiếng, ông S. Radhakrishnan, quan điểm của ông có thể được xem như một quan điểm đang phổ biến tại Ấn Độ về mối quan hệ giữa Phật giáo và Bà La Môn giáo. Các điểm nổi bật trong quan điểm của Radhakrishnan có thể được tóm tắt như sau: Đức Phật đã không cảm thấy rằng Ngài đang công bố một tôn giáo mới; Ngài sinh ra, lớn lên và từ trần như một Hindu; Ngài đã tuyên bố với sự nhấn mạnh mới về những lý tưởng cổ xưa của nền văn minh Indo – Aryan. Xu hướng ý thức hệ của nhà học giả Ấn Độ này về Phật giáo chủ yếu đề cập tới những diễn dịch mang tính truyền thống [Traditional Interpretation], duy vật [Materialistic Interpretation] và trào lưu chính thống [Fundamentalist Interpretation] của Phật giáo liên quan với Bà La Môn giáo chính thống.

      Thầy Bà La Môn giáo đang làm tế lễ trong cung vua Tịnh Phạn thời Đức Phật. Ảnh: phim Đức Phật


      Sự giải thích về truyền thống có nghĩa rằng Phật giáo vượt ra ngoài xu hướng chống đối nghi thức tôn giáo của các Brahmanas như những học giả Bà la môn đã nói. Thực tế là lịch sử Ấn Độ cổ đại ghi nhận rằng có hai hệ tư tưởng đối lập đó là: thế giới – khẳng định đại diện bởi các đạo sư Brahmanas theo truyền thống Vệ đà [Bà La Môn giáo] và thế giới – siêu việt [thế giới – phủ định] đại diện bởi các bậc ẩn sĩ khổ hạnh Sa môn thuộc truyền thống phi Vệ đà [Phật giáo].
      Về lịch sử, rõ ràng cả Phật giáo lẫn Bà La Môn giáo là đại diện cho hai truyền thống riêng biệt: truyền thống Vệ đà và truyền thống Sa môn. Thế nên, thật không thích hợp để thiết lập lý thuyết nguồn gốc Phật giáo từ Vệ đà được.
      Sự giai thích theo duy vật của một vài học giả, dưới ảnh hưởng biện chứng theo duy vật lịch sử do Karl Marx đề xướng, nhằm tương quan với tư duy khổ hạnh và kiến tri – từ thời Đức Phật [624-544 trước Tây lịch] cho tới sự trỗi lên cua chủ nghĩa tư bản và kinh tế thương mại tầng lớp trung lưu. Tuy nhiên, cách nhìn này hoàn toàn là suy đoán và viển vông, vì không có bằng chứng rõ ràng để chứng minh sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản trong cảm quan của người theo học thuyết Marx mà cũng không có chứng cớ tổ chức giai cấp trung lưu kiểm soát trọn vẹn kinh tế – tiền tệ xã hội ở thế kỷ thứ VII và thứ VI trước Tây lịch. Hơn nữa, thực không thể nào cho rằng những lý tưởng tinh thân của Bồ tát [Bodhisattva: sẽ trở thành Phật] được xác định bởi ý thức xã hội theo hệ quả của tiến trình vật chất; thực ra lối giải thích theo duy vật máy móc này chỉ là một bằng chứng bộc lộ sự thô thiển trong nghiên cưu của họ.
      Còn giải thích theo trào lưu chính thống có nghĩa rằng đối với số ít người theo đạo Hindu thì Đức Phật là người phá vỡ tín ngưỡng sùng bái thần tượng Bà la môn, vì những yếu tố cơ bản nhất của Bà La Môn giáo thời kỳ tiền Phật giáo: tế lễ – hy sinh và học thuyết bốn giai cấp, những điều bị Đức Phật chỉ trích. Mặc dù Đức Phật thuyết pháp, kêu gọi lòng từ bi đối với muôn loài, phải giới hạnh thanh tịnh, phải tuệ tri rõ ràng về sự tồn tại hoặc không tồn tại của một tự ngã thường hằng... nhưng cuối cùng toàn bộ lâu đài Phật giáo cũng bị suy tàn và sụp đổ. Lời phê bình và lên án Phật giáo không chỉ đơn thuần liên quan tới triết học và lịch sử của Phât giáo mà chính là khuynh hướng trào lưu chính thống đối với các tôn giáo khác. Như chúng ta đã thấy ở trên, Phật giáo được xem là có liên quan với Bà La Môn giáo như chủ trương của vài học giả Ấn Độ đại diện quan điểm truyền thống hiện đang nắm giữ độc quyền trong giới trí thức Ấn Độ. Đề tài này thường được đem ra thảo luận giữa các tôn giáo khác nhau, hoặc trong khuynh hướng ý thức hệ xã hội Ấn Độ và trong giới nghiên cứu của hàn lâm viên tôn giáo. Vài học giả Ấn Độ hiện đại, với niềm tin mạnh mẽ vào Vệ đà và Bà La Môn đã thử làm một sự đồng hóa học thuyết của Phật giáo với Bà La Môn giáo. Điều nhấn mạnh ở đây, họ muốn chỉ ra rằng Phật giáo, do bị ảnh hưởng sâu xa bởi tư tưởng Vệ đà, đã vượt ra khỏi xu hướng chống đối nghi thức của Brahmanas; nói cách khác, nó là một tà giáo hoặc một người theo dị giáo của Bà La Môn giáo.

      3. Quan hệ Phật giáo với Ấn Độ giáo

      Cả trong quan điểm của người Ấn bình thường lẫn người Ấn học thức uyên bác, Phật giáo và Ấn Độ giáo được xem như là một, vì có vài sự giống nhau về lý thuyết và thực hành của cả hai, thực ra Phật giáo và Ấn Độ giáo là hai hệ thống hay hai truyền thống tôn giáo tuyệt đối khác nhau.
      P.V. Kane, một nhà Ấn Độ học nổi tiếng, đã sai lầm khi cho rằng: “Đức Phật là một nhà cải cách lớn đạo Hindu. Ngài đã không cảm thấy, hoặc tuyên bố là Ngài đang thành lập một tôn giáo mới mà cũng không tuyên bố từ bỏ đạo Hindu”. Tuy nhiên, khi chúng tôi nói về mối liên quan giữa Phật giáo với Ấn Độ giáo, thật là hữu ích nếu chúng ta khảo sát cẩn thận thuật ngữ “Hindu” từ góc độ lịch sử, ngôn ngữ và khảo cổ.
      Quan hệ Phật giáo với Ấn Độ giáo cần phải xem xét từ quan điểm lịch sử và góc độ khoa học. Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại, cho rằng chính Đức Phật tuyên bố đã dạy con đường của bậc thánh Hindu cổ xưa và cho thấy rằng Đức Phật không cảm thấy Ngài đang công bố một tôn giáo mới. Từ “Hindu” không xuất hiện trong lời tuyên bố của Đức Phật; và Ngài cũng không đề cập tới những thánh nhân Vệ đà hoặc những nhà tiên tri Indo-Aryan hoặc Brahmanas là những đạo sư hướng dẫn Ngài tu tập.
      Về phương diện ngôn ngữ, thuật ngữ “Hindu” là từ ngoại lai có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư và Ả-rập, và tượng trưng cho những hình thức tôn giáo Bà La Môn và Ấn Độ thời trung cổ. Từ Hinduism bắt đầu sử dụng trong các truyền thống tôn giáo Ấn Độ, thông thường với quan niệm để phân biệt với đạo Cơ Đốc và Hồi giáo tại Ấn Độ. Chúng ta không thể sử dụng từ Hinduism vào thời kỳ tiền Puran Bà La Môn giáo của Vệ đà và Upanisad, mặc dù đạo Hindu thời trung cổ đã lập nền tảng rồi mở rộng tới phạm vi nào đó trong tôn giáo Vệ đà, giống như đạo Do Thái trước sự giáng sinh của Jesus Christ không thể được gọi chính xác đạo Thiên Chúa mặc dù đạo Thiên Chúa được thành lập trước đạo Do Thái.
      Về mặt khảo cổ học, không thấy sự xuất hiện từ “Hindu” trong bất kỳ nguồn tài liệu khảo cổ hoặc văn học Ấn Độ cổ đại, và chưa từng được khám phá từ thời Alberuni [khoảng 1030 Tây lịch]. Có lẽ, đầu tiên ông ta đề cập tới người Ấn Độ phi Hồi giáo là “Hindus” có nghĩa là “Những người không theo đạo”. Thuật ngữ “Hindu”, một dạng của “Sindhu”, trước hết do người Ba Tư sử dụng, xuất hiện cùng với từ “Gadara”, một hình thức của “Gandhara” xuất hiên trong bia ký của vua Darius xứ Iran; và ở đây được dùng theo ý nghĩa địa lý là biểu thị cho dân tộc hoặc một đất nước sống dọc theo sông Sindhu. Trong Ba Tư cổ đại, “Sa” được phát âm như “Ha”; “Sindhu” được gọi “Hindu” từ đó tiếng Hy Lạp biến nó thành “Sintos” hoặc “Indos”, xuất phát từ tiếng Ba Tư và Ả-rập là Hindu và Hindustan; còn tiếng Anh gọi là Indian và India.
      Như chúng ta thấy ở trên, Phật giáo và Ấn Độ giáo khác nhau hoàn toàn từ quan điểm lịch sử lẫn quan điểm ngôn ngữ và khảo cổ, mặc dù có phần giống nhau giữa Phật giáo sau này và một số giáo lý của Ấn Độ giáo. Có một bằng chứng mạnh mẽ về ảnh hưởng của Phật giáo trong ngôn ngữ cũng như trong nhưng học thuyết của Ấn Độ giáo; bởi vậy, phải thừa nhận rằng chúng ta không thể hình dung Phật giáo là một sự đồng hóa của Ấn Độ giáo [thực sự về sau họ có vay mượn một số thuật ngữ và giáo lý quan trọng từ Phật giáo].
      Chúng ta có thể kết luận, thật không công bằng khi cho rằng Đức Phật như một “Hindu”, hoặc một nhà cải cách lớn của Hindu giáo, vì không có Ấn Độ giáo vào thời của Ngài.
      Từ thảo luận ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng những lý thuyết hiện thời về nguồn gốc của Phật giáo và những mối quan hệ của nó với Bà La Môn giáo và Ấn Độ giáo đã được chi tiết hóa bởi những học giả Ấn Độ hiện đại có quan điểm Vệ đà và Bà La Môn, hoàn toàn chỉ là suy đoán. Hơn nữa, chính do hiểu rõ về mặt lịch sử, Phật giáo – một trào lưu chính thống nhất của phong trào chống lại Vệ đà và Bà la môn [truyền thống Sa môn] – đã xuất hiện như một tôn giáo riêng biệt và độc lâp tại Ấn Độ vào thế kỷ VI trước Tây lịch không thể được xem là bị ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng Vệ đà. Ngược lại, cả Bà La Môn giáo lẫn Ấn Độ giáo, học thuyết về bốn giai cấp và sự hy sinh tế lễ đã bị Đức Phật chỉ trích, mặc dù hiện nay chúng vẫn còn hiện hữu trong những cộng đồng của đạo Hindu.
      Chúng ta không thể nghiên cứu tôn giáo từ lập trường ý thức hệ riêng biệt này hoặc kia đơn thuần chỉ vì lòng tin của chúng ta hoặc đơn thuần bởi vì tình cảm đặc biệt của chúng ta đối với tôn giáo đó. Nếu vậy, cách nhìn của chúng ta sẽ bị phiến diện dù chúng ta đang làm một công việc quan trọng về nghiên cứu so sánh các tôn giáo.
      Thật sai lầm khi ủng hộ quan điểm Hindu hiện đại cho rằng chính Đức Phật tuyên bố đã đưa ra con đường của thánh nhân “Hindu” cổ xưa và để cho thấy rằng Đức Phật không xác định Ngài đang công bố một tôn giáo mới.
      Hơn nữa, không có sự tương ứng hoặc thỏa thuận quan điểm cơ bản giữa Bà La Môn giáo và Phật giáo thời kỳ ban đầu; hai truyền thống tôn giáo này có những nền tảng khác nhau trong kỷ nguyên Vệ đà tiền sử và trong thời Đức Phật tại thế.
      Như chúng ta vừa đề cập ở trên về mặt ngôn ngữ và khảo cổ, từ “Hindu” có liên quan với tiếng Ba Tư và Ả-rập thời Ấn Độ trung cổ. Bởi vậy, chúng ta không có lý do chính đáng để dùng từ “Hindu” và “Hinduism” trong bối cảnh lịch sử vào thời của Đức Phật Thích Ca; còn mệnh đề đạo “Hindu” liên quan đến Ấn Độ thời tiền Hồi giáo thì cũng vô nghĩa và sai lạc. Đức Phật không phải là một nhà Hindu, cũng không là một nhà cải cách lớn của Ấn Độ giáo, vì không có đạo “Hindu” vào thời Ngài, mà chỉ duy nhất có Bà La Môn giáo nguyên thủy và Vệ đà. Rõ ràng lời dạy của Đức Phật đã cải cách nhiều phương pháp tu tập không hoàn hảo của Vệ đà, nhưng Ngài đã không tuyên bố là một nhà cải cách. Và không có kinh điển Hindu cũng như của Bà La Môn nào nói đến Ngài như một nhà cải cách.



      Sách tham khảo
      1. Kalupahana, D.J., 1992, A History of Buddhist Philosophy, the University of Hawaii Press.
      2. Joshi, L.M., 1987. A comparative study of Buddhism and Hinduism, Journal of Indian Civilization, volume 6. No.2- [Summer], 15-39, Sri Lanka.
      3. Kane, P.V., 1994. Dialogues of the Buddha, Journal of Religious Researches, volume 2, No.1 [Spring], 23-35, India.
      4. Rhys Davids, T.W., 1936. Ascetics of prehistoric Indian and Indus Civilization, Journal of Indology, volume 14, No.1 [Winter], 15-48, London.
      [Trích từ The Indian International Journal of Buddhist Studies, No.4, 2004, Varanasi; Aditya Shyam Trust, 2003, tr.3-7].


      Theo: //giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=72D651

      CHENG JIANHUA

      GIỚI HƯƠNG chuyển ngữ


      Từ khóa: Quan hệ Phật giáo với Bà La Môn giáo1 Ấn Độ giáo2 Bà la môn giáo1

    Mục lục

    • 1 Từ nguyên
    • 2 Những chi phái Ấn Độ giáo quan trọng nhất
      • 2.1 Ấn giáo thời Văn minh lưu vực sông Ấn Độ
      • 2.2 Ấn giáo vệ-đà
        • 2.2.1 Nguồn gốc và thánh điển
        • 2.2.2 Bà-la-môn giáo
      • 2.3 Ấn giáo Tì-thấp-nô
      • 2.4 Ấn giáo Thấp-bà
      • 2.5 Ấn giáo Tính lực
      • 2.6 Ấn giáo Bất nhị Phệ-đàn-đa nhất nguyên
      • 2.7 Tân Ấn Độ giáo
      • 2.8 Ảnh hưởng đến các tôn giáo khác
    • 3 Cơ sở chung của các nhánh Ấn Độ giáo
      • 3.1 Luân hồi
      • 3.2 Chế độ đẳng cấp
      • 3.3 Tôn thờ Thánh tượng
    • 4 Số lượng tín đồ
    • 5 Xem thêm
    • 6 Chú thích
      • 6.1 Ghi chú
      • 6.2 Web
    • 7 Tham khảo
    • 8 Liên kết ngoài

    Từ nguyênSửa đổi

    Kể từ thế kỉ 16 các nhà truyền giáo và du khách phương Tây thường nhắc đến tôn giáo và phong tục Ấn Độ và thường gọi những người bản xứ này là "ngoại đạo" [en. pagan, de. Heiden] nếu họ không tự nhận mình theo một trong các tôn giáo lớn [Ki-tô giáo, Do Thái giáo hoặc Hồi giáo]. Họ được gọi theo tiếng Latin là gentiles, tiếng Bồ Đào Nha là gentio và từ đó ra tiếng Anh là gentoo và tiếng Hà Lan/tiếng Đức là Heyden [Heiden]. Đến thế kỉ 18 thì từ "Hindoo" [tiếng Ba Tư Hindu] bắt đầu được dùng và cuối cùng, trong thế kỉ 19, danh từ "Hinduism" trở nên rất thông dụng. Như vậy thì từ "Hinduism" - được dịch là Ấn Độ giáo ở đây - không phải là một danh hiệu tự xưng của một tôn giáo Ấn Độ. Nhưng tên này lại ảnh hưởng đến quan điểm tự nhận của phong trào Tân Ấn Độ giáo [Neo-Hinduism] trong thế kỉ 19 và thế kỉ 20 vì nó gợi ý một sự thống nhất tôn giáo trong cuộc chiến giành độc lập Ấn Độ, và được dùng để phản ứng các khuynh hướng phân chia ngày nay.

    Tuy vậy, từ Hinduism có thể gây hiểu lầm. Khi người ta bắt đầu dùng nó thì đã dựa trên hai điều kiện tiên quyết không đúng. Thứ nhất là người ta tin là từ phái sinh từ gốc Ba Tư Hindoo [Hindu] chỉ tín đồ của một tôn giáo nhất định. Thứ hai là người ta cho tất cả những người Ấn đều là tín đồ của tôn giáo này nếu họ không theo các tôn giáo lớn còn lại, ví như Hồi giáo, Công giáo, Do Thái giáo, Phật giáo, Kì-na giáo. Cả hai điều kiện tiên quyết bên trên đều bị nhìn nhận sai. Danh từ Ba Tư "Hindu" chỉ có nghĩa tương đương với từ có gốc Hy Lạp là "Indian", và cả hai đều có gốc từ tên con sông lớn Ấn Độ [tiếng Phạn: sindhu, tiếng Ba Tư: hindu, tiếng Hy Lạp: Indós], đã mang đến đất nước nó chảy qua tên này: Hindus là những người xuất xứ từ nước Ấn Độ [india]. Ngay khi người Hồi giáo nói tiếng Ba Tư đến xâm chiếm, phân biệt giữa tín đồ Hồi giáo và Hindus thì sự việc này cũng không có nghĩa là tất cả những người Hindu đều là tín đồ của một tôn giáo.

    Ngày nay, người ta biết được hàng loạt tôn giáo của người Ấn Độ và các thông tin nghiên cứu ngày càng phong phú. Thế nên, từ "Hinduism", "Ấn Độ giáo", không thể mang nghĩa là một tôn giáo nhất định của người Ấn mà chỉ là cách gọi mang ý nghĩa bao quát, chỉ một nhóm tôn giáo có sự tương quan với nhau, nhưng khác biệt nhau, xuất phát từ Nam Á [Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh]. Các tôn giáo này dù có quan hệ với nhau nhưng cũng khác nhau như sự khác biệt giữa Do Thái, Phật, Thiên chúa và Hồi giáo. Chúng có những khái niệm thượng đế khác nhau, có những pho thánh điển khác nhau cũng như những phương pháp tu tập, hình thức thực hiện nghi lễ khác nhau. Chúng có những hệ thần học khác nhau, lập cơ sở trên những nhà thần học, những bậc đạo sư khác nhau, và tôn xưng các thần thể khác nhau như vị Thần tối cao.

    Một cách gọi thường gặp nhưng không chính thức và cũng không chính xác của tín đồ Ấn giáo là Sanātana-dharma [सनातनधर्म], nghĩa là "Pháp trường tồn". Các tên khác như vaidikadharma [Ấn giáo Phệ-đà] hoặc brāhmaṇa, brāhmaṇya [Bà-la-môn giáo] chỉ nêu được những nhánh của Ấn Độ giáo mà thôi.

    Video liên quan

    Chủ Đề